Scandal Of The Weak
Làm cớ sa ngã cho những người yếu đuối là làm tổn hại về mặt đạo đức đối với những người yếu đuối bằng tư cách đạo đức. Những hoàn cảnh quyết định bổn phận trong đức mến là phải tránh làm cớ sa ngã cho người yếu đuối. Bổn phận này đã được nói rõ ngay từ trong lời dạy dỗ của Thánh Phao-lô, người sẽ không ăn thịt nếu thịt đó đã được dâng cúng cho những ngẫu tượng kẻo làm cớ cho những người anh em yếu đuối hơn sa ngã. Ngài đã căn dặn các Ki-tô hữu tiên khởi không được giải thích một cách duy lý tư cách đạo đức của mình nhưng phải học theo gương của Ngài, kẻo “như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Ki-tô” (1 Cô-rin-tô 8:12). Nghĩa vụ này trong đức mến là mình có thể phải cố kiềm chế một cách đúng luật một giới luật rất quan trọng mà không cần thiết cho sự cứu rỗi để tránh làm cớ vấp phạm nghiêm trọng cho người yếu đuối. Đằng sau nghĩa vụ này là sự uỷ thác của tình yêu vô vị kỷ không chỉ tìm giúp người khác khi cần mà còn bằng sự tự chế ngự bản thân để bảo vệ người khác khỏi sự xâm hại phần hồn
Scandalous
Làm cớ sa ngã là sự chỉ trích của giáo hội về một quan điểm được bày tỏ là có thể gây hại phần hồn khi dẫn con người đến chỗ phạm tội hoặc kéo họ ra khỏi những việc lành phúc đức. Sự chỉ trích thường áp dụng đối với việc dạy dỗ không đúng trong lễ nghi đạo đức.
Scapular
Áo dòng/Aó Đức Bà (Sca-pu-la) là một tấm áo ngoài gồm hai mảnh vải nối với nhau qua vai được mặc bởi các thành viên của một số dòng tu nhất định. Khởi đầu áo sca-pu-la được dùng như áo khoác làm việc của các thầy tu dòng Bê-nê-đích, sau được một số dòng tu khác sử dụng và hiện được coi là một phần để phân biệt tu phục của tu sỹ. Áo sca-pu-la tượng trưng cho ách của Chúa Ki-tô. Áo sca-pu-la được mặc bên trong áo thường, được làm ngắn gọn và mặc bởi những hội viên các dòng ba. Áo sca-pu-la dòng Ba khác nhau về kích cỡ và hình thức; màu sắc áo phù hợp với màu sắc của dòng tu. Sau khi phát triển lên, Giáo hội đã phê chuẩn khoảng 18 loại áo dòng sca-pu-la được làm phép. Các áo này có hai mảnh vải nhỏ nối với nhau bằng những sợi dây và được quàng quanh cổ bên dưới áo. Có năm áo dòng nổi tiếng nhất bao gồm Áo Đức Bà của Dòng Đức Mẹ núi Các-men (màu nâu), áo Sca-pu-la cuộc Khổ nạn Chúa Giê-su (màu đỏ), Áo Đức Bà 7 sự thương khó (màu đen), Áo Đức Bà Vô nhiễm (màu xanh), và áo Sca-pu-la Chúa Ba Ngôi (màu trắng).
Scapular Medal
Ảnh thay Áo Đức Bà là một tấm ảnh được làm phép (giống như huy hiệu) được đeo hoặc mang theo người thay cho một hoặc nhiều Áo Đức bà nhỏ. Ảnh được Đức Thánh Pi-ô X ban phép đeo ảnh thay Áo năm 1910. Một mặt của ảnh có hình Thánh tâm Chúa Giê-su và mặt kia có ảnh Đức Mẹ Ma-ria. Ảnh thay cho bất kỳ (hoặc tất cả) những Áo Đức bà nhỏ mà người đó được ban cho. Khi mặc áo Đức Bà cần phải đăng ký nhưng không phải đăng ký khi đeo ảnh thay Áo Đức Bà. Ảnh được làm phép bởi một linh mục người có khả năng đối với mỗi lần ban áo
S.C.C.
Thánh Bộ Giáo sỹ
S.C.C.S.
Thánh Bộ Phong Thánh
S.C.D.F.
Thánh Bộ Giáo lý Đức tin
S.C.E.
Thánh Bộ Giám mục
S.E.Ee.Rr.
Thánh bộ Giám mục và Giáo sỹ
S.C.E.O.
Thánh Bộ các Giáo hội Đông phương
S.C.G.E. (S.C.P.F.)
Thánh bộ Rao giảng Phúc âm cho các Dân tộc (Thánh bộ Truyền bá Đức tin)
Schism
Ly giáo là sự chủ tâm chia rẽ sự hiệp nhất của Giáo hội Ki-tô giáo. Mặc dù Thánh Phao-lô đã sử dụng thuật ngữ này để chỉ trích sự bè phái ở tại thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, những sự bè phái này không phải là sự ly giáo mà là những nhóm nhỏ thiên vị Tông đồ này hoặc Tông đồ khác. Một thế hệ sau đó, Đức Clê-men-tê I đã bài xích sự ly giáo đích thực đầu tiên còn có tư liệu. Sự cổ vũ của Thánh Phao-lô đối với các tín hữu Cô-rin-tô cũng mô tả chính xác khái niệm này. “Tại sao chúng ta lại xuyên tạc và chia rẽ các thành phần của Chúa Ki-tô,” Ngài hỏi, “và nổi dậy chống lại chính thân thể mình và đi đến chỗ điên rồ như vậy dường như quên rằng chúng ta là những chi thể của nhau hay sao?” Trong khi Giáo hội sơ khai thường bị quấy rầy bởi dị giáo và ly giáo, quan hệ chính xác giữa hai yêu tố chia rẽ đã không được làm rõ cho tới thời kỳ sau của các cha giáo ly. Thánh Au-gus-ti-nô đã tuyên bố “Với những học thuyết sai lầm về Thiên Chúa, những người dị giáo làm thương tổn đức tin; bằng sự chia rẽ sai trái, những kẻ ly giáo xa rời tình huynh đệ, mặc dù họ cũng tin những gì chúng ta tin.” Vì thế, dị giáo theo bản chất có liên quan tới lý trí và đối nghịch với niềm tin tôn giáo, trong khi ly giáo về cơ bản là ý chí và vi phạm sự hiệp nhất của tình mến Ki-tô giáo.
Schismatic
Kẻ ly giáo theo luật Giáo hội là người sau khi được rửa tội và trong khi vẫn giữ tên Thánh ngoan có từ chối việc tuân phục Đức Giáo hoàng hoặc từ chối liên kết với những người dưới quyền mình. Hai nhân tố, tuân phục Đức Giáo hoàng và liên đới với những người dưới quyền mình phải được xem xét một cách phân biệt. Hoặc chống lại quyền lực của Giáo hoàng hoặc từ chối tham gia vào đời sống và thờ phượng Công giáo gây ra ly giáo, ngay cả khi không nhập vào một tổ chức tôn giao khác. Giống như dị giáo, ly giáo được coi là chính thức và có tội khi các nghĩa vụ được thực hiện trọng vẹn.
Schola Cantorum
Trường dạy hát cho các ca sỹ nhà thờ là nơi dạy và đào tạo về thánh ca, hoặc là một đội các ca sỹ tập trung lại vì mục đích biểu diễn âm nhạc ở nhà thờ. Thánh Giáo hoàng St. Hilary (461-68) có thể đã mở trường dạy hát cho ca sỹ nhà thờ đầu tiên, nhưng Thánh Giáo hoàng Gregory Cả là người thành lập trường này trên cơ sở lâu dài. Từ Rô-ma việc thành lập những trường này đã lan sang những nơi khác của Giáo hội.
Schola Cantoru, Monastic
Ban đồng ca của các tu sĩ là một nhóm các tu sĩ được lựa chọn để hát những phần thánh nhạc phức tạp hơn. Người phụ trách được gọi là người lĩnh xướng.
School
Trường học/trường phái là bất cứ một cơ sở nào dành tâm huyết chủ yếu vào việc truyền đạt kiến thức hoặc phát triển các kỹ năng hoặc những năng khiếu đặc biệt; vì thế gọi là cơ quan giáo dục. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng được sử dụng cho một hệ thống tư duy cụ thể, như trong triết học hoặc thần học, và làm một dạng phận biệt duy linh, như trong các dòng tu khác nhau.
S.C.I.
Thánh Bộ Phân Loại Sách
S.C.I.C.
Thánh Bộ Giáo dục Công giáo
Science Of Faith
Khoa học về Đức tin là tên gọi khác của thần học. Khoa học này liên quan tới niềm tin theo ý thức khách quan về “điều được tin” và theo ý thức chủ quan về điều “qua đó người ta tin”. Thần học chấp nhận Kinh Thánh và truyền thống như là luật lệ từ xa của niềm tin và những học thuyết của Giáo hội như là luật lệ gần của niềm tin. Nhưng như là một khoa học về niềm tin, nó tìm cách dùng lý trí của con người để thiết lập những nền tảng của niềm tin, để thâm nhập vào ý nghĩa của những mầu nhiệm đức tin, đề chỉ ra rằng đức tin phù hợp với lý trí và để bảo vệ đức tin trước những kẻ phủ nhận sự thật của Ki-tô giáo.
Sciosophy
Sciosophy là bất kỳ niềm tin tôn giáo hoặc giống như tôn giáo đòi hỏi có sự hỗ trợ từ các số liệu và thực nghiệm khoa học, như chiêm tinh học
Scotism
Học thuyết Scotism là hệ thống triết học kinh viện được diễn giải bởi triết học gia dòng Thánh Fran-xít Duns Sotus (1264-1308). Sự khác biệt căn bản giữa Học thuyết Scotism và triết học của Thánh Tô-ma A-qui-nô (1225-74) là trong khi triết học của Thánh Tô-ma đưa học thức và lý trí và vị trí đầu tiên trong hệ thống của mình, Scotus đua tình yêu và ý định lên vị trí đứng đầu. Vì thế, trong học thuyết Scotus quy luật tự nhiên phụ thuộc vào ý định của Thiên Chúa và không phải vào lý trí thần thánh/siêu phàm. Chính vì vậy, nó hoàn toàn biểu lộ và không biến đổi. Hơn nữa, trong hệ thống của học thuyết Scotus, bản chất của sự tươi đẹp ở thiên đường không phải trong thị giác mà là tình yêu của Thiên Chúa. Luận điểm của Scotus về một số học thuyết đức tin đã được một số nhà phê bình suy nghĩ gần với tiêu chuẩn kép về chân lý của nhà khoa học hồi giáo Averroes (1126-98), cụ thể là điều đúng trong thầnh học có thể lại sai trong triết học
S.C.P.F.
Thánh bộ truyền bá đức tin
Scr
Kinh Thánh
Scribes
Các Luật sỹ/Kinh sư là một tầng lớp những người Do thái có học thức chuyên nghiên cứu và giải thích về luật. Đôi khi họ được nói tới như những luật sỹ hoặc rap-bi (Mát-thêu 23:7). Họ không phải là tư tế. Một số là thành viên của Thượng hội đồng (Mát-thêu 26:57). Vì họ được hiến thân để bảo vệ và duy trì luật lệ nên họ coi Chúa Giê-su như là sự đe doạ cho an toàn của họ. Họ đã thử thách và cài bẫy Người (Mác-cô 2:16) trong nhiều trường hợp và cuối cùng đã tham gia vào âm mưu vào cái chết của Người (Lu-ca 22:1-2)
Scriptorium
Phòng chép sách/làm việc trong tu viện là một phòng trong tu viện dành riêng cho việc sao chép sách và tài liệu, tô màu các bản viết tay và các việc tương tự. Ánh sáng nhân tạo bị cấm vì sợ sẽ làm tổn hại tới các bản viết.
Scriptures
Kinh Thánh
S.C.R.I.S.
Thánh Bộ các Dòng và Tu hội
Scroll
Cuộn sách là một loại sách cổ theo kiểu cuộn ống. Chữ được viết lên giấy cói, da thú, hoặc giấy da, mỗi tấm rộng khoảng 6 inch và dài khoảng 10 inch. Các tấm giấy được khâu lại với nhau và cuộn tròn vào một cái lõi. Người đọc sẽ mở bản viết ra đến lõi và chuyển sang cuộn khác. Thường một cuộn có thể dài hơn một trăm foot. Một số lượng lớn Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước cũng như các tài liệu văn học và khoa học được viết trên các cuộn sách như vậy. Tiêu đề sách đôi khi được viết vào mép ngoài của cuộn sách.
Scroll (Symbol)
Dấu trang trí dạng cuộn (Biểu tượng) là một biểu tượng của sự không ngoan và là biểu tượng ban đầu của các Thánh Tông đồ. Mặc dù hình những chiếc chìa khoá đặt chéo nhau, đặc thù của Thánh Phê-rô và thanh kiếm là của thành Phao-lô, nhưng cả hai cũng như những tác giả viết Phúc âm thường được thể hiện với một dấu trang trí dạng cuộn. Dấu này là biểu tượng của chức vụ giảng dạy của họ. Tiên tri Ê-li-a, người xuất hiện cùng Chúa Giê-su khi trong cuộc biến hình cũng được miêu tả với một dấu trang trí dạng cuộn.
Scruple
Sợ tội thái quá là sự nghi ngờ quá đáng về vấn đề đạo đức của một hành động đã làm hoặc sẽ làm. Cơ sở của nó là một lương tâm sai lầm kết hợp sự thiếu kiểm soát của sự xúc cảm sợ hãi.
Scrupulosity
Sự sợ tội thái quá là thói quen tưởng tượng ra tội lỗi khi nó không tồn tại hoặc tội nặng khi vấn đề không đáng kể. Để vượt qua được sự cẩn trọng thái quá, người ta cần được hướng dẫn đúng đắn để có một lương tâm đúng và trong những trường hợp thái quá liệu pháp duy nhất là tuyệt đối vâng lời cha giải tội (trong một thời gian)
Scrupulous Conscience
Lương tâm sợ tội thái quá là một lương tâm sai lầm khi lý trí bi lung lay quá mức bởi sự sợ hãi và người phân xử rằng có một cái gì đó là sai trong khi trên thực tế lại đúng luật
Scrutiny
Sự suy xét cẩn trọng là việc kiểm tra hoặc nghiên cứu chặt chẽ và cẩn thận. Thuật ngữ này được áp dụng đối với cách thức bầu chọn một vị Giáo hoàng qua việc bỏ phiếu kín trong đó cần sự cẩn trọng hết sức của con người để tránh sai lôi hoặc gian dối. Việc xem xét chính thức các ứng cử viên cho các chức thánh cũng được gọi là sự suy xét cẩn trọng.
Scs
Thánh
S.C.S.C.D.
Thánh Bộ Bí tích và Phụng tự
S.C.U.F.
Văn phòng Cổ vũ sự Hiệp nhất Ki-tô hữu
S.D.
Tôi tớ của Thiên Chúa
Seal
Con dấu/triện là một mẫu thiết kế được đóng vào miếng sáp hoặc vật liệu tương tự. Ban đầu con dấu được sử dụng để bảo mật cho tài liệu nhưng sau đó nó được gắn vào mặt tài liệu như dấu hiệu về giá trị pháp lý/hợp lệ. Khi quyền lực được chuyển cho người khác, con dấu cũ được huỷ đi và một con dấu mới được làm. Đó là lý do tại sao chiến nhẫn Ngư phủ, hay con dấu của Giáo hoàng, bị đập vỡ ngay lập tức bởi Đức Hồng y Carmerlengo khi Đức Giáo hoàng chết
Sealing
Đóng ấn là Bí tích thêm sức như là sự hoàn chỉnh lễ rửa tội.Trong bí tích này, người chịu phép nhận đặc tính hoặc dấu ấn không thể tẩy xoá của một chiến binh của Chúa Ki-tô, sẵn sàng chịu đựng gian khổ để gìn giữ và tuyên xưng đức tin của mình
Seal Of Confession
Ấn toà cáo giải là bổn phận quan trọng trong việc giữ kín hoàn toàn mọi tội lỗi xưng trong bí tích hoà giải và những điều khác do hối nhân nói liên quan tới việc xưng tội. Điều này là một nghĩa vụ ràng buộc trong luật tự nhiên, luật thiêng liêng của Chúa Ki-tô và trong luật do Giáo hội đặt ra. Luật này ràng buộc người nghe xưng tội và bất cứ người nào khác bằng cách nào đó biết được điều xưng thú. Trong bất cứ trường hợp nào cũng không được tiết lộ bất kỳ thông tin nào nếu như hối nhân không tự nguyện nói ra.
Seal Of Confirmation
Ấn tín Thêm sức nhằm thiết lập hoặc quyết định một cách không thể huỷ bỏ, trong bí tích thêm sức, khi Giám mục xức dầu với dấu thánh giá trên trán người chịu phép và nói, “[Gọi tên thánh], hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần.” Vì vậy bằng bí tích thêm sức, Ki-tô hữu được rửa tội được đánh dấu vĩnh viễn như là nhân chứng của Chúa Ki-tô và có khả năng gìn giữ, tuyên xưng và nói lên niềm tin ngay cả (khi cần) bằng giá máu của mình.
Second Adam
Adam thứ hai là danh hiệu đặt cho Chúa Ki-tô, dựa trên sự giảng dạy của Thánh Phao-lô rằng do tội lỗi xâm nhập vào thế gian bởi sự bất tuân của Adam thứ nhất, ân sủng cũng đã tới nhờ sự tuân phục của một người, là Đức Ki-tô Adam thứ hai (Thư gửi tín hữu Rô-ma 5:12-21)
Secondary Cause
Nguyên nhân Thứ hai là nguyên nhân được sáng tạo hoàn toàn phụ thuộc vào Nguyên nhân Đầu tiên là Thiên Chúa. Đây là một nguyên nhân có thể làm ra một số loại kết quả nhất định nhưng không thể làm ra bản chất hoặc sự tồn tại của kết quả đó.
Second Coming Of Christ
Sự trở lại của Chúa Giê-su trong ngày sau hết “Bây giờ Thầy đi dọn chỗ cho anh em và sau khi Thầy đã đi và dọn chỗ cho anh em, thầy sẽ trở lại và đem anh em đi cùng với Thầy” (Gio-an 12:3). Lời hứa này Chúa Giê-su đã hứa với các Tông đồ trong đêm trước ngày chịu nạn, sẽ là đỉnh điểm công cuộc nhập thể và cứu độ của Người. Các thiên thần đã nhắc lại lời hứa này trong dịp Chúa Lên trời. “Chính Đức Giê-su sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Công vụ tông đồ 1:11). Không ai biết khi nào Chúa Giê-su sẽ trở lại vào ngày sau hết. Một số tín hữu sốt sắng đã sai lầm khi nghĩ rằng Chúa Giê-su sẽ trở lại trong một thời gian ngắn, có thể trong khi họ còn sống. Tuy nhiên, lời hứa đó là cơ sở niềm tin của người Ki-tô hữu. Như Thánh Phao-lô đã viết trong thư gửi Ti-tô: “Chúng ta phải sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này trong khi chúng ta trông chờ trong hy vọng về ngày hồng phúc, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu độ chúng ta xuất hiện trong vinh quang.” (Ti-tô 2:13).
Second Crusade
Cuộc thập tự trinh thứ hai là cuộc viễn chinh chống lại người Hồi giáo (1147-49) được Giáo hoàng Eugenius III khích lệ và Thánh Bernard chủ trương. Cuộc thập tự trinh này đã bị thất bại.
Second Order
Dòng nhì là một thuật ngữ thường dùng để chỉ các dòng tu nữ mà các vị sáng lập các dòng này đã thếit lập một dòng tu nam, đáng chú ý như Dòng nhì Phan-sinh và dòng nhì Đa-minh.
Second Plank
Tấm ván thứ hai (bám vào để cứu mình) là một thuật ngữ dùng để miêu tả Bí tích Hoà giải như là cơ hội thứ hai (và tiếp theo) mà tội nhân có thể bám vào để cứu vớt phần linh hồn của mình nếu như người ấy làm mất tình bằng hữu với Thiên Chúa sau khi được rửa tội.
Second Vatican Council
Công đồng chung Va-ti-căng II là Hội đồng giáo hội lần thứ 21 của Giáo hội Công giáo được Đức Giáo hoàng Gio-an XXIII loan báo lần đầu tiên vào ngày 25 tháng 1 năm 1959. Ngài khai mạc công đồng vào ngày 11 tháng 10 năm 1962 và phiên họp đầu tiên kết thúc vào ngày 8 tháng 12 cùng năm. Sau khi Đức Giáo hoàng Gio-an XXIII mất, ngày 3 tháng 6 năm 1963, Đức Giáo hoàng Phao-lô VI triệu tập Công đồng họp ba phiên tiếp theo từ ngày 29 tháng 9 đến 4 tháng 12 năm 1963; 14 tháng 9 đến 21 tháng 11 năm 1964; 14 tháng 9 đến 8 tháng 12 năm 1965. Tổng cộng có 2.865 giám mục và giáo sỹ cao cấp tham dự các buổi làm việc của Công đồng, mặc dù 264 vị không thể tham gia, chủ yếu là từ các nước Cộng sản. Trong số 60 văn kiện được Công đồng phát hành, có bốn Hiến chế về Mặc khải, Phụng vụ và hai Hiến chế về Giáo hội là cơ sở của các tài liệu còn lại.
Secret
Điều bí mật/Bí ẩn là sự thật hoặc sự kiện chỉ có một số ít người biết và nên được giữ kín đối với những người khác. Những điều bí mật có thể tự nhiên, được hứa hoặc được giao phó. Nghĩa vụ giữ bí mật được ràng buộc bởi luật tự nhiên hoặc luật được mặc khải.
Secretariat For Christian Unity
Văn phòng hiệp nhất các Ki-tô hữu được Đức Giáo hoàng Gi-an XXIII thiết lập năm 1960 như là một trong những uỷ ban chuẩn bị cho Công đồng Chung Vaticăng II. Văn phòng này được Đức Giáo hoàng VI tổ chức lại vào năm 1967 và được giao cho mục đích cụ thể là có thẩm quyền và nhiệm vụ cổ vũ cho sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu. Văn phòng này cũng có nhiệm vụ giải quyết những khía cạnh tôn giáo của Do thái giáo.