Chuyện phiếm đọc vào tuần Phục Sinh năm B 08.4.2012

“Chiều còn vương nắng để gió đi tìm,”
“Vết bước chân em, qua bao nhiêu lần.
Lời ru, đan ngón tay buồn
Ngàn năm, cho giá băng hồn
Tuổi gầy, nồng lên màu mắt... .”
(Ngô Thuỵ Miên – Dấu Tình Sầu)
(Ga 1: 1-5)
“Tuổi gầy nồng lên mầu mắt”, có là bao mà sao buồn đến thế? Phải chăng đó là nỗi buồn ở tuổi mười ba, khi em và tôi, ta vẫn “ta bà” chạy khắp xóm? Hay là, tình nồng tuổi đôi tám, mà bầy tôi đây vẫn chẳng dám. Hoặc cả hai? Ôi thôi, bầy tôi cũng phải chạy dài, rồi khấn vái.
Thật ra thì, 13 có là tuổi ngọc ngà nhiều me chua cùng mận ngọt hay chỉ là tuổi thích ô-mai lai rai, ngậm dài dài! Còn đôi tám, lại là tuổi của bọn tôi khi đó vẫn rất quậy. Quậy rồi phá. Phá làng/phá xóm để vui cười, đôi lúc cũng bị cha mẹ la mắng, đuổi ra sân. Tuổi gì thì tuổi, vẫn là “lũ kỷ niệm” mà đám phá phách bọn tôi đây không chừa nổi. Với người đời, tuổi ô mai chín mọng hoặc tuổi thần tiên đôi tám là tháng ngày hạnh phúc chốn dân gian giờ đây chắc khó tìm thấy, dù rất muốn.
Kể ra thì nghệ sĩ họ Ngô trên đây, nay nhớ “tuổi gầy nồng lên” năm nào, để rồi sẽ hát tiếp đôi câu:

“Trời còn mây tím, để lá mơ nhiều.
Lá khóc trên mi, cho môi ươm sầu.
Chiều lên, đỉnh núi ngang đầu
Nhặt thương, cho gót dâng sầu
Giận hờn, xin ngập lối đi.”
(Ngô Thuỵ Miên – bđd)

Kể đi rồi thì kể lại, đã thấy ngôn ngữ người mình thật phong phú và cũng thi phú. Có mỗi chuyện phát âm thôi, cũng làm bạn bè người nước ngoài phải vận dụng đến ba tấc lưỡi uốn lên uốn xuống cho thật đúng cách mới phát âm cho chuẩn được. Bằng không, thì phải cải chính với chỉnh sửa, mới "tiện bề sổ sách”.
Còn nhớ, hồi bần đạo mới lên 9 đã chịu cảnh mồ côi cha, bôn ba theo mẹ từ Sàigòn ra Hà Nội để nhờ các anh chị trông nom gia đình thay cho mẹ. Bần đạo, khi ấy đã phải vật lộn với chữ nghĩa của đồng môn thấy khá mệt vì cung cách phát âm nghe cũng lạ.
Rõ ràng chỉ mỗi đoạn Kinh thánh có mấy chữ: “Kho tàng giấu dưới ruộng” thôi, mà sao đám bạn dân Bắc của bần đạo cứ đọc đi đọc lại câu ấy mà chỉ nghe mỗi âm “dê” và “dê” tựa hồ: “kho tàng dzấu dzưới dzuộng” đến lạ kỳ. Kịp khi khôn lớn, ra Huế lập nghiệp, bần đạo lại vất vả thêm với lối phát âm “thần thánh” của các anh chị giống giòng hào kiệt đất thần kinh sông nước mỗi lần đọc Tin Mừng có đoạn nói môn đồ hỏi Chúa điều gì, nghe đi nghe lại cứ như thể: “Chúa đạp môn đệ” thay vì “Chúa đáp lại môn đệ”, cũng đã ghê và rất sợ.
Chợt đến lúc vô Nam, bần đạo còn nhớ: lần nọ có thầy trợ sĩ chuyên lo phòng khách nhà Kỳ Đồng của bổn Dòng kể lại:

Hôm ấy có chị giáo dân rất thân là người đặc sệt gốc Nam Kỳ tìm đến nhà Dòng để gặp cho được người anh linh mục tên Lan. Thầy phụ trách hỏi đi hỏi lại mãi:
-Cha Lan mà chị muốn gặp có dê hay không dê? Nhà Dòng chúng tôi có một cha Lan còn trẻ không “dê” là cha Phaolô Nguyễn Ngọc Lan, còn cha Lan kia lớn tuổi hơn là cha Lan có “dê” tức cha Félix Lê Văn Lang. Vậy chị muốn gặp cha Lan nào?”
Nghe hỏi gắt, nữ giáo dân bèn vội đáp:
-Dạ, cha Lan có dê hay không dê đối với em không thành vấn đề, em chỉ muốn gặp ông cha chuyên xuống đường để hỏi vài câu thôi!
Nghe thấy thế, thày nọ bèn gật gù nói:
-À, cha đó là cha Nguyễn Ngọc Lan có làm chính trị nhưng không có “dê”!…

Về xử thế với người đời, đôi lúc bạn và tôi, ta cũng thấy xảy ra nhiều nghịch cảnh đến độ mỗi lần nghĩ đến đều thấy rất thương nhưng không hại, dù nhiều lúc cũng vẫn là thương hại, hoặc thương rồi hại. Thế đó là chuyện ngôn ngữ.
Về ngôn ngữ của người nước ngoài, tuy ngữ vựng và ngôn từ của họ cũng phong phú nhưng chẳng thi phú bằng tiếng nước mình, như trường hợp sau đây:

“Thư gửi ông Steve Jobs,
Lẽ đáng ra, tôi đã phải gửi bức thư này cho ông trước khi ông lìa đời mới đúng, nhưng vì thấy ông có biệt tài về truyền thông tinh vi đã sáng chế ra những là: iPod, iPhone và iPad hoặc thứ gì đó cả sau khi chết nữa để tự giúp mình chuyển tải thông điệp gửi từ trái đất về nơi mình ở và ngược lại, nên tôi hy vọng ông sẽ tìm ra phương thức nào khác rất thực tiễn hầu tải thư phản hồi do ông trả lời từ nơi ấy (?).

Giống nhiều người, tôi cũng bị ấn tượng khá nhiều về chuyện đời tư của riêng ông, tức chuyện tự sự của một trẻ mồ côi từ hồi còn nhỏ, chẳng ai muốn đem về nhà nuôi để rồi sau này, khi khôn lớn, ông lại sẽ sáng chế ra những thứ rất lạ, mọi người đều muốn có. Chuyện đời là chuyện của một người nổi tiếng sáng chế ra cung cách rất mới cho công ty Apple.

Thập niên qua, thời mà tên tuổi của ông nổi như cồn, cứ liên tục đem đến cho giới tiêu thụ chúng tôi nào là iPod (năm 2001), rồi iPhone (2007) và iPad (2010). Nhưng, đó là các thiết bị điện tử do ông sáng chế, để ai nấy tìm cách lánh xa mọi người xung quanh, hầu tìm một góc riêng mà hưởng thụ niềm vui cho riêng mình. Có lẽ ông cũng chẳng thiết tha gì chuyện chế biến các dụng cụ điện tử nào khác để mọi người xài chung, tựa như wePod, wePhone hoặc wePad để giúp mọi người có thể cùng nhau trao đổi cho thoải mái có yêu thương, tức: chỉ muốn kiến tạo thật nhiều hải đảo cách chia khiến mọi người cứ phải sống biệt lập, trên mặt đất. Các thứ như: iPod, iPhone và iPad do ông sáng chế cái nào cái nấy đều là thiết bị mới của một thành phố bít kín trong bốn bức tường ngột ngạt không cho mọi người đến được với nhau để cảm thông, yêu thương và giùm giúp. Nói chung, thiết bị ông tạo ra chỉ đem thế giới đến với riêng ông hệt như một người tiêu thụ chỉ thích hàng ngoại, thôi.

Thiết bị do ông sáng chế có mỗi điều hay là: nó giúp bọn tôi gom gộp toàn thể thế giới/vũ trụ vốn đã đủ mọi rắc rối có ở đời vào món đồ gọn lỏn trong lòng bàn tay. Nhưng nó lại có điểm yếu khác là: từ nay bọn tôi chỉ nhìn thấy diện mạo của một số rất ít bà con, cô bác dù họ ở sát cạnh bên.

Hiện có rất nhiều điều tôi muốn đạo đạt với riêng ông mà thôi, dù tôi không có thẩm quyền để phán xét chuyện người khác, nhưng tôi cố tìm hiểu vẫn không rõ tại sao ông lại cứ tránh né không muốn tặng tiền cho hội bác ái từ thiện này nọ một chút tiền dư mà ông kiếm được từ những doanh thương ông đeo đuổi. Tôi cũng không biết tại sao ông lại ít đề cập đến gia đình nhân loại là thế. Tôi càng thấy buồn khi biết ông đã tự liệu trước cho mình việc ra đi vào cõi vĩnh hằng, khi ông tiết lộ cho giới trẻ từng khâm phục tài năng của ông, rằng: “Đừng để mình rơi vào bẫy cạm của các tôn giáo chuyên gài bẫy bằng một số tín điều nghe rất hay, mà thật ra đó chỉ là kết quả của lối suy tư mà người khác mang đến thôi.”

Theo tôi, ngôn ngữ ấy là bí kíp tạo cô đơn đến cùng cực vốn cắt hết mọi liên hệ giữa người với người, bằng chủ tâm khiến chúng tôi phải ra khỏi kinh nghiệm phong phú đang chờ đợi chúng tôi ngay từ lúc chúng tôi bước vào cuộc sống con người.

Có lần ông nói: “Sự chết giống như một sáng chế/phát minh đơn điệu cũng rất đẹp của sự sống. Đó là dạng đổi thay của sự sống, mà thôi.” Và đây quả là điều mà chúng ta có thể chấp nhận đồng hành. Nói cho đúng, thì sự chết là cơ hội duy nhất để ta duy trì/cầm cự những gì quý giá nhất, đối với ta. Với người theo Đức Kitô, chết là sự thể duy nhất cho phép ta được sống mãi cõi miên trường, kéo dài đến thiên thu. Chính ông có lần cũng nói: “Sự chết đẩy người cao niên vào nơi nào khác hầu người trẻ mới xuất hiện được, tức: có thể tạo tiến trình sống theo cung cách hệt như mẫu mã của các thiết bị, nay lỗi thời.”

Theo tôi, không phải thế. Ngược lại mới đúng. Chết là cách giúp ta thưởng ngoạn trong cảm kích sự già nua/lỗi thời, có như thế ta mới taọ điều kiện giúp cái mới/người mới biết cảm kích tuổi già là thế nào. Chúng tôi tin rằng sự sống tự nó là cội nguồn của nhiều điều thích thú, vui tươi và kinh ngạc hơn các cửa hàng đầy những thiết bị tối tân, đẹp, lạ lung nhiều mẫu mã.” (x. Michael McGirr Australian Catholics Summer edition, tr. 9)

Về sự phong phú của ngôn ngữ, có lẽ cũng nên để ý đến một số khía cạnh khiến người đọc Tin Mừng biết về sự thực của cuộc sống trong không gian vũ trụ mình đang sống. Trước hết, là ngôn ngữ thi ca phong phú của thi hào Archibald MacLeish nước Anh, khi ông bàn về nét đẹp của vũ trụ/vạn vật lúc phi hành gia tầu Apollo chụp một số ảnh hình của trái đất, bằng thứ ngôn từ nghe hơi lạ như:

“Nhìn trái đất trần trụi rõ mồn một từ không gian bên ngoài, bạn thấy nó bé nhỏ và xanh biếc biết là chừng nào. Nó trở nên quá nhỏ khi đắm chìm trong cõi tịch liêu, bồng bềnh ở đây đó, giống hệt cảnh tượng có thực, trong đó người đi bộ hoặc chạy xe đang di chuyển trên mặt đất. Nói cách khác, nhìn người anh/người chị của ta hiện hữu trong tình yêu sáng rực ở chốn lạnh tanh kéo dài miền vĩnh cửu, người người nhận ra được sự thật rất to lớn là: các người anh người chị ấy nay đã biết: dù gì mình vẫn là anh em của nhau và với nhau theo nghĩa đích thực, rất đáng yêu.” (x. Archibald MacLeish, Bubble of the blue Air, Riders on Earth Together, Brothers in Eternal Cold, New York Times 25/12/1968)

Vâng. Sự thật là thế. Người ở đời vẫn nhớ và cứ nói bằng ngôn ngữ đời thường, nhưng lại quên chính “Lời” mà thánh Gioan từng qu%