Chuyện Phiếm đọc trong tuần Phục Sinh Năm C 31-03-2013

“Với biển cả anh là thủy thủ...ù u,”
“Với lòng nàng anh là hoàng tử...ừ ư!
“Nhớ chuyện ngàn đêm xứ Ba Tư…ừ ư!
“Và chuyện thần tiên bao thế hệ.
(Y Vũ – Thủy Thủ và Biển Cả)

(Cv 15: 25)
“Thủy thủ và Biển Cả”. “Lòng Nàng và Hoàng Tử”, ôi! Lời ca nghe rất quen, từ thập niên khi ấy, lúc bần đạo vẫn còn là tay học trò thời trung học, hát hò tuy không nhiều, nhưng hát rồi lại quậy phá thật không thiếu. Quậy và phá, bất kể ông/bà thầy có ngồi đó kể “chuyện thần tiên bao thế hệ”, hay mỗi chuyện “ngàn đêm xứ Ba Tư”, làm bần đạo mải mê với những âm thanh và nhịp điệu những là “ù u!” hay “ừ ư!” của người ca sĩ một thời nổi tiếng, rất Hùng Cường.
Đó là chuyện đời, của người học trò thời trung học. Còn chuyện Đạo của nhà thờ khi nghe kể về con thuyền Hội thánh, vẫn chòng chành, bần đạo lại nhớ đến lời khẳng định của vị đứng đầu từng lèo lái “con thuyền Hội thánh”, rất như sau:

“Tuy nhiên, trước một thế giới có nhiều đổi thay nhanh chóng đang bị rúng động bởi những vấn nạn có liên quan sâu sắc đến đời sống đức tin, muốn lèo lái con thuyền Thánh Phêrô trao cũng như việc rao giảng Tin Mừng, cả năng lực trí óc lẫn thể xác đều cần thiết.” (trích lời của Đức Bênêđíchtô 16 khi từ nhiệm chức vụ Giáo Hoàng, hôm 11/2/2013 ở La Mã)

“Lèo lái Con thuyền thánh Phêrô trao”, “những vấn nạn có liên quan sâu sắc đến đời sống đức tin”, phải chăng hai vấn đề này là một? Phải chăng đó là chuyện thần tiên bao thế hệ? Hoặc, chuyện ngàn đêm xứ Ba Tư? Thôi thì, chuyện gì thì chuyện, bạn và tôi, ta hãy cứ nghe người nghệ sĩ nhạc kích động thời đó, vẫn hát tiếp:

“Cho anh bao giây phút say sưa,
cho anh thêu muôn giấc mơ hoa,
cho anh luôn yêu đời hải hồ.”
(Y Vũ – bđd)

“Say sưa”, “thêu giấc mơ hoa” hay “yêu đời hải hồ”, nhất nhất là lời người nghệ sĩ viết nhạc không nản lòng trước phong ba trên biển cả! Bởi, anh vẫn là thủy thủ, tức người lèo lái con thuyền mình có những dặn dò như sau:

“Càng đi xa anh càng nhớ em
Trước đại dương ngát xanh muôn trùng
Kìa ngư nhân in hình trên sóng
Bao nàng công chúa dưới thâm cung”
(Y Vũ – bđd)

Nghe câu trên, bần đạo chỉ nhớ đến câu hát nhại mình từng “chế” để cảnh báo mọi người, rằng: “Càng đi xa anh càng tốn xăng…” Hát xong, lại nhớ ra rằng: đã hết thời học trò chuyên quậy phá hay hát nhại để rồi người học trò nhỏ đó tự mời mình về với các vấn đề nghiêm trang, nghiêm túc để còn viết.
Vâng. Viết và lách, luôn là chuyện nghiêm túc, dù bần đạo chỉ muốn viết những chuyện nhà Đạo qua phong cách của một phiếm “loạn”, mà thôi. Vậy thì, xin bạn hãy “xá” cho bần đạo đây một ân huệ mà năm nay, tôi và bạn sẽ nhận được khá nhiều, do có “sự kiện thánh” này khác với “phép lành” rất mới từ Đức Giáo Chủ tân cử, hôm 14/3/2013 lúc 7 giờ sáng Đông Bộ Úc Châu này.
Thanh minh thế rồi, nay xin bà con độc giả cho phép bần đạo được “lào khào” thêm đôi ba chuyện về “con thuyền Hội thánh” thời hiện tại, để xem tình hình “biển cả và thủy thủ” hoặc “Lòng nàng và hoàng tử” nay ra sao.
Trước hết là “ý/lời” của Đức Bênêđíchtô thứ 16, từng phát biểu trong buổi triều yết cuối cùng của ngài hôm 27/2/2013, như sau:

“Tôi luôn biết rằng có Chúa ở trong thuyền, và biết rằng thuyền Hội thánh không phải là thuyền của tôi, không phải là thuyền của chúng ta, nhưng là của Chúa. Và, Chúa sẽ không để nó chìm.” (PhạmXuânKhôi dịch đăng trong LegioMariae@googlegroups.com 01/3/2013)

Thật ra, chuyện “con thuyền Hội thánh” là của ai? Hoạt động thế nào? Có chòng chành hoặc rò rỉ đầy những nước không? vẫn không là chuyện cần bàn. Chuyện nên bàn và đáng bàn, là xem thành viên Hội thánh hoặc giới bàng quan ở ngoài nghĩ thế nào về “thuyền ấy” trong hiện tại? Và, người lèo lái con “thuyền” này sẽ làm gì để vững lái? Đó có thể là đề tài sẽ kéo theo nhiều suy tư, bàn bạc. Và, cảm thông với “con thuyền” có vị thuyền trưởng mới, cũng nên chuyển cho nhau đôi ba nhận định ở đâu đó.
Trước nhất là Tác giả Marcus Roberts của tờ MercatorNet có ý kiến như sau:

“Điều mà Hội thánh Công giáo hôm nay sẽ nhớ nhiều nhất, đó là: lần đầu tiên trong lịch sử Đạo đã có vị kế nhiệm thánh Phêrô xuất từ Nam Mỹ. Điều này đem lại cho người dân ở châu lục điạ này tâm tư khởi sắc, rất hưng phấn. Trong các tin rộn lên từ khắp nơi, tưởng cũng nên nhắc đến bản tin từ Northern Voices Online vào trước giờ “G” lịch sử. Nói chung, bản tin cho thấy: ở phần đất trọng tâm của Đạo, các thành viên chuyên chăm trong Đạo nay không còn tập trung ở Châu Âu như trước, mà là Châu Phi và Nam Mỹ.

Bài báo còn viết tiếp: “Số người đi Đạo và giữ Đạo ở Tây Âu nay giảm sút khá trầm trọng so với mọi thời. Trong khi đó, ở châu Phi, trong thời gian từ năm 1978 đến 2007, số người Công giáo ở đây đang từ 55 triệu nay lên đến 176 triệu nguời. Rõ ràng là, Giáo hội Công giáo nay có được số người trở về với Đạo nhiều hơn so với người Hồi giáo và người thổ dân chỉ tin vào chuyện phù phép lẫn hồn linh thú dữ thôi. Tuy nhiên, châu Mỹ Latinh nay có số người đi Đạo tập trung nhiều nhất thế giới: 42% người Công Giáo sống ở vùng này, trong đó Ba Tây có số người Công giáo thuần thành đông nhất thế giới.

Đối lại tình trrạng này, số người Công Giáo ở châu Âu ngày càng giảm sút đến mức khiếp đảm. Người ở lại, cũng đã kém đi phần “sốt sắng”, nói theo nghĩa thường xuyên đi nhà thờ/nhà thánh mỗi tuần.

Qua thống kê, nhiều người còn thấy: vừa qua công cuộc khảo sát nghiên cứu mang tên “Diễn Đàn ở Bàn Quì” về chuyện Tôn giáo và Đời sống tổ chức tại Tây Ban Nha, thì: tại nước này, chỉ có 20% người Tây Ban Nha là còn đi nhà thờ/nhà thánh mỗi tuần một lần. Ở Đức, xứ sở của Đức Bênêđíchtô thứ 16, thì: chỉ một phần 6 số người ở nước này, có khi lại ít hơn, là còn bận tâm đi nhà thờ nhà thánh. Trong khi đó, ở Pháp, chỉ đếm được mỗi 10% thôi. Thống kê Toà Thánh cho biết: châu Âu là đất miền duy nhất trên thế giới từng chứng kiến sự giảm sút số người nhận mình là Công giáo tính từ thập niên 1990 đến 2010. Thời gian này, số người đi Đạo trên toàn thế giới đã gia tăng 30% tức lên đến 1tỷ 200 triệu người còn gắn bó với Đạo. Xem thế thì, châu Âu nay chỉ có 23.8% người tự nhận là Công giáo so với thế giới.

Điều này khiến nhiều người nghĩ đến tương lai cũng rất gần, khi toàn châu Âu cũng giống như tình trạng của Phi Châu, Ai Cập và Syria khi trước, từng được coi là cái nôi của Đạo trong quá khứ. Nhưng, nay: giới Hồi giáo mộ đạo sẽ thế chỗ ở đó, trong khi Đạo Công giáo ở châu Âu được thay thế bằng các chủ thuyết tương đối, cá nhân vị kỷ, chế độ phàm tục và chung cuộc rồi ra cũng sẽ đi đến giai đoạn tự hủy. Mọi người sẽ nhận ra động thái trái nghịch sẽ xảy đến với châu này, là: tình trạng các linh mục thừa sai người châu Phi hay Nam Mỹ nay sẽ quay ngược về với nôi của Đạo để rao truyền Đạo, trở lại. Cũng nên thêm đôi chuyện bên lề, bảo rằng: chuyện này đã và đang xảy ra ở Tân Tây Lan, nơi đó một số rất đông các linh mục người Philíppin, Việt Nam, Ấn Độ và Nam Hàn tìm cách ngăn chặn tình trạng thuyết ngoại đạo, vật chất đang lan tràn chiếm đất ở xứ sở này.” (xem Marcus Roberts, Pope Francis and the Church He Must Shepherd, MercatorNet 14/3/2013)

Nhận định và lời cảnh báo của người trong cuộc, thì như thế. Còn người ngoài cuộc thì sao?
Trước nhất, hãy hoà mình vào với lời nhạc, vẫn như sau:

“Em ơi! ảo hình kia lôi cuốn,
Nhưng, anh đã nói anh yêu em.
Thì, ngàn kiếp vẫn không thay lòng.”
(Y Vũ – bđd)

Chao ôi, là lời lẽ! Những lời và lẽ nghe cũng dễ: “Ảo hình lôi cuốn”, nhưng “anh nói vẫn yêu em”, thì “ngàn kiếp không thay lòng”. Đó, là lời của “thủy thủ” với “biển cả”, và của “hoàng tử với lòng nàng”. Con thuyền Hội thánh hôm nay, cũng đang có “ảo hình kia lôi cuốn”, với những “chòng chành” sóng nước, và ọp ẹp rò rỉ khá tư bề! Vậy thì, vị thuyền trưởng mới cứng, sẽ ra sao? Vì này là ai thế? Ngài quyết vững lái đến thế nào?
Để trả lời, truyền thông/báo đài Đạo và đời, mấy hôm nay, đà lên tiếng. Một trong các tiếng nói được nêu lên từ người đi Đạo được ghi nhận, như sau:

“Trong lúc toàn thế giới đang hướng mắt về phía ống khói trên nóc nhà thờ Sistine ở Rôma, mọi người đều thấy chú Hải âu nọ vừa đáp nhẹ lên trên đó. Tức thì, có nhà báo vội viết đôi giòng trên Twitter kể về hiện tượng này, bằng những câu: hình ảnh chú chim hải âu trụ trên nắp ống khói chừng như tiên đoán điều gì đó. Điều trước tiên được liên kết với vị Giáo hoàng tương lai sẽ là người yêu thiên nhiên và chim muông một cách rất đặc biệt, đâu biết được.”

Không lâu sau đó, lớp khói trắng bốc phả dưới chân chú hải âu nọ cho thấy Hồng y đoàn cũng đã biết là Hội thánh Chúa đang cần gì ở vào giai đoạn đặc thù của lịch sử. Và, một hồng y thành viên Dòng Tên rất khiêm tốn, vừa đắc cử. Tên ngài là Jorge Mario Bergoglio, Tổng giám mục 76 tuổi của thành Buenos Aires, nước Argentina đích thị là Giáo hoàng đầu tiên của Nam Mỹ đã lấy tên của vị thánh khó nghèo thành Assisi, là Phanxicô.

Theo phóng viên John Allen, là nhà phân tích tình hình của Vaticăng trên đài CNN, thì: Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô Đệ Nhất là con của một công nhân đường sắt người Ý từng qua Argentina lập nghiệp. Cũng theo phóng viên Allen này, thì: Đức Tân Giáo Hoàng này nổi tiếng là con người bình dị. Ngài chọn lối sống ở căn hộ nhỏ chứ không phải toà nhà dành cho Tổng Giám Mục. Khi đi làm, ngài lại chọn phương tiện công cộng, như xe buýt rất thoải mái. Phóng viên Allen có viết: Giáo hoàng Phanxicô từng nổi danh là “tiếng nói của người nghèo vì người nghèo. Khi chọn tên vị thánh nổi tiếng khó nghèo làm tên mình, Đức Tân Giáo Hoàng muốn gửi đi khắp nơi một dấu hiệu cho thấy triều đại Giáo hoàng của ngài cũng sẽ khác thường. Danh xưng Phanxicô tượng trưng cho sự nghèo khó, khiêm hạ, giản đơn, quyết tái thiết Hội thánh Công giáo, khắp hoàn cầu.” (xem Sheila Liaugminas, We Have a Pope, MercatorNet 14/3/2013)

Thế đó là tường trình về cuộc bầu bán nhân vật chóp bu trong Đạo vừa đắc cử. Nhưng, câu hỏi được đặt ra ngay sau khi có kết quả như vừa rồi, là: Đức Tân Giáo Hoàng là ai thế? Tác giả chuyên viết tiểu sử các vị giáo hoàng là Geoge Weigel của đài NBC từng phân tích: các sự việc xảy ra trong tuần qua với Hội thánh Công giáo đã gọi sự kiện về đức tân Giáo hoàng lấy tên Phanxicô Đệ Nhất là “thời khắc bản lề” của Hội thánh hôm nay. Thời khắc này, là thời của kỷ nguyên mới về cải cách ở thế kỷ thứ 21 này, trong đó Đạo Chúa sẽ chuyên giảng rao Lời của Ngài bằng cách đưa ra bộ mặt mới cho thế giới.
Phóng viên George Weigel còn tường trình về đài NBC rằng: vị tân Giáo hoàng này là “con người quả cảm”. Ngài sẽ là bậc vĩ nhân chuyên bảo vệ Đạo trên khắp mọi miền tận cùng của thế giới. Triều đại Giáo hoàng hôm nay đã hướng về với thế giới mới. Hội thánh nay đã có vị Giáo hoàng mới với tên gọi cũng rất mới. Theo phóng viên này, thì: nội tên gọi của vị Tân cử thôi cũng đã nói lên quyết tâm của Hội thánh đối với người nghèo trên thế giới. Quyết tâm đây, là quyết một lòng yêu thương độ lượng trong một thế giới đang cần nhiều sự chữa lành.
Và cuối cùng, chủ trương nằm gọn nơi danh xưng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất khi được bầu là “miserando atque eligendo” (tức: tuy thấp hèn nhưng lại đã được chọn) đã nói lên tình tự mình đã có khi bước lên ngai vị Giáo hoàng của Hội thánh rất toàn cầu. Tắt một lời, một ngày mới đã ló rạng. Và, một kỷ nguyên mới đã khởi đầu cho Giáo hội.
Xem như thế, chắc chắn là: từ nay, toàn thể thế giới sẽ hướng về Hội thánh Chúa nhiều hơn để xem vị chủ trì Giáo triều La Mã có thực hiện được những điều mình ước nguyện không. Chắc chắn là, từ nay, mọi cặp mắt và đôi tai của những người trong/ngoài Hội thánh sẽ đổ dồn về Rôma để chứng kiến sự việc còn xảy ra với thế giới, và Giáo hội.
Thế giới hôm nay, như phóng viên George Weigel nói: đang cần đến vĩ nhân khả dĩ làm được công việc cao cả là chữa lành, tức: cứu vớt nhiều người cả ở trong lẫn bên ngoài triều thần La Mã, tượng trưng cho thế giới nhà Đạo. Việc này làm cho bạn và tôi, ta lại nhớ về truyện kể từng nói đến vai trò chủ chốt của các đấng “tu mi nam tử” được gán cho mình, ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ.
Truyện kể bắt đầu bằng câu hỏi như sau:

“Tại sao anh muốn lấy vợ? Tức là: tại sao anh lại muốn làm chủ gia đình để rồi, sau này, lại sẽ làm chủ xã hội? Câu trả lời rất đơn giản, chỉ như sau: vì anh muốn chứng minh rằng mình thuộc loại người dũng cảm dám cứu vớt cả và nhân loại. Việc này cũng dễ hiểu, bởi đàn ông nào từ lúc sinh ra mà chẳng được gán cho trách nhiệm lớn lao và mơ ước cứu nhân loại, là: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ!”

Muốn làm việc lớn, trước hết phải làm việc nhỏ, là: cưới vợ. Bởi, khi cưới vợ, anh đã cứu được hai mạng người, đó là cha vợ và mẹ vợ. Vì hai vị này khi có con gái đều đã nơm nớp lo sợ con mình bị ế, hay như người ta thường nói “hũ mắm treo đầu giường”, như vậy, khi cưới vợ anh đã cứu được hai mạng người, ngày đêm sống trong âu lo, có thể đau tim chết bất cứ lúc nào, không hay.

Tuy nhiên, tui cũng khuyên: cứu nhân loại là việc vô cùng khó khăn. Vậy nên, đàn ông thường mắc kẹt ngay ở bước đầu, nghĩa là cưới vợ. Sau khi lấy vợ, anh lại phải loay hoay cứu bản thân mình trước… đã!

Nghĩ thế rồi, bạn bè lại phản hồi thêm một truyện kể cũng na ná thế này:

Có phải anh bảo: Cưới vợ là vì nghĩa khí ư? Thế, anh có đọc truyện chưởng Cổ Long không? Ông Cổ Long ổng nói: “Hôn nhân giống như nghĩa khí, biết là chuyện không đáng làm nhưng không thể không làm.” Thấy không? Đám cưới nào cũng diễn ra rất nhanh, đa số khách đến đều vội vã ăn, vội vã mừng, ngấm ngầm chia buồn với nhà trai, hân hoan chia vui với nhà gái, rồi hấp tấp xin phép cáo lui, chưa đầy 2 hay 3 tiếng, xong, là cái nhà hàng nó lạnh tanh.

Duy chỉ có cha mẹ cô dâu là tương đối thong thả, đi lại mang vẻ rầu rĩ nhưng sâu xa tự thấy sảng khoái thanh thản, ông bà hễ thấy ai ở nhà trai là chân thành lắp bắp cám ơn rối rít. Không phải là chuyện ngẫu nhiên mà tất cả đàn ông trong ngày cưới đều phảng phất có vẻ của kẻ trượng phu đại hiệp, đứng thẳng người, hiên ngang đón khách.

Tuy nhiên làm người anh hùng nghĩa khí thường hay chết sớm, cho nên tôi có lời khuyên:
Sống hùng sống mạnh sống chẳng dai
Sống hèn sống nhát lai rai sống hoài.” (Truyện kể trích trên mạng, mới vừa đây)

Truyện kể đọc rồi, hẳn người đọc hoặc người nghe, cũng sẽ có phản ứng rất khác nhau, Người thì đồng ý, kẻ thì không. Nhưng dù thế, hãy cứ nghe người nghệ sĩ ở trên vẫn cứ nhắc nhở bằng lời ca câu hát, rất như sau:

“Càng đi xa, anh càng nhớ em!
Trước đại dương ngát xanh muôn trùng.
Kìa ngư nhân in hình trên sóng.
Bao nàng công chúa dưới thâm cung…”
(Y Vũ – bđd)

“Càng nhớ anh”, “trước đại dương”, ôi chao, là chữ nghĩa rất gọi “anh”. Nếu chữ này, mà lại viết hoa, thì có lẽ người em “đại dương” kia sẽ lại nhớ mãi lời lẽ của đấng thánh hiền, từng dặn dò:

“Chúng tôi đã đồng tâm nhất trí
quyết định chọn một số đại biểu,
và phái họ đến với anh em,
cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi
là ông Banaba và ông Phaolô,
những người đã cống hiến cuộc đời
vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
(Cv 15: 25-26)

Nếu thế thì, dù vĩ nhân vừa mới nổi có là vị Giáo chủ vừa đắc cử, chắc chắn vị ấy sẽ còn nhớ mãi Lời Ngài. Bởi, Lời không chỉ là âm thanh xuất từ môi miệng của Chúa, mà thôi; nhưng Lời lại chính là Ngài. Là, Đức Chúa. Và, Lời đã thành xác phàm để sống đời nghèo hèn làm gương cho muôn dân. Và, Lời sẽ lèo lái con thuyền của thánh hội. Lời, còn là thực thể rất thực tế vẫn cứ sống rất sinh động trong thánh hội. Lời, chính là Thần Khí Chúa tỏ hiện nơi thánh hội, đã mang đủ tính chất nghèo hèn, ngay từ đầu.

Trần Ngọc Mười Hai
Rất vui và cũng mừng
khi Hội thánh vừa có vị chủ chăn rất mới
đã nhớ đến người nghèo.
Sống rất nghèo, nhưng không hèn.

Suy niệm Lời Ngài đọc vào Lễ Phục Sinh năm C 31.3.2013

“Hãy áp môi trên phiến đá mòn,”
“Loài hoa mộ chí cánh thoa son.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Ga 20: 1-9; Lc 24: 13-35

Phiến đá mòn, nay bật nắp để lộ “Loài Hoa Mộ Chí” vẫn còn sống. Hoa Mộ Chí, đã trỗi dậy tỏ bầy cho mọi người biết Chúa vẫn ở với anh và với em suốt mọi ngày. Trình thuật thánh Luca kể về tâm tình ngày Chúa Sống Lại đã chuyên chở cùng một tâm tình, giống như thế.
Trình thuật Phục Sinh, các thánh đã thấy dấu hiệu của bình minh xuất hiện trên bầu trời ở phía Đông. Nhưng, không để báo hiệu một ngày mới sẽ nối tiếp, cho bằng nói lên loại hình tạo dựng rất tân kỳ. Tân kỳ, là ở chỗ: nếu hỏi mọi người: theo họ, Đức Giêsu giống loại người nào khi Ngài sống lại từ cõi chết, hẳn sẽ có người bảo: Ngài giống nam-hoa-hậu Vũ Trụ. Và sẽ có nhà tâm-lý-học nào đó cũng đặt câu hỏi: quý vị lấy ý tưởng này ở đâu ra? Phải chăng nói thế là muốn mình được như vậy?
Xưa nay, Kinh Sách và nhất là thư thánh Phaolô đem đến cho ta câu trả lời rồi. Kinh Sách ám chỉ rằng: Đức Giêsu đem những điều về nỗi chết của Ngài đưa vào sự sống đã trỗi dậy. Như thế có nghĩa: Ngài đã duy trì những thứ đó và biến nó thành một thứ gì tích cực, lành lặn để rồi Ngài tháp nhập tất cả mọi người vào con người của Ngài. Phục sinh, không là chuyện lấy nước nóng tẩy sạch mọi bợn nhơ trên mình Ngài và loại bỏ những gì đến với Ngài trong đau khổ và nỗi chết; tức: thứ gì đó đối chọi giữa sự chết và sống lại. Bởi, cả hai đều tuỳ thuộc lẫn nhau thành từ ngữ để ta hiểu.
Thánh Phaolô sáng chế ra cụm từ “Đức Kitô-chịu đóng đinh” có gạch nối ở giữa. Và khi nói đến Đức Kitô, là thánh-nhân nói về Đấng đã trỗi dậy. Và khi nói đến Chúa trước ngày Ngài Phục sinh, là thánh Phaolô lại đã gọi Ngài là Đức Giêsu. Ở tiếng Hy Lạp, thánh-nhân dùng cụm từ “estauromenos” bên cạnh tên tuổi “Đức Kitô”, tức có chữ gốc “Stauros” mang ý nghĩa của thập giá. Nên, cụm từ này có nghĩa: giá trị của thập giá và nỗi chết được viết chung vào sự “trỗi dậy” trở thành “Đức Kitô-Phục Sinh”.
Ở đây, ta nói đến giá trị của chữ nghĩa hoặc triển khai bản vị mà Đức Giêsu cảm nghiệm thực sự khi Ngài chịu đóng đinh trên thập tự, chắc chắn Ngài không thể nào cảm nghiệm khác hơn thế. Tức, cảm nghiệm ấy không biến mất đi khi Ngài sống lại. Tất cả vẫn gồm tóm nơi Ngài, đóng ấn trong Ngài và sẽ còn kéo dài đến vĩnh cửu. Tất cả là thành phần gói gọn trong ý nghĩa đó.
Điều này còn có nghĩa: khi trỗi dậy từ cõi chết, ta không gỡ bỏ được những gì xảy đến trong cuộc sống khổ đau hoặc kinh nghiệm mà cái chết mang đến cho ta. Kết quả là, ta đã trở thành con người khá hơn, tốt lành hơn. Và, sự trỗi dậy vẫn cứ duy trì hết mọi thứ và khiến cho chúng rõ ràng hơn vào mọi lúc.
Có người còn gọi Đức Kitô-Phục sinh là Đấng có “dấu thánh” đặc biệt. Nhưng, điều đó không có nghĩa: vết thương thân mình Ngài vẫn nguyên vẹn hình dạng trên Ngài cách thể lý. Nhưng ý nghĩa đích thực, là trọn vẹn con người và bản thể Ngài vẫn còn ghi dấu khổ đau Ngài canh cánh bên lòng, vì yêu thương người phàm.
Đức Mẹ cũng thế. Khi Mẹ về trời bằng vào Phục sinh, ta cũng thấy được nơi Mẹ tất cả những gì Mẹ lãnh chịu do tình thương yêu còn đó, theo cung cách nào đó, không là thể lý, xác phàm mà là giá trị thần khí nơi bản vị của Mẹ. Chính vì thế, mà thánh Phaolô lại nói về tình trạng chết chóc, trống rỗng của Đức Giêsu -tức “kenosis” tiếng Hy Lạp- và thánh-nhân coi sự việc ấy cũng một dạng theo thể trạng của Đức Kitô-Phục Sinh. Điều này làm ta cảm kích và suy ra rằng ta đi vào với hỗn độn như tình trạng của nỗi chết hoặc những gì tương đương, nhưng được gộp vào tình trạng trỗi dậy sống động của Chúa.
Đó là lý do khiến ta nói đến Đức Kitô-Phục sinh, tức: Ngài hiện diện trong vũ trụ. Ngài không chỉ ở với chúng ta, mà còn như Đấng đã vượt khỏi ta nữa. Ngài trỗi dậy trong ta và ở trong trạng thái có nỗi chết của chúng ta. Ngài sờ chạm và chữa lành mọi khốn khó do bạo động của vũ trụ. Ngài là Đức Chúa chữa lành hết mọi người, mọi vật.
Ngài đã vuợt quá giới hạn không gian và thời gian trong vũ trụ của ta. Ngài không ở ngoài không gian và thời gian như thế, nơi vũ trụ. Ngài ở trong tất cả. Trỗi dậy với ta và trong ta, đã là tất cả. Đó là hiện hữu bí nhiệm, tuyệt diệu. Chính đó là sự thực của hiện hữu. Sự thực ấy, còn thực tế hơn cả mọi hiện hữu ta cảm nghiệm được với nhau, trong nhau. Ta không cảm nghiệm sự thể giống như thế và như thế là do giới hạn của không gian và thời gian ta đang sống cho đến ngày đi vào cõi chết.
Đến ngày đi vào cõi chết, ta được cởi bỏ khỏi mọi giới hạn của thời gian và không gian. Và khi đó, toàn bộ hữu thể của ta sẽ tràn ngập kiến thức và tình thương yêu đối với Đức Kitô-Phục sinh đang trỗi dậy trong ta. Nói cách khác, ta đang được sẻ san với sự Phục sinh của chính Ngài.
Đức Giêsu trỗi dậy khỏi nỗi chết, Ngài cảm nghiệm theo tính chất người phàm mọi hiểu biết về chính Ngài, về Cha và về tất cả chúng ta, theo cung cách Ngài chưa từng làm thế, trước đó. Ngài biết rõ chính Ngài, biết Cha và biết chúng ta theo cung cách rất mới mẻ. Khi ta chết và trỗi dậy ở trong Ngài, sự thể cũng sẽ hiện ra như thế đối với ta.
Thế nên, Phục Sinh là lễ hội của sự trỗi dậy nơi Ngài và nơi ta. Phục Sinh, là chân trời căn bản ta được mời gọi sống trong đó. Không có chân trời nào khác lại có thể đối đầu với bí nhiệm của sự chết đến như thế. Và, đó là cung cách đầy chết chóc để mà sống. Toàn bộ sự sống động của ta, nay mang ý nghĩa một trỗi dậy. Không chỉ là sự sống động trong Hội thánh, mà thôi, nhưng cả sự sống động theo cung cách phàm trần nữa.
Ta hiểu được mình sống trong sự nhận thức rất chắc chắn rằng không ai bị loại bỏ khỏi sự sống có trỗi dậy. Không có vấn đề để bảo rằng: không gì được chữa lành mà không đi vào sự sống có trỗi dậy. Không vết tích nào của sự sống lại mà không kết thúc trong sự sống có trỗi dậy được. Điều đó giúp ta thực hiện chữa lành bạo lực và nỗi đớn đau, sầu buồn của người đồng loại trong thế giới thực tại ta đang sống cùng và sống với.
Phục sinh là viễn tượng của niềm tin đang sống thực tại, trong hiện tại. Ta không chỉ tin rằng Đức Giêsu đã trỗi dậy khỏi mộ trống mà thôi, nhưng còn tin rằng ta có thể ra khỏi con người mình, ngay lúc này. Đó mới là niềm tin. Chính đó mới thực sự là tin và kính một niềm tin chính đáng.
Trong cảm nghiệm niềm tin như thế, cũng nên ngâm tiếp lời thơ đã cất lên từ đầu, rằng:

“Hãy áp môi trên phiến đá mòn.
Loài hoa mộ chí cánh thoa son.
Vầng trăng đáy huyệt xanh trong mắt.
Nghe biển mưa sao, gió gọi hồn.”
(Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)

Biển mưa sao, gió gọi hồn, là hiện tượng Chúa cùng ta trỗi dậy. Trỗi dậy trong Phục sinh thực tiễn vẫn rất thực, ở chốn đời thường.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch