Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Năm Mùa Phục Sinh năm B 06.5.2012

“ Thương nhớ ..ơ hờ thương nhớ ai,”
“Sông xa từng lớp lớp mưa dài
“Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh
“Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – Đôi Mắt Người Sơn Tây)
(Mt 1: 18-19, 20; Mt 11)
Lại thú thật rằng: bần đạo đây, xưa rày vẫn biết và nhận mình chẳng là gì cả, mà chỉ là giáo dân hạng thứ cùng phó thường dân rất Nam Bộ, thôi. Nhưng –vâng, chữ “nhưng” này quả đáng giá ngàn vàng- bởi bần đạo thường được đấng bậc thuộc tầm cao cỡ cả vẫn cho bần đạo được tháp tùng dự các buổi hội luận dành cho linh mục, tu sĩ và nữ tu Úc, do cựu giáo sư thần học Kevin O’Shea CSsR tổ chức tại Đại học Công giáo Sydney vào độ tháng 5/2011.
Hội luận hôm ấy, diễn giả bàn về “Sự khác biệt trong nghiên cứu tính Sử học của Đức Giêsu”. Đây là một hội luận khá giá trị và hiếm thấy ở “miệt dưới” xứ Úc này. Và, diễn giả cao tuổi là thế nhưng lại thao thao bất tuyệt về nhân vật Giêsu Kitô rất lịch sử kể ở Tân Ước.
Điểm dễ thương của diễn giả là: dù có cao hứng và hùng hồn cách mấy đi nữa, đức thày vẫn thấy vui để thính giả cắt ngang nguồn hứng mà hỏi han. Và, câu han hỏi hôm ấy do một nữ tu trọng tuổi đặt ra như sau: “Đọc sách thánh, tôi thấy rất ít chỗ đề cập đến thánh cả Giuse, tại sao thế? xin cho biết…”
Trả lời, diễn giả đã đi ngay vào chi tiết:

“Theo sử liệu gần đây cho biết, thì: tuổi thọ người Do thái sống thời của Chúa, chỉ từ 35 đến 40 tuổi là cao nhất. Tính cho đúng, thì: Đức Giêsu khởi công rao giảng vào độ tuổi 30. Lúc ấy, thánh Giuse là cha Ngài ở dưới đất xấp xỉ cũng gấp đôi tuổi của Ngài. Và, từ đó trở đi: ta có thể nói chắc chắn rằng: thánh Giuse khi ấy không còn sống, đúng vào thời Chúa giảng rao công khai, nữa…”

Bần đạo nghĩ, tính cách sử học là thế. Thế còn tác giả Tin Mừng viết hồi thập niên 50, 60 hoặc 70 ở thế kỷ đầu đời, làm sao nhớ được chuyện của thánh cả, mà ghi chép! Thế nên, dân gian nói nhiều về đấng thánh rất hiền lành, quả không thiếu. Không thiếu lời và lẽ như ca từ người nghệ sĩ, nay vẫn hát:

“Buồn viễn xứ khôn khuây,
Buồn viễn xứ khôn khuây.
Em hãy cùng ta mơ!
Mơ một ngày đất mẹ.
Ngày bóng dáng quê hương
Đường hoa, khô ráo lệ.”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bđd)

“Buồn viễn xứ”, chắc đây không là nỗi buồn của Giuse thánh cả hiền từ, cao thượng. Cao và hiền, một cuộc đời chẳng bon chen, hơn thiệt. Chẳng đòi hỏi mọi người đánh bóng tên tuổi cùng thân phận mọn hèn của mình làm chi cho nên tội. Thân phận của thánh nhân, tưởng chừng như bọt bèo, nước chảy mây trôi hay sao đó, nhưng đâu phải thế. Bằng chứng là, nhiều người vẫn đề cao, ủng hộ, rồi còn tung hô tinh thần khiêm hạ của thánh cả, đến độ dám tuyên dương nhè nhẹ, như bạn đạo ở đâu đó, từng hỏi và nói như sau:

“Không hiểu sao, chứ con có cảm giác rằng: thánh cả Giuse khi phát giác bạn đời mình có thai, lại biết rất chắc rằng mình không là tác giả, vì xưa nay không hề “biết” đến ái ân xác thịt…hẳn lòng ngài cũng rối trăm bề, đến hết biết. Mới đây, con nghe có người nói: thánh cả đã cảm nghiệm những 7 nỗi “buồn viễn xứ” khi ngài buộc lòng phải yêu cầu Đức Maria, Bạn Đời mình hãy đi mà về nhà mẹ. Ngược lại, có người còn bảo: cũng nên nói thêm về 7 điều mừng vui thánh nhân hưởng. Vậy, xin cho biết 7 điều buồn/vui của thánh cả là những gì? Sao Kinh thánh nói quá ít về thánh Giuse thế? Có chăng những điều buồn/vui như mọi người bảo? (Vấn nạn của một độc giả ở Sydney)

Con dân nhà Đạo khi đã hỏi những điều về thánh “cả” ở trên cao, thì chỉ như thế cũng đã đủ. Nhưng, so với thi văn ngoài đời khi nói về “người” có cặp mắt rất “u uẩn chiều lưu lạc” đời thường, như sau:

“Em hãy cùng ta mơ
Mơ một ngày đất mẹ
Ngày bóng dáng quê hương
Đường hoa khô ráo lệ…”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bđd)

Nghệ sĩ ngoài đời tả về người có gốc nguồn từ Sơn Tây, đất Hà thành cặp mắt uẩn u, thì như thế. Như thế, nhà Đạo mình nói sao về nỗi niềm buồn/vui của thánh cả, bây giờ đây? Diễn tả về thánh cả như vậy đúng không? Đã hỏi về chuyện Đạo, thì xin mời bạn và mời tôi, ta lắng tai nghe đức thày vị vọng ở Sydney có những lời rất đáp trả, sau đây:

“Sùng kính 7 nỗi buồn/vui của thánh cả, là điều chẳng ai lấy làm lạ hết. Chí ít, là những người trong Giáo hội rất thánh ở khắp nơi. Ngay từ đầu, việc này do hai linh mục Dòng Phanxicô chủ xướng khi các ngài bất chợt bị cơn giông bão xảy đến khi lên thuyền ngang qua biển bờ Flanders làm chết mất 300 người. Các tu sĩ gặp may đã bám vào ván tàu nổi trôi suốt 3 ngày trời, để rồi cuối cùng các ngài nhờ việc cầu nguyện cùng thánh cả Giuse ra tay thương giúp hầu sống sót.
Lúc ấy, chợt có người trẻ xuất hiện bên cạnh tấm ván của hai đấng khuyến khích các ngài cứ tin tưởng nơi anh để rồi anh sẽ đưa các ngài vào cầu cảng trong vịnh, rất an toàn. Hỏi kỹ tên tuổi, các ngài mới vỡ lẽ ra rằng người trai trẻ không là ai khác ngoài thánh cả Giuse và thánh nhân hiện hình người trai trẻ yêu cầu hai vị đọc kinh Lạy Cha và Kính Mừng mỗi ngày 7 lần, để nhớ đến 7 nỗi buồn/vui thánh nhân vẫn cảm nghiệm. Và sau đó, thánh nhân trẻ bèn biến mất.
Không cần biết truyện kể có xác thực hay không, ai cũng hiểu rằng việc sùng kính mến mộ 7 điều buồn/vui ở thánh cả cũng từ đó bén rễ sâu trong lòng người. Và, mọi người đã bắt đầu đọc 7 kinh, mỗi khi đọc đều suy tưởng về một trong các nỗi niềm ấy, sau đó lại sẽ đọc tiếp một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh dâng Chúa Cha. Lời lẽ trong kinh, cũng thay đổi nhiều, nhưng tựu trung tất cả đều đề cập đến cùng một nỗi niềm vui/buồn lẫn lộn.
Nỗi buồn đầu tiên, thánh Giuse cam chịu là đã phát giác ra Đức Maria Bạn Đời mình đã cưu mang một trẻ bé mà thánh cả biết chắc chắn không là con mình. Chính vì thế, thánh nhân mới quyết định “xa lánh” người Bạn Đời mà thánh nhân yêu thương hết lòng dạ (Mt 1: 18-19). Niềm vui đầu theo sau đó là lúc thần sứ xuất hiện với thánh nhân trong giấc mộng mà bảo: “Giuse, con của Đavít, chớ sợ lấy Maria làm vợ: thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần Chúa”(Mt 1: 20). Và, niềm vui được minh xác, nên thánh cả đã chấp nhận Maria làm vợ mình.
Nỗi buồn thứ hai tiếp đến, là khi thánh cả thấy Đức Giêsu Con mình lại đã sinh hạ trong cảnh khó nghèo, bèn đặt con vào máng đựng cỏ bò/lừa vẫn mà lòng quặn thắt ( Lc 2: 7). Nỗi buồn này cũng đã trở thành niềm vui khi thánh nhân thấy các đạo sĩ cùng nhiều vị viếng thăm và bái lạy Con của mình rồi còn dâng tặng phẩm vật quí giá những gồm vàng, hương thơm và mộc dược (Mt 2: 11).
Nỗi buồn vui thứ ba, là: 8 ngày sau khi sanh Chúa, thánh cả thấy máu Con mình lần đầu chảy vào ngày Chúa chịu cắt bì. Nỗi buồn, kéo dài không lâu bởi sau đó thánh cả đã vui hơn khi Con mình được đặt tên Giêsu như thần sứ báo trước ngày bạn đời Maria cưu mang Chúa (Lc 2: 21).
Buồn/vui thứ tư, là khi thánh gia đem Con đến đền thờ để giới thiệu các đấng bậc, chỉ 40 ngày sau khi sinh. Buồn một nỗi, là khi cụ già Simêôn nói tiên tri về lưỡi đòng đâm thấu tâm can người Mẹ. Và, niềm vui có được cũng là lúc cụ Simêôn lại thông báo: Trẻ Thánh sẽ nâng nhấc toàn thể dân Do thái (Lc 2: 35).
Buồn thứ năm cũng rất lớn, là khi thánh cả nằm mộng thấy thần sứ khuyên đem Mẹ Con lánh nạn bên Ai Cập vì Hêrôđê ra lệnh ruồng bắt trẻ thơ (Mt 2: 13). Và niềm vui tới với thánh cả, là ý nghĩa việc Con Chúa đến Ai Cập, có nghĩa lật đổ các ngẫu tượng lâu nay được thờ, ở nơi đó.
Nỗi buồn đếm thứ sáu, là lúc thánh cả lại mơ thấy thần sứ báo mộng hãy đem Con về lại Israel, như Tin Mừng ghi: “Archelaus nay trị vì toàn cõi Giuđa thay cho Hêrôđê cha mình, nên thánh cả lo ngại không dám đến” (Mt 12: 22). Nỗi buồn được đáp trả bằng niềm vui khi Thánh gia trở về Nazarét, rất an toàn (Mt 2: 23).
Nỗi buồn đếm số bẩy, là khi thánh gia để lạc người Con yêu ở đền thờ khi Con lên 12 và đó còn là niềm vui khi Thánh gia tìm ra Ngài chỉ sau 3 ngày ngồi bên giáo sĩ” (Lc 2: 41-51).
Cũng nên biết, Đức Giáo Hoàng Piô thứ VII trị vì Hội thánh từ năm 1800 đến 1923, ban ân xá cho ai có lòng sùng kính 7 niềm vui lẫn nỗi buồn của thánh cả. Và, ân xá sẽ gia tăng gấp bội nếu việc sùng kính này được cử hành vào ngày Thứ Tư trong tuần, hoặc nếu người sùng kính mở tuần cửu nhật sùng kính thánh cả trước ngày lễ bổn mạng của ngài. Còn hơn nữa, sẽ nhận ơn toàn xá nếu ai có lòng sùng kính thánh cả có niềm vui nỗi buồn 7 mối, và sống thực như thế suốt tháng.
Ban ân xá, hẳn người người rày thấy được là Hội thánh đã chúc phúc cho ai có lòng sùng kính như thế, đến bây giời.” (x.Lm John Flader, The Catholic Weekly ngày 18/3/2012 tr. 11)

Những điều vừa kể trên, là kể theo cung cách long trọng ở nhà Đạo. Đối với người đời, thì nghệ sĩ lại là người thay vào đó bằng giòng chảy mô tả tình tiết tốt đẹp của quí nhân hiền lành, nổi cộm như:

“Em vì chinh chiến thiếu quê hương,
Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn.
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm,
Em có bao giờ, Em có bao giờ,
Em thương nhớ thương…”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bdd)

Sài Sơn, Bương Cấn hay Xứ Đoài, đó cũng chỉ là ảnh hình của những miền đất mà quí nhân hiền lành từng đặt chân đến hoặc từ đó ra đi. Ra đi rồi, lại sẽ cùng bạn đời, cứ hỏi “Em có bao giờ thương cứ thương”. Thương cứ thương. Nhưng, hỏi vẫn cứ hỏi. Hỏi rằng: “Đôi mắt người Sơn Tây” vẫn là đôi mắt/mặt hình để anh thương, thôi. Thương cứ thương, cả những người lành thánh vẫn âm thầm chịu đựng nghịch cảnh đến với mình.
Thương cứ thương, còn là chấp nhận và hiểu rằng: trong cái hoạ nghịch cảnh ấy, bao giờ cũng ngời sáng niềm hạnh phúc sẽ đến ngay. Và, thương cứ thương, là cũng suy và nghĩ rất đúng rằng: dù sự thể có ra sao, vẫn nên coi đó là ân huệ Bề Trên gửi để cảnh giác hoặc ủi an, vỗ về để Ngài-cùng-ta vui hưởng một “kết hậu” đang trờ tới, ngay thôi.
Xét cho kỹ tâm tính tốt lành hạnh đạo của thánh cả trong gia đình rất thánh thiêng, cũng nên nhấn mạnh đến tính cách âm thầm chấp nhận nghịch cảnh xảy đến với đời người. Bởi, đời của con người bình thường hoặc của thánh nhân cao cả vẫn là chuỗi ngày có những hoạ-phúc/phúc-hoạ quyện lẫn với nhau, rất khôn nguôi.
Xét cho cùng, về tính cao cả của thánh Giuse là đức tính cao đẹp cần đề cao hơn ai hết. Nhân đức ấy, đặc trưng này vẫn nằm ở điểm, là: thánh nhân như người thường ở huyện, một khi đã hợp tác/dính dự vào với công trình cứu độ của Thiên Chúa, sẽ cảm thấy vinh dự vì nhận thấy thân phận yếu kém của mình mà lại đã được Thiên Chúa để mắt đến nên sẽ lạc quan với công trình cứu độ cao quý.
Hãy tưởng tượng, nếu thánh Giuse lại cứ khăng khăng chống đối kế hoạch Thiên Chúa dùng phàm nhân như ông để tham gia vào công trình cao cả mà cứu nhân độ thế, thì chắc hẳn kế hoạch ấy cũng sẽ không hoàn thành như đã từng xẩy ra với con người.
Thành thử, sự cao cả ở thánh nhân Giuse HIền lành là ở chỗ: cứ để mọi sự do Chúa định như một thứ Hội chứng “Xin vâng” mà Bạn Đời của mình từng diễn tả ngày thăm chị họ Elizabét. Và “hội chứng”này, nay vẫn còn diễn tiến ở nhiều nơi, và mọi thời.
Về với ý tưởng/lập trường của bậc thày dẫn giải về thần học Kinh thánh ở buổi hội luận hôm ấy, thì sự cao cả của thánh cả Giuse và Đức Maria bạn đời ngài, là: tuy xuất hiện rất ít trong Tân Ước, nhưng lại nói nhiều hơn nhiều đấng. Thật vậy, hai ngài không chỉ nói bằng lời, nhưng bằng sự âm thầm/lặng thinh trong chấp nhận một sự thể ngoài sức tưởng tượng của con người.
Chấp nhận và thực ý định của Thiên Chúa là Cha, bất kể những gì có thể xảy ra đối với chính mình, hoặc người của mình. Đó mới là lý do khiến Hội thánh chỉ gọi mỗi Giuse con vua Đavit, là “Thánh Cả”. Cả đây, không có nghĩa trên cả bạn đời hoặc người Con Chí Ái của mình về thể xác. Mà là, sự cao cả tuyệt vời, trong hành xử như người được chọn làm nhân vật thánh rất “cao” và “cả thể”.
Quan viên ở đời, có lẽ hiểu chưa rõ ý/từ “Đôi Mắt Người Sơn Tây” theo nghĩa thi phú, nên cứ hát:

“Đôi mắt Người Sơn Tây
Đôi mắt Người Sơn Tây
Buồn viễn xứ khôn khuây ..”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bdd)

Để người đọc có dịp thư giãn hầu hiểu rõ hơn ý/từ và ý tứ của vai trò đấng thánh “cả”, có lẽ cũng nên tìm về với truyện kể nhè nhẹ, như sau:

“Chuyện xảy ra tại một trường đại học
Sắp hết giờ giảng, giáo sư bỗng đề nghị với các sinh viên,
"Tôi cùng mọi người thử một trắc nghiệm nhỏ, ai muốn cùng tôi thử nào?"
Một nam sinh bước lên.Giáo sư nói, "Em hãy viết lên bảng tên của 20 người mà em khó có thể rời bỏ".
Chàng trai làm theo. Trong số tên đó có tên của hàng xóm, bạn bè, và người thân...Giáo sư nói: "Em hãy xoá tên của một người mà em cho rằng không quan trọng nhất!"
Chàng trai liền xoá tên của người hàng xóm.
Giáo sư lại nói: "Em hãy xoá thêm một người nữa!".
Chàng trai xoá tiếp tên của một đồng nghiệp.
Giáo sư nói tiếp:"Em xoá thêm tên một người nữa đi". Một người không quan trọng nhất trong cuộc đời. chàng trai lại xoá tiếp.....
Cuối cùng, trên bảng chỉ còn lại ba cái tên, bố mẹ, vợ, và con.
Cả giảng đường im phăng phắc, mọi người lặng lẽ nhìn vị giáo sư,
cảm giác dường như đây không còn đơn thuần là một trò chơi nữa rồi!! Giáo sư bình tĩnh nói tiếp:
"Em hãy xóa thêm một tên nữa!" chàng trai chần chừ, rất khó khăn mới đưa ra được sự lựa chọn...
anh đưa viên phấn lên..... và gạch đi tên của bố mẹ!
"Hãy gạch đi một cái tên nữa đi!",
tiếng của vị giáo sư lại vang lên bên tai.
chàng trai sững lại, rồi như một cái máy, từ từ và kiên quyết
gạch bỏ tên của đứa con trai...Và anh bật khóc thành tiếng,
dáng điệu vô cũng đau khổ.
Vị giáo sư chờ cho anh bình tĩnh lại hồi lâu và hỏi: "Lẽ ra người thân thiết nhất với em, phải là cha mẹ và đứa con, bởi cha mẹ là người sinh thành và dạy dỗ em nên người, đứa con là do em dứt ruột sinh ra, còn người vợ thì có thể tìm người khác thay thế được, vậy tại sao, với em người vợ lại là người mà em khó dời xa nhất?" Cả giảng đường im lặng, chờ nghe câu trả lời.
Chàng trai bình tĩnh và từ tốn nói:"Theo thời gian, cha mẹ sẽ là rời bỏ tôi mà đi,
con cái khi trưởng thành,cũng chắc chắn sẽ rời xa tôi,
người luôn ở bên, làm bạn với tôi suốt đời, thực sự chỉ có vợ tôi!
Và cũng chính là người cằn nhằn tôi suốt ngày !!!

Người kể truyện hôm nay, thấy truyện kể của mình mà lại đem áp dụng vào những chuyện của thánh nhân hiền lành rất cao cả, thấy cũng kỳ. Bèn có một đề nghị bạn, đề nghị tôi là những người đang nghe câu truyện kể, rằng: đâu ai cấm bạn và tôi ta thay đổi giới tính của người trong truyện. Tức là, thay vì nói về bạn đời nữ giới thì ta thay người bạn đời bằng: “chồng tôi”. Có thay đổi như thế, mới thấy rằng người bạn đời nào cũng vậy, dù nam hay nữ cũng vẫn là những quí nhân hiền lành, và cao cả. Hệt như thánh cả, rất Giuse.
Nói như thế, thì có vẻ hơi bốc phải không bạn, phải không tôi? Thôi thì ta cứ tạm coi như thế rồi lai rai hát hoài ý từ người nghệ sĩ vẫn cứ viết và cứ hát, rằng:

“ Thương nhớ ..ơ hờ thương nhớ ai,”
“Sông xa từng lớp lớp mưa dài
“Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh
“Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai.
“Em hãy cùng ta mơ
“Mơ một ngày đất mẹ
“Ngày bóng dáng quê hương
“Đường hoa khô ráo lệ…”
(Phạm Đình Chương/Quang Dũng – bđd)

Hát thế rồi, xin đề nghị bạn và đề nghị tôi, ta cứ ung dung cất lên lời ca ngợi các đấng bậc hiền lành và cũng thánh không thua gì đấng bậc rất “thánh cả” ở trời Đông Do thái năm ấy. Và, cả các thánh-không-được-phong của mình nay vẫn hỗ trợ, cầu bàu cùng với Thánh gia cho tất cả người nhà, ở trần thế, giống như thế.

Trần Ngọc Mười Hai
tuy chưa làm thánh
nhưng cứ nhớ lời Phaolô thánh nhân
vẫn vui chào mọi đấng thánh
ở trần gian
là thế cả.

Suy niệm Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh Năm B 13.5.2012
“Lạnh lùng chăng, gió tha hương?”
“Em về bên ấy, ai thương em cùng?”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Ga 15: 9-17
Văn thơ ngoài đời, người người vẫn hỏi: “Em về bên ấy, ai thương em cùng?” Thi ca trong Đạo, Chúa lại quả quyết: “Anh em là bạn của Thầy. Nếu anh em thực hiện điều Thầy dạy, Thầy sẽ không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm” (Ga 15: 16). Đó là ý chính trình thuật Chúa đã tỏ bày, hôm nay.
Trình thuật hôm nay thánh Gioan lại đã ghi về khẳng định Chúa từng bày tỏ: tất cả mọi người là bạn chứ không là bày tôi của Đức Chúa. Kinh bổn khi xưa vẫn nhồi sọ trẻ nhỏ bảo rằng: loài người có mặt trên trái đất là để phục vụ Chúa. Trong khi đó, Tin Mừng nay quả quyết Chúa từng nó: ta là bạn và là anh em của nhau chứ không phải bầy tôi của ai hết. Điểm khác biệt giữa bầu bạn và tôi tớ là ở điểm: tôi và tớ chỉ biết tuân thủ lệnh của chủ một cách máy móc chứ không hiểu rõ ý định thâm sâu nơi lệnh truyền. Bởi, tôi tớ là người sống ngoài cục diện, cũng như tâm tư mà người chủ vẫn đan kết. Còn bạn bè, lại hiểu rõ lý do khiến bạn mình hành xử, là như thế. Có hiểu rõ, nên mới cảm thông, yêu thương, mật thiết.
Trình thuật, nay được phụng vụ Hội thánh chọn để nhấn mạnh thêm một lần nữa, lời Chúa tâm sự với đồ đệ trước lúc Ngài giã từ mọi người để ra đi chấp nhận khổ đau, sầu buồn đến nỗi chết. Tâm sự, là tâm tình tự sự của Chúa vào phút cuối, vào lúc đó Chúa đã đưa ra lệnh truyền mới yêu cầu mọi người “Hãy thương yêu nhau”. Lệnh truyền, là lệnh yêu thương không theo nghĩa chung chung, thường tình nhưng lại mang ý lực đặc biệt, như Chúa từng nhấn mạnh: “như Thầy đa yêu mến anh em” (Ga 15: 12). Đó là điểm chính yếu cũng rất mới. Mới, là lời lẽ thâm sâu cứu độ khiến Chúa nhập cuộc với con người. Lời và lẽ của Tình thương yêu Ngài tỏ lộ vào ngày cuối, ở thế trần.
Vào ngày cuối, Đức Gêsu biết rõ giới chức cầm quyền ở Giêrusalem muốn trừ khử Ngài khỏi hiện trường cuộc sống với xã hội, nên họ tìm cơ hội làm bằng cớ bắt giữ Ngài. Ngài lui về vùng đất phiá sau Giođan, tức xa rời tầm tay với và quyền kiểm soát của giới chức đầy quyền là Philatô, Hêrôđê. Nếu chỉ muốn cam phận chọn cuộc sống âm thầm ở đó, hẳn là Chúa sẽ không bị giới ấy đe doạ tính mạng Ngài. Nhưng ngay lúc đó, Ngài được tin người bạn hiền là Lazarô đang ốm nặng, chắc khó sống.
Lazarô lâu nay vẫn sống ở thôn Bêtania, tức cửa ngõ dẫn vào thành Giêrusalem. Còn Chúa, Ngài lại đang tạm trú ở Giuđêa, vùng đất nguy hiểm đến sinh mạng của các Đấng như Ngài. Thành thử, Chúa đành chờ thêm hai ngày để xem nếu Ngài liều mạng thăm viếng Lazarô, thì sự việc có ra tồi tệ đến thế không. Sinh mạng của Ngài và đồ đệ có an toàn không? Đức Giêsu biết rõ tình hình quả là nguy hiểm. Nếu đến thăm Lazarô, có thể Ngài sẽ bị giới cầm quyền tạo bẫy giăng bắt Ngài rồi lên án xử chết.
Tuy nhiên, Ngài không sờn lòng, vẫn ra đi thăm bạn hiền đang sắp chết. Ra đi, khi đã đắn đo, chọn lựa. Ra đi, quyết chấp nhận mọi rủi ro, vì tình bạn. Tình bạn bè phải như thế. Dù có thể, khi đến nơi, Lazarô bạn hiền không còn đó, đã về miền vĩnh cửu không kịp giã từ Ngài. Và, quyết định của Ngài đã được thánh Tôma, cũng là bạn, nhanh chóng hỗ trợ và cùng đi. Hoặc, nếu cần, sẽ cùng chết với Ngài vì tình bạn.
Đó là lúc Ngài thổ lộ: “Không có lòng thương mến nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu.”(Ga 15: 13) Và, lúc đó Ngài thêm lời khuyên nhủ: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy đã mến yêu anh em.” Nói thế tứ bảo rằng: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy chứng tỏ lòng mến thương (Lazarô) thế này đây!”
Chấp nhận mọi hiểm nguy mang đến cho cuộc sống vì tình bạn, không phải là ý niệm trừu tượng. Cũng không là châm ngôn đạo đức. Nhưng, việc đi về Bethania để chữa lành/vực dậy thi hài bạn hiền, Chúa muốn triển khai nhanh tiến trình chọn cái chết cho Ngài. Tin Mừng thánh Gioan còn nói rõ: chỉ sau đó, công nghị Giêrusalem mới chính thức lên án Chúa. Án đây là án chết, do Ngài liên tiếp chối từ mọi nhượng bộ làm theo ý họ. Và, họ tìm dịp thực hiện quyết định đã đưa ra. Xem thế thì, chuyến đi thăm Lazarô ngoài việc chứng tỏ tình bạn hữu là cao cả, còn là cơ hội kích động quyết tâm có hành động lên Ngài.
Đức Giêsu không là loại người tìm đến cái chết để chứng tỏ một điều gì, dù cao cả. Quyết định của Ngài không phải là hành động tự kết liễu cuộc đời. Ngài không là một thứ “kamikaze” cuồng tín. Ngài đâu tìm khoái lạc trong đau khổ cùng chết chóc. KHông. Hoàn toàn không phải thế. Nhưng, nơi Ngài có sự cao cả và ned1t đẹp về bản chất rất chân chất. Bản chất ấy, là liều mình vì tình bạn. Và, cho đi với trọn vẹn tình mến thương, độ lượng.
Với Chúa, Có nhiều thứ nơi sự sống hơn là đơn giản sống sót với đời mình. Tình bằng hữu chẳng khi nào là rẻ mạt.
Chúa lại đã nói: “Thày đã không gọi anh em là tôi tớ, mà là bạn.” (Ga 15: 15) Nói anh em là bạn của Thày, thì anh em có làm điều này với Thày không? Nếu anh em là bạn hữu lẫn nhau, anh em cững làm cho nhau chứ? Bởi, Lòng mến thương –nhất là thương và mến vì bạn hữu_ sẽ làm cho anh em dễbị tổn thương. Tình ấy còn khiến anh em biết lo cho nhau đến độ dám liều mạng sống vì người đó. Ở nơi đó, có niềm vui, và cả niềm đau cũng có nữa. Cả hai việc vẫn đi đôi với nhau. Anh em không thể được cái này mà lại không chịu cái kia.
Lòng mến như thể lửa ngọn. Nó vừa làm ấm áp tình người, vừa thắp sáng dọi soi, đổi thay mọi sự rồi đưa vào sự sáng. Ở đây có một thứ hợp lý mà không dựa trên lý trí. KHông là sự tính toán. Bởi Ngài nói: kẻ thù Ngài không có quyền gì trên Ngài hết. Ngài phú ban sự sống của Ngài chỉ vì Ngài muốn thế. KHông ai có thể lấy đi khỏi Ngài. KHỏi, lòng muốn của Ngài. Làm như thế, Ngài chứng tỏ cho ta thấy Thiên Chúa thực sự giống như ai. Thiên Chúa cũng làm như thế, mà thôi.
Thiên Chúa xử với ta như bạn hiền. Tình Ngài thương ta không do định luật nào đề ra. Tình Ngài thương mến, không do con người qui ước hoặc ràng buộc. Tình đem đến cho ta nghị lực. Khi Chúa can thiệp mọi chuyện vì ta, điều đó không có nghĩa là Ngài đến từ ngoài vũ trụ rồi thổi hơi vào lớp vỏ bọc trời/trăng. Nhưng lại có nghĩa: Ngài thiết lập tình bạn đích thực và thường trú nơi ta. Chúa là Đâng tự cho đi, chính mình Ngài. Và, Đức Giêsu mặc lấy nơi Ngài tình thương ấy, và gọi đó là tình bạn. Ngài thực thi tình này cũng một kiểu như nghệ sĩ, để ta thấy được, nghe được và cảm nhận.
Điều này không như tôn giáo nào đó dám cho rằng Thiên Chúa là Cha vẫn muốn Con Một Ngài phải chết để lắng dịu nối uất ức, giận hờn. Nơi Thiên Chúa là Cha, chẳng bao giờ thiết tha những chuyện như thế. Và, Đức Giêsu cũng chẳng a tòng chuyện thế đó. Ngài vẫn muốn sống. Muốn, chính sự sống của Ngài và còn hơn nữa, cả đến sự sống của bầu bạn nữa.
Chính đó là ý nghĩa của câu nói: “Chính do tình mến thương mà anh em dành cho nhau như bạn bè thì mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thày.
Và, tất cả chúng ta được dạy bảo hãy yêu mến nhau bằng tất cả lòng hăng say, thương mến. Mọi người chúng ta được quyền có lựa chọn cho bạn mình như Đức Giêsu từng làm. Như Thiên Chúa đã làm và sẽ còn làm. Và, nếu mọi người chúng ta muốn trở thành người của Chúa rất đích thực, đó không là chọn lựa. Nhưng là lệnh truyền gửi đến với nhau, và cho nhau.
Hiểu thế rồi, cũng nên ngâm thêm lời thơ còn đó đợi chờ ta ngâm tiếp:

“Trời hồng chắc má em xinh,
Nước trong, chắc miệng em cười thêm xinh.”
(Đinh Hùng – Bài Hát Mùa Thu)

Mùa Thu hát mãi trời hồng. Có má em xinh, có miệng em cười. Cười xinh trong tình hồng người con Chúa vẫn coi nhau như bạn hiền, dù gọi nhau là anh là em, suốt đời, chỉ mới đây thôi. Vẫn mong sẽ cứ gọi nhau mãu bạn hiền, vì Đức Kitô đã khẳng định điều đó với tôi, với mọi người. Mới đây thôi. Vào mọi thời.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá phỏng dịch