Chương Bốn: Cứu-Chuộc nhờ tình Thương-yêu Công-chính
(bài 21)
Phần 2: Ơn Cứu-Chuộc và lời cầu Chúa xót thương
Tham dự Tiệc Thánh, ta thường dâng lên Chúa lời kinh mai như sau:
“Lạy Chúa, xin dủ tình thương xót chúng con,
“Lạy Đức Kitô, xin dủ tình thương xót chúng con.”
Với từ-điển Oxford khổ nhỏ, lòng xót thương đã được định nghĩa, như sau:
“Xót thương là: lòng trắc-ẩn độ-lượng vẫn phú ban cho người không quyền-lực, đặc biệt là những người phạm lỗi, hoặc ai đó, tuy không đòi hỏi nhưng vẫn được đối-xử tử-tế tốt-lành, cả vào trường-hợp có sự cung-kính rất trông mong.”
Vì trông mong, nên người người vẫn tự đặt mình luôn sẵn-sàng hứng-nhận lòng từ-bi, trắc-ẩn từ Đức Chúa với lòng tin-tưởng vượt bực, như kẻ phạm lỗi trước phiên toà xét xử về sự công-bằng nơi nhân-loại. Từ-vựng “Mercy” bên tiếng Anh, xem ra như còn đề-nghị nhiều điều vượt cả sự công-minh/chính-trực, vượt lằn ranh giới-hạn tình xót-thương bình-thường, nữa. Nơi phụng-vụ, ta còn nghe biết lời cầu Chúa xót-thương, như ở câu: “Lạy Thánh-Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con!” Thương xót đây, mang ý-nghĩa một đợi-trông rất cẩn-trọng. Cẩn-trọng để Chúa xót-thương những người cầu-khấn được miễn-chuẩn, không đòi phải sống tốt đạo/đẹp đời, mới được thế.
Ở Sách-Thánh, từ-vựng “xót thương”, cũng ít thấy. Đúng hơn, ta chỉ thấy sự tin-tưởng trọn-vẹn vào Đức Chúa, là Đấng thương-yêu con người vẫn rất mực. Và, Ngài sẽ còn yêu-thương ta mãi đến muôn thuở, muôn đời. Với Thánh vịnh 25, người cầu-khấn vẫn đưa vào lời kinh đêm, những câu nói thân thương, như sau:
“Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu
Ngài từng biểu-lộ từ muôn thuở muôn đời.” (Tv 25: 6)
Xem thế thì, đây là chuyện Chúa vẫn gần cận, thân thương với con người. Ngài vẫn tỏ lòng từ-ái thủy-chung với họ từ ngàn đời; và lòng nhân-ái ấy sẽ còn kéo dài mãi đến thiên-thu. Nơi lời kinh đêm hôm trước, người người lại vẫn dâng lên Chúa lời cầu-khấn thân-thương, như sau:
“Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” (Tv 25: 7).
Lầm lỡ/trót dại thời son trẻ, thật ra chỉ là đốm sáng hiện trên màn hình của thời bé bỏng đã qua trong dĩ-vãng, không thể nào khiến Chúa bận-tâm chia-trí, hoặc lo ra được. Bởi thế nên, lời kinh hôm nào lại vẫn nhắc:
“Xin Ngài đừng nhớ đến những lỗi/tội con trót phạm,
nhưng hãy lấy tình thương-yêu mà nhớ đến con cùng.”
Tình thương đây, tiếng Do-thái gọi là “hesed”, tức lòng từ-ái, mẫn-cảm kéo dài đến thiên-thu, vạn-đại. Tiếng Aram xưa, gọi đó là “rahamim”. Còn tiếng La-tinh, lại dịch là lòng mẫn-cảm đầy thương-xót. Sách thánh bản Vulgata có chữ “Douai” ý nói lòng trắc-ẩn, độ-lượng. Tiếng Do-thái sử-dụng từ-vựng này ở số nhiều, là do từ thuở ban-sơ thời nguyên-thủy đã có từ-vựng mang nhiều nghĩa, như: tình dịu hiền êm ả, sự tử-tế tốt-lành, lòng mến-thương độ-lượng, nhiều trắc-ẩn. Thế nên, từ-vựng “Mercy” ở tiếng Anh không bao-hàm nhiều nghĩa đến độ thế.
Một số dịch-giả Kinh thánh bản 70, khi xưa cũng tìm cách dịch chữ “oiktimoi” ở tiếng Hy-Lạp cho đúng văn-bản gốc, nhưng bản dịch chính lại ghi là “lòng dạ đầy trắc-ẩn”. Thánh-vịnh lại có câu: “Hãy đem nó vào lòng dạ xót-thương đầy trắc-ẩn”. Tác-giả Tyndale gọi đó là “lòng trắc-ẩn dịu êm”. Còn, thánh Giacôbê khi trước, lại nói đến đặc-tính cảm-thông từ Đức Chúa. Nên hỏi rằng, thật ra thì lời kinh hôm dâng Chúa ở Tiệc Thánh như câu: Kyrie Eleison, Christe Eleison thật ra mang ý-nghĩa gì?
Tình-yêu
Qua kinh-nghiệm chú-giải
của Lm Christian Duquoc, o.p.
Những điều nhắc đến ở trên, có nói về tình thương-yêu cách chung chung, hoặc có bàn về loại-hình mến-mộ Chúa vẫn tỏ-lộ cho con người, chứ? Phải chăng, ta có nói cho nhiều, cũng diễn-tả không đủ tình Chúa thương-yêu con người và sự công-minh Ngài vẫn có, đúng thật là một, ư? Nhưng vấn-đề là hỏi rằng: làm sao lại như thế?
Lm Christian Duquoc o.p. cũng từng đặt câu hỏi: Đức Giêsu là Ai? Ngài thương-yêu con người đến độ nào?
Đức Giêsu xưa vẫn phán: thời buổi đã mãn. Thế nên, ngay từ đầu, Ngài cũng không đặt nặng những gì tuỳ-thuộc vào “thời buổi” theo hướng cơm-áo-gạo-tiền, hoặc theo nghĩa chính-trị và quyền-bính nơi đạo-giáo -như trình-thuật cơn cám-dỗ đầu lúc Chúa khởi sự cuộc sống công-khai đời rao giảng. Buổi đầu đời, Ngài không nhấn mạnh đến những gì khả dĩ khiến ta làm lại cuộc sống; hoặc: cải-thiện lịch-sử cách triệt-để, nào hết. Ngài cũng chẳng nối-kết với bất cứ đường-lối diễn-giải lịch-sử nào hết. Giả như ta nhận ra những điều như thế về Đức Giêsu, hẳn ta cũng không còn cách nào sử-dụng viễn-ảnh lịch-sử như đường lối chính-thức để hiểu rõ Ngài. Ta cũng chẳng tài nào hiểu được ý-nghĩa của sự việc giải-phóng hoặc chính đạo-giáo nữa. Điều này có ý bảo: Đức Giêsu đã tách rời khỏi mọi thứ đạo-giáo, hoặc theo cung-cách lịch-sử từng nhận-thức và thực-hiện, cho đến nay. Các phòng-trào này/khác ở lịch-sử hoặc đạo-giáo, vẫn chỉ tương-đối, thôi. Tương-đối, cả về thành-quả lẫn thất bại. Thiên-Chúa là Đấng siêu-việt, Ngài khác hẳn mọi thứ như thế. Do khác biệt, nên Ngài có khả-năng ở với nhân-loại cả vào lúc con người thành-công lẫn thất-bại. Mà, Ngài cũng chẳng cần dựa vào thành-quả hoặc thất-bại để đánh-giá con người. Ngài ở với con người, cả trong bản-chất rất thường tình của họ, chẳng cần họ thành-công hay thất-bại.
Đức Giêsu lâu nay sống-thực bằng nhận-thức rằng: tất cả những gì diễn-tiến trong lịch-sử và cuộc sống con người, và Ngài coi đó như những “mảnh vụn nhỏ”, tức một thứ gì đó không hoàn-tất. Ta nói thế, vì con người không biết đó là thứ gì, bởi ta không thấy và cũng chẳng nắm bắt được phần tổng-thể của những thứ như thế. Trong khi đó, Chúa lại trực-tiếp có cảm-quan về một Thiên-Chúa rất khác-biệt. Ngài có trực-cảm là ta phải làm sao để các mảnh vụn vẫn cứ là mảnh vụn. Ta không có khả năng tạo quan-niệm hoặc hoàn-tất “tổng-thể” ấy hầu để nó ăn khớp với những mảnh vụn như thế; và làm như thế mới tạo được ý-nghĩa cho mọi sự. Ta phải sống sao không cần đến những đó. Và, ta còn phải từ-bỏ lối sống kết-tụ không-tưởng đầy ngẫu-hứng giống như thế.
Đức Giêsu, thật ra, Ngài không muốn áp-đặt bất cứ hình-thức xã-hội hoặc mẫu-mực nào về chính-trị, đạo-giáo hoặc loại hình biến-đổi thiên-nhiên, hết. Bởi làm như thế, tức là ta đã chống lại nhận-thức về “mảnh vụn”.
Đức Giêsu từng học hỏi kinh-nghiệm sống tình-yêu bí-nhiệm ở trong và về các “mảnh vụn” thấp-hèn và thô-thiển, vốn dĩ không thể trở thành tổng-thể hoặc thành-phần tổng-thể ấy. Đó chính là “tình yêu” đơn thuần, bởi chỉ có tình-yêu mới tôn-trọng bản-chất đích-thực của “mảnh vụn nhỏ”. Đây, rõ ràng là sự độ-lượng nơi Tình Chúa thương-yêu ta.
Hồng-phúc an-lạc, diễn-tả uy-lực biến-đổi đang gần cận bên ta –nơi thế-giới gồm những “mảnh vụn nhỏ” có sự độ-lượng được kề-cận Chúa- vốn dĩ gắn liền vào sự thấp-hèn và thô-thiển. Lịch-sử cần gần-cận, chứ thật ra không là diễn-giải, phát xuất từ điểm tới của những yếu kém này.
Chính các “nơi” này, đích-thực là nơi dấy lên một sự sống vượt khỏi mọi khinh-miệt và bao-lực từ hệ-thống quyền-lực. Chính bằng việc tham-gia vào sự thể như thế, nên các cộng-đoàn tín-hữu của Chúa Kitô có thể gia-nhập Vương-Quốc Nước Trời như Lời Ngài diễn-tả ở Tin Mừng hoặc gia-nhập vào công-cuộc Tạo-dựng mới, như thánh Phaolô từng xác-quyết.
Là tín-hữu Đức Kitô, không có nghĩa là sống thụ-động, mà là khẳng-định một cách chủ-động niềm tin của mình rằng mỗi biến-cố lịch-sử đã trở thành thời-điểm cho niềm hy-vọng có sự hiện-diện của Chúa ở trong và ở với những gì là thô-thiển, thấp hèn. Theo nghĩa Chúa diễn-tả, thì những gì cần được bênh-vực/biện hộ không là lối ra từ thế-giới có nền lịch-sử và chính-trị thực-thụ, mà là sự gián-đoạn khỏi tầm nhìn của chính nó.
Ơn Cứu-Chuộc thành-toàn không phải chỉ nhờ duy có sự Thương khó mà thôi –mà sự Thương-khó của Đức Giêsu là thành-phần phải có trong điều-kiện thống-khổ của nhân-loại- và ngang qua lịch-sử cũng như tất cả những thứ đó có tác-dụng cứu-chuộc con người. Tác-giả Duquoc rất thích cái tiêu-đề do ông chọn khi viết về Ơn Cứu-Chuộc, bởi nó đem lại cho toàn thể lịch-sử cái-gọi-là “Bản Giao-hưởng được diễn tả cách chầm chậm”.
Chú-thích quan trọng:
Tôi vẫn nghĩ: ý-niệm về những “mảnh vụn nhỏ” nói ở trên chợt đến từ triết-học lãng-mạn. Từ cội nguồn, ý-niệm này được sử-dụng theo nghĩa của “Ánh lửa thần-thánh”, sau đó đã trải dài cách rộng rãi. Thoạt đầu, ý-niệm này được bắt gặp từ tư-tưởng đặc-biệt của Kierkegaard, sau đó có Nietzsche và đến thời Simone Weil nó càng hiện rõ hơn chí ít với lập-trường/quan-điểm của Walter Benjamin, nữa. Tác giả Benjamin đây lại cũng nói rằng các “mảnh vụn” lại đã “bão hoà” và “rực sáng” là yếu tố đảm-trách sự vô cùng/vô tận; và niềm hy-vọng thần-thánh về một cứu-chuộc không được “xác-định cho rõ”. Ở đây, tôi thấy có sự kết-nối tư-tưởng với tác giả T.S.Eliot, với Joyce, Kafka, vv...
Phần phụ thêm:
Năm 1999, Lm. Christian Duquoc, o.p. cũng viết một cuốn sách khác có đề-tựa: “Je crois en l’Eglse. Précarie institutionelle de Dieu, Paris, Cerf.
Ở đây nữa, tác-giả vẫn nhấn mạnh lên một điều là: tất cả mọi cơ sở -bất kể họ có tìm cách thực-hiện mọi sự việc tích-cực hay không- đều ra điêu-đứng/khổ sở về hoạt-động khác-thường của các thể-chế, vì họ cố duy-trì tính chính-thống của riêng mình. Điều này được lối biện-luận về chính-kiến mà ta gọi là thần-học, vẫn quan-tâm chứ? Tuy nhiên, sự việc tỏ cho ta thấy Thiên-Chúa hiện-diện ở thế-giới là do Ngài tự quyết-định như thế, và qua đó Ngài xoá bỏ chính mình Ngài nên như vậy. Thể-chế Giáo-hội lại cứ tuyên-bố: mình là chứng-nhân của một Thiên-Chúa như thế. Đúng ra, chỉ có Lời Chúa rất khác-biệt và không tinh-giản được, mới là nguồn-gốc và bảo-chứng cho việc thực sự mở lòng mình ra để trở thành quà-tặng của Thánh Thần Chúa, thôi. Chuyện đạo-đức, nơi Đạo Chúa, không có gì là lạ-lùng hết, nhưng không là trọng-tâm cho các sự-thể ra như thế.
Đức Bênêđíchtô 16
và tông thư Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu
Lâu nay, nhiều người vẫn cố xác-định xem ý-nghĩa xác-thực của ngôn-từ khi định-nghĩa Tình Thương-yêu, như từ-vựng: đức mến thương, tình bằng-hữu, ái-tình, lòng bác-ái, vv.. Thánh Kinh, thường tập-trung vào lời kinh Shema ở sách luật Torah Do-thái trong đó ghi rõ giới-lệnh đầu: “Người phải yêu thương Đức Chúa...” và ở thư thứ nhất chương 13 thánh Phaolô gửi tín-hữu thành Côrintô cũng như thư thứ nhất thánh-sử Gioan đều đề-cập đến Tình-Yêu, như thế.
Qua tông-thư này, Đức Bênêđíchtô 16 bàn về sự khác-biệt từ ngàn xưa giữa từ-vựng Hy-Lạp Eros (Ái-tình) và Agapè (lòng mến-mộ). Eros, là thứ Ái-tình thấy rõ nơi tình yêu-thương nam-nữ đầy dục-tính, cứ vươn cao vươn cao mãi để đạt toại-nguyện cho bằng được. Trong khi đó, Agapè lại trầm xuống, quyết ra ngoài để đến với mọi người, cũng tựa như sự tách-bạch giữa tình-yêu đầy chiếm-hữu với tình thương-yêu mang tính dâng hiến. Từ-vựng Eros, tập-trung vào chính con người mình, còn Agapè lại là thứ tình mến-mộ hướng về người khác, tức tha-nhân. Agapè có đặc-điểm không đòi điều-kiện, là thứ tình thiêng-liêng, vô kỷ.
Đức Bênêđíchtô 16 khẳng-định rằng: bao lâu Eros và Agapè còn kiếm-tìm sự kết-hợp đúng cách nơi thực-thể là tình-yêu đích-thực, thì khi đó bản-chất thực-thụ của tình-yêu mới thành hiện-thực. Các tầm-kích này đều thẩm-nhập vào nhau. Tình-yêu là thực-tại đơn-thuần gồm cả hai tầm-kích như thế.
Agapè tiếng Hy-Lạp, tương đương với từ-vựng “Ahaba” tiếng Do-thái, cả hai đều có nghĩa như một khám-phá thực-thụ về phía bên kia, biết quan-tâm chăm sóc lẫn nhau, vẫn kiếm-tìm sự tốt lành của phía bên kia, tức: của người mình yêu mến. Đó là nhận-định, không theo nghĩa cảm-giác mãnh-liệt, nhưng theo nghĩa cứ xuất-hành về phiá trước mà cho đi và cho mãi để đến với người khác. Chúa thương-yêu chúng ta, là Ngài thương và yêu cùng một kiểu, rất tương-tự. Ở đây, ta lại nhớ về sự-kiện khi xưa triết-gia Aristotle không bao giờ nghĩ là: động-lực ban đầu hoặc nguyên-nhân tiên-quyết dẫn đến việc yêu-thương ta. Người Do-thái dư biết Chúa thương-yêu ta bằng tình-yêu rất “con người”. Ngài thương-yêu ta rất mực, nên Tình-yêu của Ngài còn được gọi là Eros và tình-yêu Ngài hoàn toàn mang tính-chất rất Agapè, nữa. Chúa có mối tình rất nồng-nàn với con dân Ngài. Tình Eros của Chúa đối với con người hoàn-toàn là Agapè. Chúa là người yêu vẫn có nơi Ngài trọn vẹn sự đam-mê của tình-yêu rất thực.
Với tôi, nói thế như thể bảo rằng: việc tháp-nhập tình-yêu đầy tính-chất đam-mê vẫn đi vào tình mến-mộ Agapè của Thiên-Chúa, ít ra là đã cho ta thấy sự công-minh/chính-trực được tháp-ghép vào tình yêu-thương thần-thánh của Thiên-Chúa.
---------------(còn tiếp)
(bài 21)
Phần 2: Ơn Cứu-Chuộc và lời cầu Chúa xót thương
Tham dự Tiệc Thánh, ta thường dâng lên Chúa lời kinh mai như sau:
“Lạy Chúa, xin dủ tình thương xót chúng con,
“Lạy Đức Kitô, xin dủ tình thương xót chúng con.”
Với từ-điển Oxford khổ nhỏ, lòng xót thương đã được định nghĩa, như sau:
“Xót thương là: lòng trắc-ẩn độ-lượng vẫn phú ban cho người không quyền-lực, đặc biệt là những người phạm lỗi, hoặc ai đó, tuy không đòi hỏi nhưng vẫn được đối-xử tử-tế tốt-lành, cả vào trường-hợp có sự cung-kính rất trông mong.”
Vì trông mong, nên người người vẫn tự đặt mình luôn sẵn-sàng hứng-nhận lòng từ-bi, trắc-ẩn từ Đức Chúa với lòng tin-tưởng vượt bực, như kẻ phạm lỗi trước phiên toà xét xử về sự công-bằng nơi nhân-loại. Từ-vựng “Mercy” bên tiếng Anh, xem ra như còn đề-nghị nhiều điều vượt cả sự công-minh/chính-trực, vượt lằn ranh giới-hạn tình xót-thương bình-thường, nữa. Nơi phụng-vụ, ta còn nghe biết lời cầu Chúa xót-thương, như ở câu: “Lạy Thánh-Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con!” Thương xót đây, mang ý-nghĩa một đợi-trông rất cẩn-trọng. Cẩn-trọng để Chúa xót-thương những người cầu-khấn được miễn-chuẩn, không đòi phải sống tốt đạo/đẹp đời, mới được thế.
Ở Sách-Thánh, từ-vựng “xót thương”, cũng ít thấy. Đúng hơn, ta chỉ thấy sự tin-tưởng trọn-vẹn vào Đức Chúa, là Đấng thương-yêu con người vẫn rất mực. Và, Ngài sẽ còn yêu-thương ta mãi đến muôn thuở, muôn đời. Với Thánh vịnh 25, người cầu-khấn vẫn đưa vào lời kinh đêm, những câu nói thân thương, như sau:
“Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu
Ngài từng biểu-lộ từ muôn thuở muôn đời.” (Tv 25: 6)
Xem thế thì, đây là chuyện Chúa vẫn gần cận, thân thương với con người. Ngài vẫn tỏ lòng từ-ái thủy-chung với họ từ ngàn đời; và lòng nhân-ái ấy sẽ còn kéo dài mãi đến thiên-thu. Nơi lời kinh đêm hôm trước, người người lại vẫn dâng lên Chúa lời cầu-khấn thân-thương, như sau:
“Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” (Tv 25: 7).
Lầm lỡ/trót dại thời son trẻ, thật ra chỉ là đốm sáng hiện trên màn hình của thời bé bỏng đã qua trong dĩ-vãng, không thể nào khiến Chúa bận-tâm chia-trí, hoặc lo ra được. Bởi thế nên, lời kinh hôm nào lại vẫn nhắc:
“Xin Ngài đừng nhớ đến những lỗi/tội con trót phạm,
nhưng hãy lấy tình thương-yêu mà nhớ đến con cùng.”
Tình thương đây, tiếng Do-thái gọi là “hesed”, tức lòng từ-ái, mẫn-cảm kéo dài đến thiên-thu, vạn-đại. Tiếng Aram xưa, gọi đó là “rahamim”. Còn tiếng La-tinh, lại dịch là lòng mẫn-cảm đầy thương-xót. Sách thánh bản Vulgata có chữ “Douai” ý nói lòng trắc-ẩn, độ-lượng. Tiếng Do-thái sử-dụng từ-vựng này ở số nhiều, là do từ thuở ban-sơ thời nguyên-thủy đã có từ-vựng mang nhiều nghĩa, như: tình dịu hiền êm ả, sự tử-tế tốt-lành, lòng mến-thương độ-lượng, nhiều trắc-ẩn. Thế nên, từ-vựng “Mercy” ở tiếng Anh không bao-hàm nhiều nghĩa đến độ thế.
Một số dịch-giả Kinh thánh bản 70, khi xưa cũng tìm cách dịch chữ “oiktimoi” ở tiếng Hy-Lạp cho đúng văn-bản gốc, nhưng bản dịch chính lại ghi là “lòng dạ đầy trắc-ẩn”. Thánh-vịnh lại có câu: “Hãy đem nó vào lòng dạ xót-thương đầy trắc-ẩn”. Tác-giả Tyndale gọi đó là “lòng trắc-ẩn dịu êm”. Còn, thánh Giacôbê khi trước, lại nói đến đặc-tính cảm-thông từ Đức Chúa. Nên hỏi rằng, thật ra thì lời kinh hôm dâng Chúa ở Tiệc Thánh như câu: Kyrie Eleison, Christe Eleison thật ra mang ý-nghĩa gì?
Tình-yêu
Qua kinh-nghiệm chú-giải
của Lm Christian Duquoc, o.p.
Những điều nhắc đến ở trên, có nói về tình thương-yêu cách chung chung, hoặc có bàn về loại-hình mến-mộ Chúa vẫn tỏ-lộ cho con người, chứ? Phải chăng, ta có nói cho nhiều, cũng diễn-tả không đủ tình Chúa thương-yêu con người và sự công-minh Ngài vẫn có, đúng thật là một, ư? Nhưng vấn-đề là hỏi rằng: làm sao lại như thế?
Lm Christian Duquoc o.p. cũng từng đặt câu hỏi: Đức Giêsu là Ai? Ngài thương-yêu con người đến độ nào?
Đức Giêsu xưa vẫn phán: thời buổi đã mãn. Thế nên, ngay từ đầu, Ngài cũng không đặt nặng những gì tuỳ-thuộc vào “thời buổi” theo hướng cơm-áo-gạo-tiền, hoặc theo nghĩa chính-trị và quyền-bính nơi đạo-giáo -như trình-thuật cơn cám-dỗ đầu lúc Chúa khởi sự cuộc sống công-khai đời rao giảng. Buổi đầu đời, Ngài không nhấn mạnh đến những gì khả dĩ khiến ta làm lại cuộc sống; hoặc: cải-thiện lịch-sử cách triệt-để, nào hết. Ngài cũng chẳng nối-kết với bất cứ đường-lối diễn-giải lịch-sử nào hết. Giả như ta nhận ra những điều như thế về Đức Giêsu, hẳn ta cũng không còn cách nào sử-dụng viễn-ảnh lịch-sử như đường lối chính-thức để hiểu rõ Ngài. Ta cũng chẳng tài nào hiểu được ý-nghĩa của sự việc giải-phóng hoặc chính đạo-giáo nữa. Điều này có ý bảo: Đức Giêsu đã tách rời khỏi mọi thứ đạo-giáo, hoặc theo cung-cách lịch-sử từng nhận-thức và thực-hiện, cho đến nay. Các phòng-trào này/khác ở lịch-sử hoặc đạo-giáo, vẫn chỉ tương-đối, thôi. Tương-đối, cả về thành-quả lẫn thất bại. Thiên-Chúa là Đấng siêu-việt, Ngài khác hẳn mọi thứ như thế. Do khác biệt, nên Ngài có khả-năng ở với nhân-loại cả vào lúc con người thành-công lẫn thất-bại. Mà, Ngài cũng chẳng cần dựa vào thành-quả hoặc thất-bại để đánh-giá con người. Ngài ở với con người, cả trong bản-chất rất thường tình của họ, chẳng cần họ thành-công hay thất-bại.
Đức Giêsu lâu nay sống-thực bằng nhận-thức rằng: tất cả những gì diễn-tiến trong lịch-sử và cuộc sống con người, và Ngài coi đó như những “mảnh vụn nhỏ”, tức một thứ gì đó không hoàn-tất. Ta nói thế, vì con người không biết đó là thứ gì, bởi ta không thấy và cũng chẳng nắm bắt được phần tổng-thể của những thứ như thế. Trong khi đó, Chúa lại trực-tiếp có cảm-quan về một Thiên-Chúa rất khác-biệt. Ngài có trực-cảm là ta phải làm sao để các mảnh vụn vẫn cứ là mảnh vụn. Ta không có khả năng tạo quan-niệm hoặc hoàn-tất “tổng-thể” ấy hầu để nó ăn khớp với những mảnh vụn như thế; và làm như thế mới tạo được ý-nghĩa cho mọi sự. Ta phải sống sao không cần đến những đó. Và, ta còn phải từ-bỏ lối sống kết-tụ không-tưởng đầy ngẫu-hứng giống như thế.
Đức Giêsu, thật ra, Ngài không muốn áp-đặt bất cứ hình-thức xã-hội hoặc mẫu-mực nào về chính-trị, đạo-giáo hoặc loại hình biến-đổi thiên-nhiên, hết. Bởi làm như thế, tức là ta đã chống lại nhận-thức về “mảnh vụn”.
Đức Giêsu từng học hỏi kinh-nghiệm sống tình-yêu bí-nhiệm ở trong và về các “mảnh vụn” thấp-hèn và thô-thiển, vốn dĩ không thể trở thành tổng-thể hoặc thành-phần tổng-thể ấy. Đó chính là “tình yêu” đơn thuần, bởi chỉ có tình-yêu mới tôn-trọng bản-chất đích-thực của “mảnh vụn nhỏ”. Đây, rõ ràng là sự độ-lượng nơi Tình Chúa thương-yêu ta.
Hồng-phúc an-lạc, diễn-tả uy-lực biến-đổi đang gần cận bên ta –nơi thế-giới gồm những “mảnh vụn nhỏ” có sự độ-lượng được kề-cận Chúa- vốn dĩ gắn liền vào sự thấp-hèn và thô-thiển. Lịch-sử cần gần-cận, chứ thật ra không là diễn-giải, phát xuất từ điểm tới của những yếu kém này.
Chính các “nơi” này, đích-thực là nơi dấy lên một sự sống vượt khỏi mọi khinh-miệt và bao-lực từ hệ-thống quyền-lực. Chính bằng việc tham-gia vào sự thể như thế, nên các cộng-đoàn tín-hữu của Chúa Kitô có thể gia-nhập Vương-Quốc Nước Trời như Lời Ngài diễn-tả ở Tin Mừng hoặc gia-nhập vào công-cuộc Tạo-dựng mới, như thánh Phaolô từng xác-quyết.
Là tín-hữu Đức Kitô, không có nghĩa là sống thụ-động, mà là khẳng-định một cách chủ-động niềm tin của mình rằng mỗi biến-cố lịch-sử đã trở thành thời-điểm cho niềm hy-vọng có sự hiện-diện của Chúa ở trong và ở với những gì là thô-thiển, thấp hèn. Theo nghĩa Chúa diễn-tả, thì những gì cần được bênh-vực/biện hộ không là lối ra từ thế-giới có nền lịch-sử và chính-trị thực-thụ, mà là sự gián-đoạn khỏi tầm nhìn của chính nó.
Ơn Cứu-Chuộc thành-toàn không phải chỉ nhờ duy có sự Thương khó mà thôi –mà sự Thương-khó của Đức Giêsu là thành-phần phải có trong điều-kiện thống-khổ của nhân-loại- và ngang qua lịch-sử cũng như tất cả những thứ đó có tác-dụng cứu-chuộc con người. Tác-giả Duquoc rất thích cái tiêu-đề do ông chọn khi viết về Ơn Cứu-Chuộc, bởi nó đem lại cho toàn thể lịch-sử cái-gọi-là “Bản Giao-hưởng được diễn tả cách chầm chậm”.
Chú-thích quan trọng:
Tôi vẫn nghĩ: ý-niệm về những “mảnh vụn nhỏ” nói ở trên chợt đến từ triết-học lãng-mạn. Từ cội nguồn, ý-niệm này được sử-dụng theo nghĩa của “Ánh lửa thần-thánh”, sau đó đã trải dài cách rộng rãi. Thoạt đầu, ý-niệm này được bắt gặp từ tư-tưởng đặc-biệt của Kierkegaard, sau đó có Nietzsche và đến thời Simone Weil nó càng hiện rõ hơn chí ít với lập-trường/quan-điểm của Walter Benjamin, nữa. Tác giả Benjamin đây lại cũng nói rằng các “mảnh vụn” lại đã “bão hoà” và “rực sáng” là yếu tố đảm-trách sự vô cùng/vô tận; và niềm hy-vọng thần-thánh về một cứu-chuộc không được “xác-định cho rõ”. Ở đây, tôi thấy có sự kết-nối tư-tưởng với tác giả T.S.Eliot, với Joyce, Kafka, vv...
Phần phụ thêm:
Năm 1999, Lm. Christian Duquoc, o.p. cũng viết một cuốn sách khác có đề-tựa: “Je crois en l’Eglse. Précarie institutionelle de Dieu, Paris, Cerf.
Ở đây nữa, tác-giả vẫn nhấn mạnh lên một điều là: tất cả mọi cơ sở -bất kể họ có tìm cách thực-hiện mọi sự việc tích-cực hay không- đều ra điêu-đứng/khổ sở về hoạt-động khác-thường của các thể-chế, vì họ cố duy-trì tính chính-thống của riêng mình. Điều này được lối biện-luận về chính-kiến mà ta gọi là thần-học, vẫn quan-tâm chứ? Tuy nhiên, sự việc tỏ cho ta thấy Thiên-Chúa hiện-diện ở thế-giới là do Ngài tự quyết-định như thế, và qua đó Ngài xoá bỏ chính mình Ngài nên như vậy. Thể-chế Giáo-hội lại cứ tuyên-bố: mình là chứng-nhân của một Thiên-Chúa như thế. Đúng ra, chỉ có Lời Chúa rất khác-biệt và không tinh-giản được, mới là nguồn-gốc và bảo-chứng cho việc thực sự mở lòng mình ra để trở thành quà-tặng của Thánh Thần Chúa, thôi. Chuyện đạo-đức, nơi Đạo Chúa, không có gì là lạ-lùng hết, nhưng không là trọng-tâm cho các sự-thể ra như thế.
Đức Bênêđíchtô 16
và tông thư Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu
Lâu nay, nhiều người vẫn cố xác-định xem ý-nghĩa xác-thực của ngôn-từ khi định-nghĩa Tình Thương-yêu, như từ-vựng: đức mến thương, tình bằng-hữu, ái-tình, lòng bác-ái, vv.. Thánh Kinh, thường tập-trung vào lời kinh Shema ở sách luật Torah Do-thái trong đó ghi rõ giới-lệnh đầu: “Người phải yêu thương Đức Chúa...” và ở thư thứ nhất chương 13 thánh Phaolô gửi tín-hữu thành Côrintô cũng như thư thứ nhất thánh-sử Gioan đều đề-cập đến Tình-Yêu, như thế.
Qua tông-thư này, Đức Bênêđíchtô 16 bàn về sự khác-biệt từ ngàn xưa giữa từ-vựng Hy-Lạp Eros (Ái-tình) và Agapè (lòng mến-mộ). Eros, là thứ Ái-tình thấy rõ nơi tình yêu-thương nam-nữ đầy dục-tính, cứ vươn cao vươn cao mãi để đạt toại-nguyện cho bằng được. Trong khi đó, Agapè lại trầm xuống, quyết ra ngoài để đến với mọi người, cũng tựa như sự tách-bạch giữa tình-yêu đầy chiếm-hữu với tình thương-yêu mang tính dâng hiến. Từ-vựng Eros, tập-trung vào chính con người mình, còn Agapè lại là thứ tình mến-mộ hướng về người khác, tức tha-nhân. Agapè có đặc-điểm không đòi điều-kiện, là thứ tình thiêng-liêng, vô kỷ.
Đức Bênêđíchtô 16 khẳng-định rằng: bao lâu Eros và Agapè còn kiếm-tìm sự kết-hợp đúng cách nơi thực-thể là tình-yêu đích-thực, thì khi đó bản-chất thực-thụ của tình-yêu mới thành hiện-thực. Các tầm-kích này đều thẩm-nhập vào nhau. Tình-yêu là thực-tại đơn-thuần gồm cả hai tầm-kích như thế.
Agapè tiếng Hy-Lạp, tương đương với từ-vựng “Ahaba” tiếng Do-thái, cả hai đều có nghĩa như một khám-phá thực-thụ về phía bên kia, biết quan-tâm chăm sóc lẫn nhau, vẫn kiếm-tìm sự tốt lành của phía bên kia, tức: của người mình yêu mến. Đó là nhận-định, không theo nghĩa cảm-giác mãnh-liệt, nhưng theo nghĩa cứ xuất-hành về phiá trước mà cho đi và cho mãi để đến với người khác. Chúa thương-yêu chúng ta, là Ngài thương và yêu cùng một kiểu, rất tương-tự. Ở đây, ta lại nhớ về sự-kiện khi xưa triết-gia Aristotle không bao giờ nghĩ là: động-lực ban đầu hoặc nguyên-nhân tiên-quyết dẫn đến việc yêu-thương ta. Người Do-thái dư biết Chúa thương-yêu ta bằng tình-yêu rất “con người”. Ngài thương-yêu ta rất mực, nên Tình-yêu của Ngài còn được gọi là Eros và tình-yêu Ngài hoàn toàn mang tính-chất rất Agapè, nữa. Chúa có mối tình rất nồng-nàn với con dân Ngài. Tình Eros của Chúa đối với con người hoàn-toàn là Agapè. Chúa là người yêu vẫn có nơi Ngài trọn vẹn sự đam-mê của tình-yêu rất thực.
Với tôi, nói thế như thể bảo rằng: việc tháp-nhập tình-yêu đầy tính-chất đam-mê vẫn đi vào tình mến-mộ Agapè của Thiên-Chúa, ít ra là đã cho ta thấy sự công-minh/chính-trực được tháp-ghép vào tình yêu-thương thần-thánh của Thiên-Chúa.
---------------(còn tiếp)