Secretariat For Non-Believers
Văn phòng liên lạc với những người vô thần được Đức Giáo hoàng Phao-lô VI thành lập năm 1965 có chức năng đối phó với vấn đề về thuyết vô thần trong thế giới hiện đại. Bên cạnh việc nghiên cứu những nguyên nhân của thuyết vô thần và những phương thế ứng xử với chúng, văn phòng còn chịu trách nhiệm cổ vũ cho hoạt động đối thoại mang tính xây dựng với những người vô thần. Cũng chính Đức Giáo hoàng Phao-lô VI trong năm 1967 đã làm rõ và định rõ thêm vai trò của văn phòng này trong ánh sáng của Hiến Chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Hiện đại.
Secretariat Of Central America And Panama (Secretariato Episcopale Dell'America Centrale, S.E.D.A.C.)
Văn phòng Giám mục Trung Mỹ và Panama là một tổ chức của các giám mục Công giáo vùng Trung Mỹ và Panama được thành lập năm 1970 theo sắc lệnh về nhiệm vụ Mục vụ của các giám mục trong Giáo hội và Tự sắc Hội Thánh (motu proprio Ecclesiae Sanctae) của Đức Giáo hoàng Phao-lô VI. Chức năng của tổ chức này là trao đổi tài liệu và các thông tin khác và khi có trường hợp nảy sinh tổ chức này sẽ khởi xướng các chương trình có sự quan tâm chung. Tổ chức này thông thường họp hai năm một lần.
Secret Prayer
Lời nguyện thầm/Lời nguyện Tiến Lễ là một hoặc nhiều lời cầu nguyện trước đây được linh mục đọc thấp giọng sau khi đọc “Anh chị em hãy cầu nguyện” khi dâng bánh và rượu (Orate Fratres) và ngay trước Lời Tiền tụng (the Preface of the Mass). Lời cầu nguyện thông thường chỉ nói một lần, hiện giờ được lập rõ tiếng và được gọi là Lời nguyện tiến lễ (Super Oblato)
Secret Society
Hội kín là một tổ chức mà những thành viên có thể không tiết lộ mục đích, nội dung hoặc những hoạt động trong hội của họ cho các giới chức có thẩm quyền của chính quyền hoặc giáo hội. Bởi vì sự bí mật của các hội kín thường gây sự bất lợi cho những người không phải là hội viên thông qua sự kiểm soát đáng ngờ và cũng gây phương hại đối với đức tin Công giáo, hàng thế kỷ qua Giáo hội đã cấm các tín hữu Công giáo tham gia vào các hội kín và thường áp dụng những hình phạt khắt khe theo giáo luật đối với những người bất phục tùng. Trong một số điều kiện có giới hạn, người Công giáo có thể vẫn giữ sự liên hệ hạn chế với những tổ chức này. Những hội kín bị cấm thường tài trợ cho những sự nghiệp từ thiện và bác ai nhưng họ bị cấm chủ yếu là do chủ nghĩa tự nhiên của họ là mối nguy hiểm đối với đức tin chân chính. Trong số những mật hội bị Giáo luật cấm có Các hiệp sỹ Pythias (the Knights of Pythias), Odd Fellows, Sons of Temperance, và Tam điểm (the Freemansons)
Sect, Religious
Giáo phái tôn giáo là một hội đoàn có tổ chức của những người tách ra khỏi một hình thức đức tin đã được hình thành hoặc đã có từ lâu, thường áp dụng đối với tất cả các hội đoàn tôn giáo ở đó giáo hội nhà nước được thành lập. Trong những nước có nhiều giáo hội được pháp luật công nhận, các giáo phái thường được coi như là những nhóm tôn giáo thiếu tổ chức hoặc cơ cấu chặt chẽ và có thể không tồn tại lâu dài.
Secular
Thế tục là thứ thuộc về cuộc sống hiện tại đối ngược với tính thiêng liêng gắn với cuộc sống đời sau. Vì vậy thế tục là trần tục mà không phải như thiên đàng; là phàm nhân và không phải là thần thánh; là thụ tạo mà không phải là tự bản thân mà có; là hữu hạn mà không phải là vĩnh cửu; là hữu hình mà không phải là thần khí; là dựa trên lý trí và có thể giải thích được trong phạm vi hiểu biết của con người mà không phải là huyền bí và không lý giải được; là tương đối vì vậy có thể thay đổi theo thời gian, địa điểm và tình huống mà không phải là tuyệt đối bất biến bởi vì và tới độ nó liên quan tới Thiên Chúa không thay đổi.
Secular Arm
Cánh tay thế tục trong luật giáo hội, là Quốc gia hay nhà cầm quyền thế tục khi can thiệp vào những trường hợp thuộc thẩm quyền hợp pháp của Giáo hội. Sự can thiệp nói chung là không được yêu cầu và trên thực tế là sự xâm phạm mà can thiệp nghiêm trọng vào quyền của Giáo hội trong việc cai quản những công việc của mình. Tuy nhiên, vào thời Trung cổ, đôi khi sự giúp đỡ của bàn tay thế tục được yêu cầu, đặc biệt tại các phiên toà xử dị giáo hoặc sự phi luân nghiêm trọng khi các giới chức Giáo hội cảm thấy hình phạt cứng rắn hơn phạm vi xử lý của mình là xứng đáng.
Secular Clergy
Giáo sỹ thế tục là các giáo sỹ tham gia vào hầu hết các công việc mục vụ và không phải là thành viên của hội đoàn tôn giáo/dòng tu. Họ không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo hay đời sống cộng đoàn. Nhưng đời sống độc thân của họ, trong Giáo hội La Mã, được tuyên thệ chính thức và họ hứa vâng lời Đức Giám mục như là bề trên trực tiếp dưới Đức Giáo hoàng.
Secular Institute
Tu hội đời là một tổ chức có thể của giáo sỹ hoặc giáo dân mà những thành viên của các tổ chức tuyên xưng sống chứng tá tin mừng trong thế giới. Mục đích của họ là làm cho các thành viên đạt tới sự trọn lành Ki-tô hữu và thực hiện đầy đủ sứ vụ tông đồ. Theo giáo luật họ được phân biệt với các hội đoàn tín hữu thông thường. Lần đầu tiên họ được Đức Giáo hoàng Pi-ô XII phê chuẩn ngày 2 tháng 2 năm 1947 trong Tông hiến Mẹ Giáo hội ân cần (Provida Mater) của Ngài mà vẫn chứa đựng những tiêu chí hướng dẫn đường lối của họ. Các tu hội đời khác với các dòng tu chính thức hoặc các hội đoàn đời thường bởi vì trong khi các thành viên của họ tuyên khấn hoặc tuyên hứa, những lời khấn hứa đó về ngữ nghĩa không phải là các lời khấn công và các thành viên cũng không sống đời thường. Tuy vậy, họ là những trạng thái hoàn thiện của Kitô hữu, sứ vụ tông đồ của họ ở giữa thế giới. Các thành viên phải làm việc để mở rộng vương quốc của Chúa Giê-su Ki-tô ở những nơi chốn và tỏng những hoàn cảnh phù hợp với mọi người trong thế giới thế tục.
Secularism
Chủ nghĩa thế tục về ngữ nghĩa đây là một triết lý của chủ nghĩa tự nhiên được chủ trương từ thế kỷ 19, khởi đầu ở Anh Quốc và sau đó là những nơi khác. Đây là một hệ thống bảo thủ khẳng định rằng sự tồn tại và số phận của con người là hoàn toàn có thể giải thích được về mặt thế giới hiện tại mà không liên quan gì đến tính vĩnh cửu. Về mặt xã hội, chủ nghĩa thế tục cổ vũ sự thăng tiến của số phận nhân bản trong cuộc sống tại thế và buộc tội đạo Ki-tô giáo thờ ơ với sự đói nghèo và đau khổ bởi vì viện cớ là Ki-tô giáo chỉ bận tâm tới Thiên Chúa và cuộc sống đời sau.
Secularity
Tính thế tục là mối quan tâm chính đáng đối với những lợi ích hữu hạn và trần tục này mà không phủ nhận sự lệ thuộc của những mối lợi đó vào những giá trị vĩnh cửu và tâm linh.
Secularization
Sự hoàn tục là hành động chia cắt vĩnh viễn giữa những người đàn ông hoặc phụ nữ với những bổn phận đối của họ với đời sống tôn giáo. Họ được giải thoát khỏi những lời tuyên hứa của họ và có thể trở về với thế gian.
Secundum Quid
Về phương diện nào đó theo nghĩa đen “xét về cái gì đó”, vì thế trong một chừng mực nào đó, hoặc về phương diện nào đó, hoặc chỉ có ý nghĩa được nhận thấy. Là một cụm từ chuẩn để thể hiện sự hạn chế hoặc sự sửa đổi một nguyên tắc chung.
Sede Vacante
Trống toà là thời kỳ trong đó Toà giám mục hoặc Giáo phận trống, có nghĩa là không có Giám mục. Nói chung câu này được áp dụng đối với Toà Thánh. Các thủ tục trong thời gian này tuân theo những quy tắc được đặt ra bởi Đức Giáo hoàng Phao-lô VI trong Tông hiến về Bầu cử Giáo hoàng Rô-ma (Romano Pontifici Eligendo) năm ban hành năm 1975 thay thế cho các sắc lệnh của Đức Giáo hoàng Pi-ô XII năm 1945 và Đức Giáo hoàng Gio-an XXIII năm 1962
Sedia Gestatoria
Kiệu Sedia Gestatoria là chiếc ghế được trang trí dùng như chiếc ngai di động của Giáo hoàng. Chiếc kiệu này được buộc vào một giá nhỏ và được khiêng trên vai 6 người đàn ông trong những nghi lễ trang trọng có Đức Giáo hoàng làm lễ, đặc biệt là tại nhà thờ Thánh Phê-rô ở Rôma
Sedilia
Ghế của linh mục chủ tế là những chiếc ghế ban đầu để ở phía Nam Cung Thánh giành cho giáo sỹ làm lễ trong khi phụng vụ Thánh thể. Những chiếc ghế này đã được tìm thấy trong các hầm mộ nơi một chiếc ghế đá được đặt ở bên cạnh bàn thờ. Nghi thức Thánh lễ mới quy định: “ Ghế của chủ tế phải thu hút sự chú ý khi chỉ huy và hướng dẫn sự cầu nguyện của cộng đoàn. Vì thế vị trí đặt ghế nên ở đầu Cung Thánh nhìn xuống giáo dân.... Những ghế cho những người khác có nhiệm vụ đặc biệt trên Cung Thánh nên được đặt ở những chỗ thuận tiện cho công việc của họ” (Ordo Missae, IV, 271)
Seditious
Xúi giục nổi loạn là sự chỉ trích của giáo hội về một ý kiến được tuyên bố mà có thể phá hoại học thuyết chân chính. Vì vậy, nó không chỉ sai lầm mà còn có tính chất phá hoại đức tin hoặc luân lý.
Seduction
Sự cám dỗ là lôi kéo người khác tham gia vào hành động tình dục trái phép. Điều này là sự ngăn trở làm mất hiệu lực của hôn nhân mà Giáo hội có thể ban ơn tha thứ.
See
Chức giám mục là vị trí quyền lực của giáo hoàng hoặc giám mục của Hội thánh, được trao cho Giám mục Rô-ma đối với Giáo hội hoàn vũ và cho giám mục địa phương đối với từng giáo phận. Các toà giám mục quản lý một vùng lãnh thổ xác định được quy định bởi Đức Giáo hoàng.
Segnatura Apostolica
Toà án Giáo hoàng/Toà Tông ký là toà án cao nhất của Toà Thánh Vaticăng; khởi nguyên của toà án này có từ thời Đức Giáo hoàng Eugenius IV (trị vì từ 1431-47). Sau khi được tổ chức lại bởi Đức Giáo hoàng Phao-lô VI năm 1967, Toà án này có hai lĩnh vực thuộc thẩm quyền xét xử, cụ thể là: 1. có thẩm quyền xét xử các toà án đã được thành lập, các cuộc hành hương tới Rô-ma, các vụ việc về hôn nhân vô hiệu, việc thiết lập các toà án khu vực và liên khu vực, xử lý các vụ việc liên quan tới giáo ước giữa các quốc gia khác nhau với Toà Thánh; 2. Giải quyết những tranh chấp phát sinh từ những đạo luật về quyền lực hành chính của giáo hội như toà phúc thẩm, quyết định chọn những cuộc tranh luận về hành chính được gửi tới toà án bởi các giáo đoàn của Giáo Triều Rô-ma, và phân xử những tranh cãi do Đức Giáo hoàng gửi tới.
Seleucianism
Thuyết Seleucianism là một dạng của thuyết ngộ đạo có ảnh hưởng rất mạnh ở Galatia trong thế kỷ thứ 3. Xét qua, đây là thuyết nhị nguyên quả quyết rằng Thiên Chúa và vật chất cùng là vĩnh viễn, rằng Thiên Chúa là tác giả của tội lỗi, rằng linh hồn con người do các thiên thần làm ra từ các yếu tố vật chất, rằng địa ngục là thế giới hiện tại, rằng sự sống lại chỉ là sự sinh ra của con cái. Những ý tưởng của thuyết Seleucianism gia nhập vào dòng của những dị giáo khác cố gắng lý giải vấn đề về tội ác khỏi sự ác ý chủ tâm trong một thế giới thụ tạo.
Self
Bản thân tức là khi con người được coi như là một đối tượng nhận thức của chính mình và là đối tượng đối với các hành động của chính mình, hoặc tổng quát hơn là bất kể sinh vật (kể cả Thiên Chúa) liên quan tới sự nhận biết của chính mình.
Self-Control
Sự tự chủ là hành động, khả năng hoặc thói quen chế ngự bằng ý chí những khao khát của mình. Ý chí đó được khai sáng bởi lý do hoặc niềm tin chính đáng.
Self-Criticism
Sự tự phê bình là sự nhận ra rằng những thành tựu mình đạt được không hoàn toàn tương xứng với khả năng đạo đức của minh. Điều này ngụ ý sự chân thật trong việc nhận ra những yếu đuối, thất bại và giới hạn của mình
Self-Deception
Sự tự dối mình là không có khả năng đạo đức để nhận ra những giới hạn và thất bại của bản thân hoặc thấy được những lý do thật sự đối với ứng xử của mình
Self-Defense
Sự tự vệ là quyền được sử dụng sức mạnh chống lại một kẻ gây sự bất công. Những cơ sở đạo đức mà dựa vào đó được coi như là sự tự vệ chính đáng là thực tế mà việc làm chủ cuộc sống kể cả quyền sử dụng những phương tiện cần thiết để bảo vệ sự sống của mình, với điều kiện những phương tiện đó không vi phạm quyền lợi của những người khác. Trong trường hợp gây sự bất công, việc sử dụng vũ lực và thậm chí là một đòn đánh chết ngưồi có thể là phương tiện duy nhất để cứu sống mình. Quyền của những người khác không vì thế mà bị xâm phạm, vì quyền sống của người tấn công bị treo lơ lửng trong khi tấn công trái lẽ. Hơn thế nữa, người tấn công có thể dễ dàng bảo vệ được cuộc sống của mình chỉ bằng cách chấm dứt sự tấn công đó.
Self-Denial
Sự tiết chế bản thân là hành động hoặc việc thực hành từ bỏ sự thoả mãn chính đáng nào đó vì một động cơ nào đó cao hơn.
Self-Determination
Sự tự quyết là khả năng điều chỉnh cuộc sống của chính bản thân mình từ những động cơ được điều khiển tự thân hơn là từ sự phản ứng thụ động, mặc dù là tự nguyện trước sức ép xã hội.
Self-Fulfillment
Hoàn thành ước nguyện của mình/toại nguyện là việc hiện thực hoá những tiềm năng của mình như là một con người.
Self-Love
Lòng tự yêu mình là sự quan tâm quá mức tới bản thân mình tới mức thờ ơ với những người khác và lãnh đạm đối với những nhu cầu của họ. Trong tính tự yêu mình, sự chú ý tập trung vào cơ thể đặc biệt là sự tự thoả mãn về tình dục.
Semi-Arianism
Thuyết bán Arian là lời giáo huấn của một số nhà thần học, những người sau Công đồng Nicaea (năm 325 trước Công nguyên), tìm kiếm một sự thoả hiệp giữa Học thuyết Arian và học thuyết về tính đồng bản thể của Chúa Giê-su Ki-tô với Chúa Cha. Những nhà thần học này được lãnh đạo bởi Basil, Giám mục của Ancyra, và sự cảm thông của họ được thể hiện đối với tính chất chính thống, mặc dù họ thay thế đồng bàn thể (tương tự như) với Chúa Cha. Thánh Athansius đã đối sử khoan dung với họ và ảnh hưởng của họ được cảm nhận trong lời tái xác nhận của Kinh Tin kính Nicea tại Công đồng Chung Constantinople năm 381.
Semid
(Lễ kính hàng thứ 5 từ trên xuống theo mức độ quan trọng theo 8 bậc: từ Đại lễ (Double of first class), double of second class, double major feast, double feast, semi-double feast, simple feast, vigil, đến lễ thường (ferial day/no feast appointed)
Seminal Principle
Nguyên lý sinh sản trong thuyết thần học của Augustin, hạt giống hoặc gốc được Thiên Chúa cấy vào tất cả các sinh vật, chờ đợi cơ hội thuận lợi cho sự phát triển của sinh vật đó. Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Thánh Tô-ma A-qui-na, lấy từ thuyết của Aristotle, rằng mọi sinh vật có khả năng sinh sản mà được thúc đẩy trong mọi sự thay đổi.
Seminary
Chủng viện là một trường học được thành lập để đào tạo về học thuật và tôn giáo cho các ứng viên chuẩn bị cho sứ vụ linh mục. Công đồng Trent, ngày 15 tháng 7 năm 1563 đã chỉ thị thành lập trong mỗi giáo phận một chủng viện. Các chủng viện không phải là các trường học cho các giáo sỹ triều (regular clergy) thì có nhiều loại tuỳ thuộc vào nó được thành lập do cấp nào và đặt dưới thẩm quyền của ai. Vì vậy có thể có các chủng viện của giáo phận, của khu vực, của liên giáo phận, của giáo tỉnh và của Toà thánh. Sắc lệnh Đào tạo linh mục (Optatam Totius) của Công đồng chung Vaticăng II, ban hành năm 1965, đề cập đầy đủ chi tiết về chương trình giảng dạy và quản trị chủng sinh. Năm 1979 Đức Giáo honàg Gio-an Phao-lô II đã ban hành Tông hiến Sự không ngoan Kitô (Sapientia Christiana) về các trường đại học và phân khoa của giáo hội. Văn kiện này có ảnh hưởng ngay lập tức tới tất cả các đại học, bao gồm các chủng viện, mà được thiết lập hoặc phê chuẩn hợp với quy tắc giáo hội bởi Toà Thánh với quyền trao các chứng chỉ học thuật bởi nhà chức trách có t hẩm quyền của Toà Thánh. Một cách gián tiếp, Tông hiến này ảnh hưởng tới tất các các chủng viện Công giáo. Trong những quy định chi tiết khác, Tông hiến yêu cầu rằng “ Tất cả giáo viên, trước khi được giao một chức vụ chính thức... phải nhận được một tuyên bố không có gì ngăn trở (phê chuẩn chính thức) từ Toà Thánh.” (Phần 1, III, 27)
Semi-Pelagianism
Thuyết bán Pelagiô thịnh hành ở miền Nam nước Pháp, đặc biệt là ở các tu viện. Thuyết này đã chính thức bị lên án bởi Công đồng Orange năm 529. Nhưng thuật ngữ Semi-Pelagian (Bán Pelagiô) sau này được sử dụng bởi những người chỉ trích thuyết Mô-li-na về ân sủng và ý chí tự do, buộc tội những tu sỹ dòng Tên vì việc quá đề cao tự do của con người đến chỗ phủ nhận thật sự uy quyền của ân sủng.
Semi-Public Oratory
Nhà nguyện riêng là một nơi dành riêng để thờ phượng phục vụ một cộng đồng hoặc một nhóm tín hữu, nhưng không cho phép bất kỳ ai khác được quyền vào tự do.
Semites
Người Xê-mít là một chủng tộc người có tổ tiên ở Châu á và Châu phi và được cho là những hậu duệ của ông Shem, con trai của ông Noah. Trong thời lịch sử tất cả vùng Tây Á trừ Tiểu Á là của người Xê-mít và các nhà ngữ văn chia chủng người này thành bốn nhóm chính: người Babylon - Átxiri, người Chanaanite, người Aramê, và người Ả- rập. Xứ xở gốc của họ có thể là A-rập
Sempiternity
Tính vĩnh hằng là sự vĩnh cửu được coi như không có bắt đầu và không có kết thúc; vì thế chỉ có Thiên Chúa là làm chủ vì không như các loài thụ tạo, Ngài không bao giờ có lúc bắt đầu. Hơn thế nữa, Thiên Chúa luôn luôn hằng hữu bởi vì Ngài không thể không có, không như các loài thụ tạo có thể tiếp tục vĩnh viễn nhưng không bởi quy luật tất yếu của sự tồn tại.
Sensation
Cảm giác là ý thức về một vật cụ thể thông qua các phương tiện của các năng lực hoặc các bộ phận giác quan theo cách thức vật chất. Vì vậy trong con người, cảm giác khác với tư duy trong hai cách: cảm giác chỉ có với vật chất, trong khi tư duy có thể có về những điều về tinh thần, chẳng hạn như Thiên Chúa, tình yêu và tự do; cảm giác luôn nhận thức bằng cách thức vật chất, trong khi tư duy có thể về những thực tại vật chất như mặt trời, viên đá hoặc cái cây, nhưng đó là nhận thực bằng tinh thần.
Sense Of Sin
Ý thức về tội lỗi là một sự sợ hãi hữu ích gây ra trong tâm hồn tín hữu thông qua sự thông hiểu rõ ràng và bản chất và sự ác độc của tội lỗi. Tính mãnh liệt của cảm giác này phụ thuộc vào sự thánh thiện của người đó và được biểu hiện rõ nhất ở trong số các thánh. Đặc trưng của nó là nhận thức về sự thánh thiện của Thiên Chúa trong sự tương phản với yếu đuối của bản thân và vì vậy là một ý thức phụ thuộc không ngừng vào ân huệ thiêng liêng của Thiên Chúa.
Sensism
Thuyết duy cảm là một triết lý đưa mọi hiểu biết của con người tới sự trải nghiệm cảm giác và mọi khao khát của con người tới sự ham muốn về thể xác. Theo đó, nó phủ nhận những ý tưởng phổ quát, tự do nội tại, sự khác biệt về tinh thần giữa cảm giác và trí tuệ, và sự duy linh của tâm hồn.
Sensualism
Chủ nghĩa nhục dục là sự say mê/nghiện những khoái cảm nhục dục, đặc biệt là sự thoả mãn xác thịt. Đây cũng là một thuyết cho rằng mọi thoả mãn của con người chủ yếu dựa vào ham muốn giác quan. Thuyết này tương tự về mặt tâm ly với học thuyết của chủ nghĩa duy vật trong triết học.
Sentences, Book Of
Cuốn Luận đề thần học là một công trình cổ điển của nhà thần học Peter Lombard (1100-62). Ông viết Luận đề thần học gồm bốn cuốn (1145-52) và được gọi là Luận đề gốc hoặc Bản Gốc. Công trình này là sách giáo khoa tiêu chuẩn về thần học trong bốn thế kỷ và có ảnh hưởng to lớn tới Thánh Tô-ma A-qui-nô. Phần đầu tiên của cuốn sách đề cập tới Thiên Chúa và Chúa Ba ngôi, Thượng đế, tiền định và tai ương; Phần Hai về sự sáng tạo, các thiên thần, sự sụp đổ, ân sủng, và tội lỗi; Phần Ba nói về sự Nhập thể, sự Cứu thế, đức hạnh và các điều răn; Phần Bốn nói về những điều cuối cùng. Cuốn sách này dẫn đầu tất cả thần học Công giáo trong tương lại bởi kết hợp sự tôn trọng giới chức bản quyền của Giáo hội với sự phân tích sâu sắc thông qua việc sử dụng đúng đắn lý lẽ.
Sentiment
Tình cảm là một hành vi ý chí của con người thích hoặc không thích một ai đó hoặc một vật gì đó một cách có ý thức. Tình cảm khác với cảm nghĩ đơn thuần chỉ hoàn toàn là cảm nhận bằng giác quan, và cũng khác với xúc cảm thường mãnh liệt hơn. Tình cảm đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh như là một kiểu thôi thúc siêu nhiên hướng tới những điều tốt đẹp và tránh xa những điều xấu xa về phương diện đạo đức.
Separated Brethren
Những anh em ly khai là tất cả tín hữu Ki-tô giáo đã được thanh tẩy và tin vào Chúa Giê-su Ki-tô nhưng không phải là tín hữu Công giáo. Thông thường, thuật ngữ này dùng để chỉ các tín hữu Tin lành.
Separation, Marital
Sự ly thân trong hôn nhân là sự chia cắt tạm thời hoặc thậm chí là vĩnh viễn giữa vợ và chồng mà không có quyền tái hôn cho tới khi một trong hai người chết. Sự ly thân được Giáo hội cho phép vì những lý do như ngoại tình, mất đức tin hoặc những lý do quan trọng khác. Mặc dù không cùng chung sống nhưng mối dây vợ chồng vẫn còn ràng buộc.
Separatism
Chính sách ly khai là chủ trương ủng hộ sự ly khai khỏi một giáo hội đã được thiết lập. Thuật ngữ này được sử dụng đặc biệt cho những người theo chủ nghĩa giáo đoàn và những người khác tách ra khỏi Giáo hội Anh giáo
Septuag
Chúa nhật Bảy mươi ngày (theo niên lịch phụng vụ cũ) là Chúa nhật 70 ngày trước Phục Sinh