BÀI HỌC "DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC" CỦA LẠC LONG QUÂN

Học có nghĩa là gì ?

Nếu chúng ta khởi đầu với ba câu hỏi : « Ai có lý ? Ai đúng ai sai ? Ai có lỗi ? », việc học của chúng ta bị bế tắc, ngay lập tức. Những câu hỏi như vậy đang ám ảnh và đầu độc con người ở khắp nơi, trên mặt dịa cầu, từ thời nguyên thủy cho đến hôm nay, trong mỗi câu chuyện trao đổi hằng ngày. Cũng vì những câu hỏi ấy, chúng ta đang loại trừ, tố cáo, phê phán và kết án lẫn nhau, trên bình diện chính trị, cũng như trong địa hạt tôn giáo, gia đình và xã hội…

Trong lòng Đất Nước Việt Nam, Lạc Long Quân đã đề xuất một phương hướng khảo sát vấn đề hữu hiệu hơn : Chúng ta khác nhau, như nước và non, như sông và núi. Nhờ vậy, chúng ta mới có khả năng làm nên Núi Sông và Nước Non.

Câu nói thật đơn giản, nhưng hàm chứa ở bên trong cả một chương trình HỌC LÀM NGƯỜI sâu sắc, vô tận. Đó là một kế sách « Dựng Nước và Giữ Nước ».

1.- CHÂN LÝ CHỈ XUẤT HIỆN, KHI CHÚNG TA ĐỒNG HÀNH VÀ CHIA SẺ

Thay vì bắt đầu bằng những câu hỏi hoàn toàn lý thuyết như « Ai có chân lý ? Ai nắm sự thật trong tay ? », chúng ta hãy xuất phát từ một thực tế hiển nhiên, tất yếu, thường hằng, « Chúng ta khác nhau ».

Chúng ta làm gì với sự khác biệt ấy, để chân lý có mặt với chúng ta và ở giữa chúng ta ? Trong tinh thần liên đới, đồng trách nhiệm, chân lý chỉ xuất hiện, khi chúng ta đồng hành và chia sẻ. Khi chúng ta cùng nhau vun trồng, tưới tẩm những quan hệ hài hòa, bổ túc và kiện toàn cho nhau. Con đường hiểu biết đồng hóa với con đường yêu thương.

Theo lối nhìn của Nguyễn Trãi, chân lý của Quê Hương chỉ xuất hiện, khi nào chúng ta « NHẤT TÂM », trăm người như một, một người như trăm. Chân lý ấy không phải là sự thật viễn mơ, những khẩu hiệu về « Nhân Nghĩa Đại Đồng, tình anh em bốn biển một nhà » ở đầu môi chót lưỡi của quân Minh xâm lược.

Chân lý của Quê Hương mang nhiều tên tuổi rất cụ thể : no cơm ấm áo. Một mái nhà, để trở về lúc chiều tối. Một mảnh chiếu, để qua đêm. Một việc làm có đồng lương cho phép tôi sống một cách lương thiện và chứng minh cho tôi : tôi là một thành viên hữu ích, có giá trị, trong lòng Quê Hương và Nhân Loại.

Chỗ nào con người chưa sống trọn vẹn tư cách làm người của mình,

Chỗ nào con người chưa được cư xử và đãi ngộ một cách tương ứng với giá trị làm người của mình,

Nói một cách cụ thể, chỗ nào người nghèo đói chưa được tôn trọng và nâng đỡ, để có thể sống một cách xứng đáng tối thiểu cuộc sống làm người,

Chỗ nào còn có người bốc lột, đàn áp con người,

Chỗ nào Hòa Bình chưa có mặt trong tâm tư và hành động của chúng ta,

Chỗ ấy, chân lý hoặc sự thật được trình bày dưới bất kỳ hình thức, ngôn ngữ nào, đều là tuyên truyền, láo khoét, bịp bợm, công cụ của thực dân xâm lược hay là giai cấp thống trị nhằm phuc vụ một thiểu số ăn trên ngồi trước, nắm mọi quyền lực trong tay.

2.- CHÂN LÝ LÀ MỘT LỐI NHÌN, MỘT NHU CẦU NỘI TÂM, TRƯỚC KHI ĐƯỢC DIỄN TẢ RA NGOÀI THÀNH NGÔN NGỮ

Nội tâm, trong tâm lý đương đại, thường được mô tả như một cấu trúc tổ chức có ba giai tầng chuẩn bị và tiếp nối nhau : cửa vào, biến chế và cửa ra.

Biến Chế là cốt lõi của Nội Tâm, bao gồm Lối Nhìn và Xúc Động. Cửa Vào chỉ cung cấp cho tôi một số dữ kiện hạn chế về thực tại bên ngoài. Cửa Ra, trái lại, có phần vụ diễn tả những gì đang có mặt trong nội tâm.

Tuy nhiên, con người là con vật « biết nói dối ». Tôi có thể che giấu, ngụy trang những gì đang có mặt thực sự trong cõi lòng. Thêm vào đó, trong thân phận và điều kiện làm người, khi tôi nói, có thể tôi không ý thức một trăm phần trăm về những điều tôi phát biểu. Vô thức len lỏi vào trong tất cả. Lắm lần tôi không cố ý, cố tình làm tổn thương một ai. Nhưng có thể người nghe đang đau buồn, bất mãn… khi đón nhận ý kiến, ngôn ngữ của tôi.

Trong lăng kính ấy, khi nói đến sự thật, tôi nói đến Lối Nhìn và tiếp theo lối nhìn là nhu cầu của xúc động đang có mặt trong tôi.

Khi ai nói sự thật, giữa lời nói bên ngoài và lối nhìn bên trong của người ấy, không có những hiện tượng tương phản hoặc mâu thuẫn. Khi người ấy bày tỏ nhu cầu của mình, người ấy CẦN thực sự, chứ không bịa đặt, giả vờ hay là tham lam vô đáy.

Chính vì lý do đó, khi TIN vào ai, tôi tin rằng sự thật ở trong người ấy. Đó là lối nhìn và nhu cầu của họ.

Trái lại, khi tôi không tin ai, và nhất là khi phê phán, tố cáo họ là người nói dối, tôi đang tự đặt mình vào một quan hệ xung đột. Phản ứng của họ sẽ là Tự Vệ, binh vực mình, hay là Tấn công trở lại. Đó là đầu giây mối nhợ của mọi hành vi bạo động, hận thù, chiến tranh và xung đột.

Hiểu được những qui luật tâm lý ấy, đang có măt trong mọi quan hệ trao đổi và tiếp xúc, chúng ta biết dừng lại, « tri chỉ », không góp phần vào công việc bồi đắp con đường bạo động. Làm như vậy về mặt tích cực, chúng ta là những tay thợ lành nghề đang kiến dựng những chiếc cầu đồng cảm và hòa bình, trên những nẻo đường xuôi ngược của Quê Hương và Nhân Loại.

3.- MỖI SỰ THẬT LÀM BẰNG BA SỰ THẬT : SỰ THẬT CỦA TÔI, CỦA BẠN VÀ CỦA CHÚNG TA

Xuyên qua những nhận định được trình bày trên đây, khi hai người thiết lập một quan hệ tiếp xúc và trao đổi, ba sự thật sẽ từ từ xuất hiện trong câu chuyện. Trong câu chuyện của tôi, tôi trình bày sự thật của riêng tôi. Người bạn cũng có một sự thật trong lối nhìn của mình. Thay vì khai trừ, loại thải nhau, trong những quan hệ nhị nguyên hơn-thua, đúng-sai… hai chân lý khác nhau và phiến diện sẽ tìm cách bổ túc và kiện toàn nhau, để lập thành một chân lý thứ ba, toàn diện. Đó là chân lý của chúng ta. Chân lý nầy chỉ xuất hiện, khi tôi có điều kiện khẳng định mình. Và người bạn cũng có điều kiện diễn tả chân lý của mình, giống như tôi. Trái lại, khi một trong hai người tự cho mình có mọi quyền năng và nắm độc quyền về chân lý toàn bích, toàn diện, cho dù thuộc địa hạt nào, người ấy đang là chướng ngại, cho công cuộc tìm kiếm chân lý, trong lòng Nhân Loại.

Bất kể chúng ta là ai, ở vị trí nào, trong lãnh vực nào, chúng ta đều là người TÌM KIẾM chân lý. Chúng ta phải học, bằng cách đón nhận, tôn trọng chân lý của người anh chị em đang cùng chúng ta làm người. Chúng ta càng đón nhận chân lý của họ, họ càng tìm kiếm chân lý. Chúng ta càng coi trọng tư cách làm người của họ, họ càng vươn lên, phát huy mọi chiều kích làm người.

4.-THẾ NÀO LÀ HỌC ? ĐÂU LÀ NHỮNG ĐỘNG TÁC CỤ THỂ CẦN THỰC THI MỖI NGÀY ?

Khi chúng ta coi trọng sự khác biệt của người anh chị em đang chung sống và làm việc với chúng ta, chính sự khác biệt của họ là đối tượng học hỏi, là đề tài nghiên cứu của chúng ta suốt cuộc sống làm người.

Cách chúng ta độ chừng hơn một thế kỷ, trẻ em chậm phát triển còn được gọi là khuyết tật tâm thần, bị đồng hóa với những bệnh nhân tâm trí. Nhờ sáng kiến của một vài nhà tiên phong, những trẻ em ấy dần dần được xem là TRẺ EM, như bao nhiêu trẻ em khác, có quyền ĐI HỌC. Có quyền được giáo dục, được học làm người. Từ đó, ngành sư phạm đặc biệt đã khám phá « một Sự Thật Mới » : các em ấy vẫn có khả năng học và phát triển, như mọi em khác. Nhưng cách học của các em chậm phát triển có những nét riêng biệt, đặc thù, độc đáo cần được các nhà sư phạm chuyên môn nghiên cứu, phát hiện…

Điều đáng chúng ta lưu tâm một cách hứng thú ở đây, là khi ngành sư phạm đặc biệt biết tôn trọng sự khác biệt của những trẻ em khuyết tật tâm thần, thì ngành sư phạm bình thường, cổ điển không còn vòng vo, luẩn quẩn trong những con đường mòn đã có sẵn từ bao nhiêu đời. DẠY không phải và không còn là từ trên, từ ngoài « rót xuống » và « rót vào » cho đầy. Khi một học sinh thất bại, không tiến bộ, chưa hẵn vì « nó dốt, nó làm biếng, nó thuộc dòng họ kém thông minh… ». Ngày hôm nay khi một vấn đề xảy đến cho một học sinh, chính NGƯỜI GIÁO VIÊN phải bắt đầu đặt mình thành vấn đề. Tôi đã dạy làm sao ? Lối nhìn của tôi về em hoc sinh ấy đã tạo nên những ảnh hưởng gì ? Quan hệ tình cảm đóng vai trò như thế nào ? Ngôn ngữ tôi sử dụng có thích hợp với kế hoạch học tập của học sinh ấy không ?

Không NHÌN mình, một cách thành tâm và khiêm cung, chúng ta sẽ tự tôn phong mình thành « giai cấp thống trị », hay là tự cho mình « có mọi chân lý ». Và phía bên kia, phía hạ tầng, phía ở dưới… có bổn phận « dựa cột mà nghe » hay là « câm miệng » mà vâng lời, tuân hành… một cách ngoan đạo. Tệ hại hơn nữa, là chúng ta dùng roi đòn, để giáo dục. Nhưng khi giáo dục cách ấy, chúng ta sẽ sản chế con người tự do hay là một bầy nô lệ ?

5.-TRÊN BÌNH DIỆN KHOA HỌC KỸ THUẬT

Học là thường xuyên đặt ra cho mình ba câu hỏi, và tìm cách trả lời một cách liêm chính, không thỏa hiệp, không lượn lẹo.

Câu hỏi thứ nhất : Tôi bắt đầu tiến trình tư duy, với những sự kiện nào ? Sự kiện tôi đề xuất, có phải thực sự là sự kiện, hay chỉ là tiếng đồn thổi ? Phải chăng tôi chỉ lặp lại một tin tưởng được nhai lui nhai tới, do cha truyền con nối từ bao nhiêu đời, và chưa bao giờ được kiểm chứng ?

Câu hỏi thứ hai : Giả thuyết tôi muốn chứng minh là gì ? Có một giả thuyết thứ hai nào cần khảo sát không ? Ở vào địa vị của tôi, người thương tôi sẽ co giả thuyết nào ? Người có ác cảm với tôi sẽ đề xuất gì ? Người quan sát hoàn toàn khách quan, không có quan hệ tình cảm với tôi, sẽ phát biểu làm sao ?

Câu hỏi thứ ba : Kết luận có khả năng điều hướng hành động gồm có những trọng điểm nào ? Những lợi ích ngắn và dài hạn là gì ? Kết luận của tôi có gây thiệt hại cho người nào không ? Nếu có, tôi đền bù làm sao, với tư cách làm người cũng như với lòng tôn trọng con người của tôi ?

Sau khi tôi trình bày ý kiến, người đối diện cũng có một không gian tình cảm và một thời gian cần thiết, để diễn tả lối nhìn và nhu cầu của mình. Tôi tạo mọi điều kiện thuận lợi, với phương pháp phản hồi và đặt câu hỏi, để mọi người có mặt có thể đi qua ba nấc thang, trong tiến trình tư duy của mình. Đó là sự kiện, giả thuyết và kết luận :

--Bạn dựa vào sự kiện nào, để khẳng định ý kiến ấy ?

--Bạn nêu ra giả thuyết nào, khi trình bày sự cố như vậy ?

--Bạn rút ra kết luận như thế nào, để hành động ?

Sau khi mọi thành viên đã diễn tả « chân lý cá nhân của mình », tập thể bước qua giai đoạn tổng hợp « chúng ta » : Đồng điểm cơ bản và dị điểm giữa chúng ta hệ vào những yếu tố nào ? Chúng ta làm gì với những khác biệt hiện tại ?

Nói đến tập thể, là nói đến một cộng đồng bao gồm những thành viên bình đẳng về GIÁ TRỊ làm người. Tuy nhiên, trong mỗi tổ chức, luôn luôn có những vị trí và trách nhiệm khác nhau. Duy một vài thành viên có trách nhiệm đưa ra những quyết định và chọn lựa cuối cùng. Tuy nhiên, trong thân phận làm người, những quyết định nầy không bao giờ có tính vĩnh viễn. Chúng ta có bổn phận thường xuyên đổi mới, bổ túc, kiện toàn. Tôi nhận làm của mình lối nhìn của Ngừời La Tinh : Humanitas semper eadem sed semper reformanda est. Nhân Loại vừa đồng nhất từ nguyên thủy, cho tới ngày hôm nay. Nhưng đồng thời, cũng luôn luôn đổi mới từng ngày. Phủ nhận một trong hai nhu cầu nầy của nhân loại, chúng ta đang phản bội bản sắc làm người của chúng ta.

6.- TRONG ĐỊA HẠT GIÁO DỤC

Để giúp trẻ em vừa có một lối nhìn tự lập, vừa có khả năng lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhiều người khác, trong môi trường, chúng ta – người làm cha mẹ cũng như giáo viên ở trường học – hãy biết lắng nghe trẻ em. Kêu mời, khuyến khích, cho phép các em bình tĩnh nói ra ý kiến của mình. Sau đó, chúng ta tạo điều kiện, cho các em có thói quen đi tham khảo ý kiến của kẻ khác, người quen cũng như người lạ, kẻ dưới cũng như kẻ trên.

---«Con hãy đi hỏi bạn con, Mẹ con… Bạn con nói gì ? Cô giáo nói gì ?…

---«Sau khi hỏi ý kiến như vậy, con thấy việc con đánh em con đúng hay sai ? Nên làm hay nên tránh ?

---« Bây giờ con quyết định phải làm gì ?… »

Vào giai đoạn kết luận nầy, với tư cách là người có trách nhiệm cuối cùng, chúng ta đưa ra lối nhìn phải-trái của mình. Không được soi sáng và hướng dẫn, vào giai đoạn quyết định nầy, trẻ em sẽ thiếu kỹ luật, nghĩa là không có thứ tự và cơ cấu tổ chức trong nội tâm của mình.

Đàng khác, nếu chúng ta đốt giai đoạn, đề xuất ý kiến quá sớm, không tôn trọng tiến trình tư duy đi lên từng bước, chúng ta sẽ áp đặt một cách đơn phương, độc tài từ ngoài. Con cái « BỊ » giáo dục như vậy, sẽ lớn lên với hai con đường để chọn lựa : một là bị động, thiếu sáng kiến, thiếu bản lãnh. Hai là phản động, chối từ tất cả mọi qui luật hiện hữu, một cách có hệ thống : vì kẻ khác nói trắng, cho nên tôi « phải » nói đen. Đó là loại người chỉ biết phản ứng tự động và máy móc. Họ không có khả năng sáng tạo, quyết định, chọn lựa, lắng nghe, trao đổi, cân nhắc...

Thêm vào đó, nếu con người bị đe dọa, cưỡng chế, đàn áp, trừng phạt, để thay đổi, họ sẽ không bao giờ thay đổi lối nhìn và nhu cầu của mình. Với cách làm nầy, thay vì đào tạo, giáo dục những con người tự do, chúng ta chỉ sản chế hàng loạt thế hệ nô lệ, công cụ, giả tạo và giả dối. Mọi đổi mới thực sự, trái lại, phải phát xuất từ bên trong nội tâm. Một trẻ em chỉ học, chừng nào nội dung học tập vừa thuộc thực tế của nó, để nó có thể sử dụng. Vừa thuộc vui thích, hứng thú, để nó hội nhập, nghĩa là chuyển biến bài học, thành bản sắc hay là nhu cầu, động cơ thúc đẩy, từ bên trong nội tâm.

7.- HỌC TRONG TINH THẦN VÀ ĐƯỜNG HƯỚNG VỪA ĐƯỢC TRÌNH BÀY, BAO GỒM BA NỘI DUNG :

Nội dung thứ nhất : Tôi làm cha mẹ, để sáng soi, hướng dẫn và nâng đỡ kẻ khác trên đường đời.

Nội dung thứ hai : Tôi học làm bạn đồng hành và chia sẻ với anh chị em đồng bào. Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành hòn núi cao. Chỉ với điều kiện nầy, chúng ta mới có khả năng khẳng định :

« Bàn tay Ta làm nên tất cả,

« Với sức Người, sỏi đá cũng thành cơm ».

Ta và Người ở đây phải được hiểu là những chủ nhân tập thể, là mọi người đang cùng nhau tạo nên cộng đồng Quê Hương.

Nội dung thứ ba : Tôi học làm một đứa con hạnh phúc trong lòng Quê Hương. Tôi vừa biết cho, vừa biết nhận. Vừa được thương yêu, đùm bọc, nuôi nấng. Vừa có khả năng nuôi lại tổ tiên, cha mẹ và anh chị em đồng bào, với liếc nhìn. Với tiếng nói bi bô. Với những nụ hôn nồng thắm. Với những lời tâm sự thỏ thẻ, dịu ngọt…

Nói tóm lại, khi hạnh phúc, tự nhiên tôi ĐỒNG CẢM. Và khi biết đồng cảm, tự nhiên tôi Hạnh Phúc.

Trái lại, khi nào tôi đàn áp kẻ khác, sống xé lẻ hay là bị khổ đau xói mòn, ô nhiễm, tôi đang gieo vãi những hạt mầm bạo động, trong bản thân tôi, và trong lòng Nhân Loại. Lúc bấy giờ, thay vì làm cha mẹ kỹ cương, từ tâm, nhân hậu, có khả năng soi sáng và nâng đỡ, tôi chỉ có tác phong cưỡng chế, trừng phạt hay là buông xuôi, nhắm mắt và cho phép tất cả. Với cách làm nầy, chúng ta chế tạo trong lòng Nhân Loại, những lớp người hoặc bị động, hoặc làm « ông trời con » chỉ biết hành hạ, đàn áp những người khác. Báo chí, truyền thanh, truyền hình dang nói đến những hiện tượng nầy mỗi ngày, nhất là trên các đô thị đông dân cư và đại công nghiệp. Những sự cố ấy cũng đang có mặt trong cõi lòng của chúng ta.

***

Trở lại với bài học của Lạc Long Quân, về sự khác biệt giữa chúng ta, chúng ta đừng quên vế thứ hai : « Khi có việc cần, hãy gọi nhau về ».

Chúng ta khác nhau, như Rồng và Tiên. Như Trời và Bể. Nhờ khác nhau, chúng ta mới có khả năng bổ túc, kiện toàn cho nhau. Hãy gọi nhau về, để cùng nhau trở thành Vĩ ĐẠI có trăm con mắt để thấy, co trăm cánh tay để làm, có trăm đôi chân, để đi đến với từng người anh chị em đồng bào.

Cho đến bao giờ người Việt Nam mới hội nhập và nhuần nhuyễn bài học làm người ấy ? Phải chăng đó là chiếc nỏ thần bảo quốc mà chúng ta đã lảng quên, trong đáy sâu u tối của tâm hồn, từ bao nhiêu đời ? Ai có khả năng lặn sâu xuống đó, tìm lại gia bảo và trả lại cho anh chị em đồng bào ? Người ấy không là ai khác, ngoài Em và Tôi. Tất cả chúng ta là những Vị Thần Kim Qui ĐANG THÀNH và SẼ THÀNH, trong lòng Quê Hương và Đất Nước.

Chúng ta hãy gọi nhau về, để cùng nhau tìm cách chuyển hóa bao nhiêu « ngư tinh, hồ tinh và mộc tinh », đang có mặt trong lòng chúng ta. Ngư Tinh là những của ăn tinh thần bị đầu độc, ô nhiễm. Hồ Tinh là những ý đồ u tối, tanh hôi đang sôi sục trong cõi lòng của mỗi người. Mộc Tinh là những loại cây Văn Hóa mất gốc, không còn phục vụ và tôn trọng con người.

Không gọi nhau về, để cùng nhau hóa giải ba loại thách đố ấy, chúng ta sẽ trối lại cho con cháu Rồng Tiên một gia tài đổ nát và tang thương. Ngư Tinh, Hồ Tinh và Mộc Tinh sẽ biến chúng ta thành Tinh Yêu Ma Quái. Nước Non sẽ đẻ ra những thế hệ Sơn Tinh và Thủy Tinh, suốt đời chỉ biết « làm gà một nhà bôi mặt đá nhau ».

LAUSANNE, THỤY SĨ 2007