Chúa Nhật 4 Mùa Vọng A
Is 7,10-14 ; Rm 1,1-7 ; Mt 1,18-24
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 1,18-24.
(18) Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. (22) Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se, biểu lộ qua cách ngài xử lý trước việc thụ thai lạ lùng của Đức Ma-ri-a.
3. CHÚ THÍCH:
- C 18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức Giê-su. + Đã thành hôn với ông Giu-se: Theo phong tục Do thái, nghi lễ đính hôn cử hành trước lễ rước dâu cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước lễ rước dâu. Nhưng nếu có con trong thời gian này thì vẫn được công nhận là con chính thức. Ở đây cho thấy hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đã là vợ chồng hợp pháp nhờ lễ đính hôn. + Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do thánh Giu-se. Trước mặt người đời, Đức Giê-su được nhìn nhận là con bác thợ mộc Giu-se, dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). + Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính về Lề Luật, vì khi quyết định bỏ Ma-ri-a, Giu-se không làm theo Luật dạy là làm tờ chứng thư ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của Giu-se hệ tại điểm này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên Chúa chọn dành riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi Thần Linh khi chưa được chỉ thị từ nơi Thiên Chúa. + Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo: Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a, vừa giữ được sự công chính ? Cuối cùng ông quyết định âm thầm bỏ Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.
- C 20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến trấn an và trao sứ mệnh cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít: Giu-se được trao sứ mệnh làm cha để con trẻ Giê-su được thuộc về dòng dõi Đa-vít, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16). + Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Đặt tên cho con trẻ là thừa nhận mình là cha của con về pháp luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều người khác trong thời Cựu Ước (x. Xh 24,13; Nkm 7,7). + Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mệnh của Con trẻ là cứu dân khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác với quan niệm cứu thế mang tính trần tục mà dân Do thái đang mong đợi.
- C 22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. + Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ mệnh của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức Giê-su mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giê-su: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- C 24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn ngần ngại. Ông lập tức tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về nhà làm vợ như lệnh sứ thần truyền. + Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà lại không ăn ở với bà như vợ chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi “Xin Vâng” để đáp lại lời Chúa mời gọi làm Mẹ của Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,31.38). + Cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Giu-se đã vâng lời sứ thần để đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
4. CÂU HỎI:
Một số người Tin Lành đã dựa vào chữ “cho đến khi” này để khẳng định: Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh Hài Nhi Giê-su như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra, người Tin Lành còn dựa vào câu trong Tin Mừng Lu-ca: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7).
*GIẢI ĐÁP:
- Chữ “Cho đến khi” trong câu này không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho đến khi bà sinh con, rồi sau đó lại ăn ở như vợ chồng sau khi sinh. Thực ra khi viết câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện Giu-se đã không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không quan tâm việc hai ông bà sau khi Ma-ri-a sinh con có tri giao vợ chồng hay không qua câu: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (c. 25).
- Về chữ “con trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất hành (x. Xh 13,2.12.15) sắp được áp dụng cho Đức Giê-su (x. Lc 2,23). Con trai đầu lòng ở đây chỉ có nghĩa là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo genitus) chứ không ám chỉ là sẽ còn có các người con khác sau này.
- Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời của một người nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12,47). Câu này tượng tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về Đức Giê-su: “Anh em của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3). Thực ra khi thấy Đức Ma-ri-a đi chung với mấy người khác, người ta nghĩ đó là những người bà con, chứ không khẳng định là anh em ruột thịt của Người. – Ngoài ra sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với các anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Anh em đây cũng chỉ là bà con về phía thánh Giu-se.
- Bằng chứng cho thấy Đức Giê-su là con trai duy nhất của Đức Ma-ri-a là trước khi tắt thở trên cây thập tự, Đức Giê-su đã trối Mẹ Người làm mẹ của môn đệ Gio-an và trối Gio-an làm con của Mẹ. Và “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu thực sự còn có anh em khác thì Đức Giê-su đã không trối mẹ cho môn đệ và Gio-an cũng không thể rước bà về nhà mà phụng dưỡng thay Thầy Giê-su được.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Ông Giu-se chồng bà là người công chính (Mt 1,19)... Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG KHIÊM TỐN VÀ TRUNG THỰC CỦA TỔNG THỐNG NÍCH-SƠN:
Khi vụ OÁT-TƠ GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống NÍCH-SƠN (Nixon) được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh giá cao, lại trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn thắng cử mà Ních-sơn đã làm ngơ để thuộc cấp nghe lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và ghép vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà, Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn thấy cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông liền cầm lấy mở ra và đọc được lời Chúa như sau: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính lời đó đã nhắc nhở ông phải trung thực trong hành động. Thế là ông đã mau chóng có quyết định dứt khoát. Mấy ngày sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát sóng đi toàn nước Mỹ để nhận lỗi và xin tha thứ. Ông cũng chính thức xin từ chức Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được đánh giá là can đảm có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng Hoa Kỳ đã cảm thông với ông và vẫn kính trọng ông như trước.
2) GƯƠNG KHIÊM TỐN CẦN KIỆM CỦA Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ:
Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ là người châu Mỹ La-tinh đầu tiên và cũng là một tu sĩ dòng Tên đầu tiên được bầu vào vị trí lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo.
Tờ báo New York Times (Mỹ) đã nhận định khi bầu chọn Hồng Y GIOOC-DƠ MA-RI-Ô BEC-GÔ-GLI-Ô, 76 tuối, làm giáo hoàng thứ 266 đã thể hiện quyết tâm mang tính lịch sử của Hội Đồng Hồng Y là: cải tạo Giáo Hội Công Giáo trước nhiều áp lực hiện tại. Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ được kỳ vọng sẽ mang lại sự cởi mở mạnh mẽ hơn cho Giáo Hội Công Giáo.
Ngài được sinh ra trong một gia đình nhập cư gốc Ý tại thủ đô BUENOS AIRES (Argentina), nổi tiếng là một người khiêm nhường, luôn lên tiếng bênh vực người nghèo và có một cuộc sống cần kiệm khiêm tốn.
Vị Tân Giáo hoàng đã bay đến thủ đô RÔ-MA nước Ý để tham dự Mật nghị Hồng Y bằng vé máy bay hạng du lịch rẻ tiền. Sau đó ngài cũng đã kêu gọi người dân ÁC-HEN-TI-NA hãy chia sẻ số tiền vé máy bay cho người nghèo, thay vì phải bay đến Rô-ma để chúc mừng ngài. Tờ New York Times đã dẫn lời linh mục FÊ-ĐÊ-RI-CÔ LOM-BÁC-ĐI, phát ngôn viên của Vatican, cho biết Giáo hoàng PHAN-XI-CÔ đã có một hành động khiêm tốn là đã gọi điện cho vị Giáo hoàng tiền nhiệm BÊ-NÊ-ĐÍCH-TÔ ngay sau khi vừa được Mật Nghị bầu chọn làm Giáo Hoàng.
Một phát ngôn viên khác của Vatican, linh mục THO-MAS RO-SI-CA, cũng thuật lại về cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ trong Ngày Giới Trẻ Thế giới (World Youth Day) ở CA-NA-DA cách đây 10 năm. Khi đó, Đức Giáo Hoàng đang là Tổng giám mục BU-E-NOS AI-RES cho biết: ngài đã bán ngôi biệt thự dành riêng cho Tổng giám mục để ra sống ở một căn hộ giản dị bên ngoài Tòa Tổng giám mục. Ngài cũng tự nấu ăn và thường đi lại bằng xe buýt, thay vì đi xe hơi công vụ.
Khi Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ mới được bầu chọn, Tổng thống Mỹ BA-RACK O-BA-MA là một trong những nhà lãnh đạo thế giới đầu tiên đã gửi lời chúc mừng ngài. Từ Nhà Trắng, ông đã phát biểu về vị Tân Giáo Hoàng như sau: “Với tư cách là nhà vô địch của người nghèo và những người yếu đuối, Đức Giáo Hoàng đã truyền bá thông điệp của lòng yêu thương và sự cảm thông cho thế giới hôm nay”.
3) EM-MA-NU-EN, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA :
Một lần kia, Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA được mời đến thăm nước Ái nhĩ lan. Mẹ đã được mời nói chuyện thân mật với rất đông bạn trẻ tại hội trường thành phố. Trong câu chuyện Mẹ chỉ đơn giản nói về tình yêu của Thiên Chúa nội dung như sau: “Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn”. Rồi sau đó Mẹ rời thành phố để đi nơi khác.
Rồi vào buổi tối hôm ấy một hồi chuông điện thoại reo vang trong phòng của cha JOHN, vị linh mục chuyên lo cho giới trẻ bị nghiện ngập ma túy. Khi nhấc chiếc điện thoại lên nghe thì đầu giây bên kia là giọng nói quen thuộc của một thanh niên mà trước đây cha đã từng gặp và khuyên anh quay về với Chúa, nhưng anh vẫn cố chấp không nghe. Giờ đây anh nói: “A-lô, con muốn được xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Hội Thánh”. Khi được hỏi lý do anh đã trả lời như sau : “Thưa cha, vì chiều nay con đã được nghe Mẹ Tê-rê-sa khuyên bảo con một lời nói đánh động lòng con rất nhiều. Tuy Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói chung với mọi người trong đó có con, rằng: “Chúa ở với các con”. Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn hỏi: “Ủa, đã nhiều lần cha cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại nghe lời Mẹ Tê-rê-sa ?” Anh thanh niên chậm rãi giải thích:
- “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó phát xuất từ thẳm sâu trong tâm hồn. Mẹ đã nói với con với tất cả con tim yêu thương của mình”.
4. YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ DẤU CHỈ CỦA ĐẤNG EM-MA-NU-EN:
Có một cuốn phim do một đạo diễn sáng tác mang ý nghĩa rất phù hợp với mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta như sau:
Một Đức Giáo Hoàng kia không thích lễ nghi rườm rà trong Tòa Thánh Vatican nên đã cải trang ra khỏi điện Va-ti-can và đi lạc đến một ngôi làng hẻo lánh nghèo khó cách xa thành phố, đang bị bệnh dịch hoành hành bị cách ly với bên ngoài. Trong làng gần nhà thờ có một cái giếng ngầm cung cấp nước cho dân làng bằng cái cối xay gió. Nhưng bấy giờ cối xay gió đang bị hư và không ai biết sửa đành phải bỏ không. Cuộc sống của dân làng rất khổ cực khiến giáo dân chỉ lo chữa bệnh nên không ai đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật và nhà thờ bị bỏ hoang. Rồi chính Linh mục chính xứ do thất nghiệp nên đã bỏ nhà thờ đi chăn cừu cho một nhà giàu. Trước hoàn cảnh đó, Đức Giáo Hoàng đã dấn thân khôi phục: kêu gọi dân làng làm vệ sinh môi trường cho khu nhà thờ bằng việc hốt rác, tiếp xúc với những trẻ em bụi đời, và động viên nhiều người cùng nhau sửa lại cối xay gió kéo nước ngầm cho dân làng. Sau một thời gian làm việc vất vả với rất nhiều khó khăn, cuối cùng cối xay gió đã được sửa chữa và bơm nước lại. Cho tới lúc đó dân làng mới biết Ngài chính là Giáo hoàng bị mất tích và đã được đón về Tòa Thánh.
Cuốn phim kết thúc với cảnh Đức Giáo Hoàng chủ tọa một Thánh lễ có rất đông người tham dự, trong đó có dân chúng của cái làng nghèo khổ kia và cả vị Linh mục chính xứ đã quay về nhà thờ để ở với đoàn chiên là giáo dân của mình.
Bài học đạo diễn muốn nói qua cuốn phim là: Nếu Hội thánh chỉ sinh hoạt bằng lễ nghi tại nhà thờ thì sẽ dần xa lìa quần chúng và quần chúng cũng đần lìa bỏ Hội thánh. Nhưng nếu Hội thánh biết dấn thân yêu thương bằng sự phục vụ các nhu cầu thiết thực của họ, thì quần chúng cũng sẽ gắn bó với Hội thánh. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh làm người, trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", thì Hội thánh cũng phải « ở cùng các tín hữu » và mỗi tín hữu chúng ta cũng phải biết quan tâm đến các nhu cầu của tha nhân và khiêm tốn dấn thân phục vụ họ.
3. SUY NIỆM:
Chúa Nhật thứ Bốn Mùa Vọng hôm nay trình bày cho chúng ta biết phải chuẩn bị tâm hồn thế nào để đón Chúa đến qua tấm gương vâng phục và sống công chính của thánh Giu-se? Mỗi người chúng ta sẽ phải làm gì để sống chan hòa phục vụ tha nhân, nên giống Đấng Em-ma-nu-en, đã đến ở giữa chúng ta để nêu gương yêu thương và phục vụ chúng ta?
1) GIU-SE, ĐẤNG CÔNG CHÍNH CỦA THIÊN CHÚA:
Công chính theo nghĩa Thánh Kinh là luôn tuân giữ Lề Luật của Chúa và cư xử với tha nhân trong tinh thần công bình và ngay chính:
+ Giu-se luôn cư xử công bình: Ông không hề nghi ngờ Ma-ri-a đã phạm tội ngoại tình, vì hoàn toàn tin tưởng vào sự trong sáng của Ma-ri-a, nên đã “không tố cáo bà”.
+ Giu-se cũng là một người ngay chính: Sự ngay chính biểu lộ qua việc ông không làm lễ rước cô dâu Ma-ri-a về nhà, không dám nhận thai nhi trong lòng Ma-ri-a là con đẻ của mình và ông dự định sẽ âm thầm rút lui khi chưa hiểu biết thánh ý của Thiên Chúa.
2) GIU-SE, ĐẦY TỚ TRUNG TÍN LUÔN XIN VÂNG Ý CHÚA:
+ Tin Mừng Mát-thêu đề cập đến việc sứ thần đến truyền tin cho ông Giu-se trong giấc mộng. Sứ thần đã đánh tan sự bối rối của Giu-se khi nói cho ông biết nguồn gốc thần linh của Thai Nhi trong lòng Ma-ri-a.
+ Sứ thần còn lệnh cho Giu-se làm ba việc để cộng tác vào chương trình cứu độ: Một là “đón Ma-ri-a về nhà” làm vợ để Ma-ri-a khỏi bị tiếng oan. Hai là tôn trọng lời khấn dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa bằng việc “không ăn ở với bà”. Ba là “đặt tên con trẻ là Giê-su” để thừa nhận trẻ Giê-su là con của mình, hầu tránh cho Đức Giê-su khỏi bị người đời khinh dể, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Khi Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giu-se” (Lc 3,23).
+ Ngoài ra, Giu-se cũng nêu gương tuân giữ Luật Chúa: Dâng con đầu lòng vào Đền thờ sau khi trẻ Giê-su sinh ra được bốn mươi ngày, rồi hai ông bà chuộc lại bằng một cặp chim gáy hay bồ câu con. Rồi mỗi năm, Giu-se đều đưa Đức Ma-ri-a và trẻ Giê-su hành hương về Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua như Luật dạy (x. Lc 2,41-52).
Thánh Giu-se chính là mẫu gương đạo đức Mùa Vọng cho các tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta hãy học với Thánh Giu-se luôn lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thi hành ý Chúa. Nếu chúng ta vâng phục và hoàn toàn tin thác trong tay Chúa quan phòng noi gương thánh Giu-se, chúng ta cũng sẽ được nên công chính giống như ngài.
3) MỖI TÍN HỮU PHẢI TRỞ THÀNH « EM-MA-NU-EN » CHO THA NHÂN:
Thiên Chúa vì yêu thương đã tạo dựng nên vũ trụ vạn vật “vì và cho » loài người. Ngài luôn quan phòng để mọi tạo vật được tồn tại và tiến hóa theo thánh ý Ngài. Ngài còn hiện diện ở với loài người qua Thánh Kinh, để dạy dỗ loài người nhận biết tin thờ và vâng theo thánh ý của Ngài. Nhất là Ngài còn sai Con Một nhập thể làm người, trở thành Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, để ban ơn cứu độ cho loài người chúng ta.
Trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, mỗi người chúng ta cần nhận ra Đức Giê-su là Đấng “Em-ma-nu-en”, đang ở với chúng ta qua tha nhân, nhất là qua những người nghèo khó, đau khổ, tật bệnh và đang bị bỏ rơi… để mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giê-su. Đây là điều kiện để chúng ta đón nhận được ơn cứu độ do Đấng Thiên Sai mang đến cho chúng ta.
4. THẢO LUẬN:
Trong những ngày Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để trở thành một người công chính noi gương thánh Giu-se ? Bạn sẽ ứng xử thế nào đối với những người nghèo hèn là hiện thân của Đấng EM-MA-NU-EN ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình để lo công việc của Chúa noi gương Thánh Cả Giu-se trong Tin Mừng hôm nay. Xin cho chúng con sẵn sàng làm theo ý Chúa, sống khiêm nhường và luôn tin cậy phó thác vào Chúa Quan Phòng.
Noi gương Mẹ Ma-ri-a khi xưa sau khi thụ thai Hài Nhi Giê-su đã bị người đời nghi kỵ hiểu lầm, nhưng Mẹ vẫn một lòng cậy trông vào Chúa, cho chúng con trong những giờ phút đen tối bị người thân hiểu lầm, bị người chung quanh xa lánh, cũng biết tín thác vào Chúa quan phòng. Chúng con tin chắc rằng Chúa cũng sẽ kíp thời giải oan và sẽ “biến sự dữ ra sự lành” như Mẹ khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.