III. Giáo Hội có thương xót như Chúa Kitô thương xót không?
Vừa được bầu làm Giáo Hoàng, Đức Phanxicô đã cho mọi người thấy chiều hướng thương xót của triều đại ngài khi vẫn giữ huy hiệu giám mục: Miserando atque Eligendo (thương xót mà chọn lựa). Và Chúa Nhật sau đó, trong bài diễn văn đầu tiên với tín hữu, ngài nói tới việc tha thứ cho người đàn bà ngoại tình. Và với ngài, Đức Hồng Y Walter Kasper là thần học gia tuyệt vời của lòng thương xót, sau khi đọc tác phẩm của vị Hồng Y này tựa là "Mercy, The Essence of the Gospel and The Key to Christian Life” (Lòng Thương Xót, Yếu Tính của Tin Mừng và là Chìa Khoá mở ra Sự Sống Mới).
Ở đây, chúng tôi không có tham vọng trình bầy nội dung cuốn sách trên, chỉ dựa vào phát biểu của vị Hồng Y này về lòng thương xót ngay trước ngày khai mạc Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về Gia Đình năm 2014.
Đức Hồng Y Kasper đặt câu hỏi: lòng thương xót có nghĩa gì đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội? Theo ngài, giới điều thương xót không chỉ áp dụng cho các Kitô hữu cá nhân mà còn cho cả Giáo Hội như một toàn bộ nữa. Vì nếu Thiên Chúa luôn luôn thương xót, thì tại sao Giáo Hội lại không thương xót? Hay, tại sao xem ra Giáo Hội không thương xót như Thiên Chúa thương xót? Câu hỏi này cho thấy có sự thiếu thoải mái nơi khá nhiều Kitô hữu.
Và Đức Hồng Y cho hay các Kitô hữu trên rất đúng. Bởi vì tại Công Đồng Vatican II, Giáo Hội vốn tự định nghĩa mình như một bí tích, dấu chỉ và dụng cụ phổ quát của cứu rỗi nhờ Chúa Kitô. Nếu Giáo Hội là bí tích chỉ tình yêu Thiên Chúa trong Chúa Kitô, thì Giáo Hội cũng là bí tích chỉ lòng thương xót của Người. Bởi thế, giới truyền buộc Giáo Hội phải có lòng thương xót được đặt cơ sở trên chính bản sắc của Giáo Hội như Nhiệm Thể Chúa Kitô. Giáo Hội không phải là loại cơ quan xã hội hay bác ái; trong tư cách nhiệm thể Chúa Kitô, Giáo Hội là bí tích chỉ sự hiện diện liên tục đầy hiệu quả của Chúa Kitô trong thế gian. Giáo Hội là bí tích chỉ lòng thương xót trong tư cách “Chúa Kitô toàn diện”, nghĩa là Chúa Kitô nơi đầu và các chi thể. Như thế, Giáo Hội gặp gỡ Chúa Kitô trong chính các chi thể của mình và nơi những người đang cần sự giúp đỡ.
Tuy nhiên, vẫn còn khía cạnh thứ hai. Giáo Hội không những là tác nhân của lòng Chúa thương xót; mà còn là đối tượng của lòng thương xót ấy nữa. Là nhiệm thể Chúa Kitô, Giáo Hội được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Nhưng Giáo Hội bao gồm các tín hũu trong lòng mình và do đó phải không ngừng được thanh tẩy để có thể đứng vững một cách trong sạch và thánh thiện (Eph 5:23). Thành thử, Giáo Hội phải tự hỏi mình một cách phê phán và không ngừng xem mình có thực sự sống đúng với bản sắc của mình, đúng với ơn gọi của mình hay không. Ngoài ra, như chính Chúa Giêsu Kitô từng làm, cả ta nữa cũng giả thiết phải đương đầu với các lầm lẫn và sai phạm của Giáo Hội, không theo cách tự coi mình là chính trực mà theo lối thương xót. Tuy nhiên, ta phải rõ ràng về điều này: một Giáo Hội không có bác ái và thương xót không còn phải là Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô nữa.
Cho nên, sứ điệp thương xót có những hậu quả rất xa rộng đối với giáo huấn, sinh hoạt và sứ mệnh Giáo Hội. Lời trách móc tệ hại nhất chống lại Giáo Hội là đã không thực hành những gì mình truyền dạy người khác. Thực vậy, nhiều người cảm thấy Giáo Hội khắt khe, thiếu lòng thương xót. Chính vì thế Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi khai mạc Công Đồng Vatican II, đã nói rằng trước hết, Giáo Hội phải sử dụng liều thuốc thương xót.
Việc trên có thể diễn ra 3 cách: Giáo Hội phải công bố lòng thương xót của Thiên Chúa; Giáo Hội phải cụ thể cung cấp cho người ta lòng thương xót của Thiên Chúa dưới hình thức bí tích hòa giải; và Giáo Hội phải để lòng thương xót của Thiên Chúa xuất hiện và được thể hiện trong toàn bộ đời sống, các cơ cấu cụ thể và cả trong các luật lệ của mình.
Lòng thương xót và người nghèo
Có nhiều điều nên nói về bí tích thương xót, những điều vốn bị đánh giá thấp trong mấy thập niên vừa qua. Nhưng ở đây, Đức HY Kasper chỉ đề cập tới một khía cạnh rất quan trọng đối với Đức Phanxicô. Giáo Hội như chứng tá của lòng thương xót đóng vai chủ chốt trong chương trình của ngài muốn có một Giáo Hội nghèo cho người nghèo.
Chương trình trên không mới lạ gì. Nó chính là chương trình của Chúa Giêsu Kitô. Người tới để rao giảng Tin Mừng cho người nghèo (Lc 4:18). Người không chỉ giảng dạy; Người, vốn giầu có, nay trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giầu có (2Cor 8:9). Công Đồng Vatican II bàn tới sứ điệp này trong một chương của “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội”, tuy bị lãng quên sau thời Công Đồng, nhưng đã trở thành quan trọng đối với nền thần học của Nam Bán Cầu. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đem nó ra cho cả Giáo Hội hoàn cầu cùng suy nghĩ. Ta hay quên rằng hai phần ba anh chị em Kitô Giáo và Công Giáo của ta hiện sống ở Nam Bán Cầu, ấy vậy nhưng ta lại không chú trọng gì tới các nhu cầu, các vấn đề và các chủ trương của họ. Họ nghèo về vật chất, nhưng lại là những Giáo Hội rất sống động và sinh động mà ta cần lắng nghe. Họ tượng trưng cho tương lai Giáo Hội.
Đối với Đức Phanxicô, trở thành một Giáo Hội nghèo cho người nghèo, chủ yếu, không phải là một chương trình xã hội mà là một vấn đề Kitô học. Các anh chị em nghèo của ta là thành phần của nhiệm thể Chúa Kitô. Như Đức Phanxicô vốn nhấn mạnh, trong các thương tích của người nghèo và người bệnh, ta đụng tới các thương tích của Chúa Kitô nghèo. Chính Người nói với ta: điều các con làm cho họ, là các con làm cho Ta” (Mt 25). Đây là trải nghiệm của Thánh Phanxicô Thành Assidi. Vị thánh này, lúc bắt đầu con đường hồi tâm của ngài, đã ôm hôn một người cùi và có cảm giác là ôm hôn chính Chúa Kitô. Mẹ Terêxa cũng thuật lại cùng một trải nghiệm như thế khi bà choàng tay ôm một người đàn ông tả tơi đang hấp hối tại một trung tâm của Mẹ ở Calcutta.
Từ các vị thánh trên, ta học hỏi được nhiều về tính mẫn cảm và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, một tính mẫn cảm và nhân hậu ta nên mô phỏng đối với các người lân cận của ta. Bởi thế, Đức Phanxicô đã bén rễ rất sâu vào lịch sử Kitô Giáo. Quà phúc ngài dành cho Giáo Hội là biến một truyền thống cổ xưa thành một sứ điệp khẩn trương dành cho chúng ta ngày nay. Lòng thương xót là vấn đề chính của triều đại ngài và là một thách đố vĩ đại, nhất là đối với các Giáo Hội giầu có ở Bắc Bán Cầu.
Lòng thương xót và giáo luật
Nhiều người đặt câu hỏi: Điều trên có nghĩa gì đối với chính Giáo Hội và tác phong của Giáo Hội không những đối với những người nghèo theo nghĩa vật chất mà đối với cả những người ở bên trong Giáo Hội tự cảm thấy mình bị lãng quên, bị đẩy qua một bên, bị cho ra rìa và bị tuyệt thông, nếu không theo đúng nghĩa giáo luật thì ít nhất cũng theo nghĩa thực tế, vì những người này không được phép tham dự bàn tiệc của Chúa? Người ta thường hay thắc mắc: còn về những người ly dị và tái hôn thì sao?
Trước nhất, theo Đức HY Kasper, chữ lòng thương xót rất hay bị hiểu lầm và sử dụng sai. Việc này xẩy ra mỗi khi ta lẫn lộn lòng thương xót với nuông chiều yếu đuối hay với thứ thương xót giả hiệu, vì yếu đuối, cứ để mặc người ta làm theo ý họ. Nguy cơ là biến ơn thánh qúy giá của Thiên Chúa, một ơn thánh được “mua” hay “có được” nhờ chính máu của Người trên thập giá, thành thứ ơn phúc rẻ tiền, và biến ơn thánh thành một món hàng rẻ tiền bán ở tầng hầm. Đó là điều Dietrich Bonhoeffer muốn diễn tả khi ông viết rằng “ơn thánh rẻ tiền có nghĩa là công chính hóa tội lỗi chứ không công chính hóa người có tội… Ơn thánh rẻ tiền là giảng dậy sự tha thứ mà không đòi sự ăn năn, giảng dậy phép rửa mà không cần kỷ luật của Giáo Hội, giảng dậy Rước Lễ mà không cần xưng tội, giảng dậy sự tha tội mà không cần cá nhân phải xưng tội”.
Bởi thế, theo Đức HY Kasper, ta cần tìm hiểu lại ý nghĩa của kỷ luật Giáo Hội. Chữ đầu hết trong Tân Ước chỉ Giáo Hội, tức chữ Ecclesia, ngay từ đầu, đã chứa nhiều yếu tố luật lệ. Ý tưởng cho rằng Giáo Hội nguyên thủy của yêu thương sau này đã trở thành Giáo Hội của luật lệ là một ý tưởng không thể nào chứng minh được. Theo Tin Mừng Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu ban quyền chìa khóa cho Thánh Phêrô cũng như ban cho ngài và cho mọi tông đồ quyền buộc và tha, nghĩa là quyền được tống xuất các cá nhân ra khỏi cộng đồng và tái nhận lại họ. Và Thánh Mátthêu từng ghi lại các qui luật rõ ràng để thi hành quyền này (Mt 16:19; 18:18).
Thành thử, việc không tuân hành kỷ luật Giáo Hội không thể nại tới Chúa Giêsu và Tân Ước để ủng hộ được. Nhưng vì kỷ luật Giáo Hội phải phù hợp với ý nghĩa Tin Mừng, nên nó cần được giải thích và áp dụng theo chiều hướng và tinh thần của Tin Mừng. Chính vì lý do này, Thánh Phaolô nói rõ: hình phạt tống xuất nhằm buộc người tội lỗi phải suy nghĩ về tác phong của mình mà ăn năn hối lỗi. Nếu người tội lỗi hối hận về hành động của họ và ăn năn, thì cộng đồng phải để lòng nhân hậu thắng thế một lần nữa (2Cor 2:5-11). Hình phạt là phương thế cuối cùng và chỉ có tính tạm thời. Nó là phương thế quyết liệt và cuối cùng được lòng thương xót sử dụng.
Hiểu kỷ luật Giáo Hội như liều thuốc đắng đót nhưng cần thiết của lòng thương xót như trên là cái hiểu phù hợp với truyền thống vốn coi Chúa Giêsu Kitô như thầy thuốc, người chữa lành và cứu vớt; một truyền thống trong đó, vị mục tử, nhất là vị giải tội, được hiểu không phải chỉ là quan tòa, mà trước nhất như một thầy thuốc của linh hồn. Lối hiểu có tính điều trị này về luật lệ và kỷ luật Giáo Hội dẫn ta tới vấn đề nền tảng là phải giải thích và giải nghĩa lề luật của Giáo Hội ra sao. Đây là một lãnh vực rất rộng mà theo Đức HY Kasper, ta không thể bàn thấu đáo ở đây, nhưng chỉ bàn tới khía cạnh tương quan của luật Giáo Hội với lòng thương xót mà thôi.
Lề luật và tinh thần
Theo Đức HY Kasper, giáo luật không chống lại Tin Mừng, nhưng Tin Mừng chống lại lối hiểu có tính duy pháp về giáo luật. Phải giải thích và áp dụng giáo luật dưới ánh sáng lòng thương xót vì lòng thương xót mở mắt để ta thấy tình thế cụ thể của người khác. Lòng thương xót cho thấy cá nhân không phải chỉ một trường hợp ta có thể sắp (subsume) vào một qui luật chung. Trái lại, đối với nền nhân học Kitô Giáo, điều chủ yếu là: trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không phải là một “số nhiều”; mỗi người và mỗi tình huống đều có tính độc đáo. Do đó, ta phải tìm ra các giải pháp công chính và công bình cùng một lúc. Nếu không chịu tìm như thế, thì như người Rôma vốn nói, summa ius (công lý cao nhất) sẽ trở thành summa iniuria (bất công cao nhất).
Các suy tư trên có nghĩa gì đối với vấn đề các người Công Giáo ly dị và tái hôn là việc đang được đem ra thảo luận, chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục sắp tới (năm 2014). Đức HY Kasper cho hay: ngài không có câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi này. Trách nhiệm của Thượng Hội Đồng cùng với Đức Giáo Hoàng là phải quyết định vấn đề này. Trong mật nghị hội các Hồng Y đầu năm 2014, theo chỉ thị của Đức Phanxicô, ngài chỉ đề xuất một “số suy tư khiêm tốn” về vấn đề khẩn trương này mà thôi.
Không nhà thần học nào, kể cả Đức Giáo Hoàng, có thể thay đổi tín lý bất khả tiêu của một hôn nhân bí tích. Trái lại, tất cả chúng ta đều có lý do phải giúp đỡ và nâng đỡ để người ta trung thành với cuộc hôn nhân của họ vì lợi ích của chính họ và vì lợi ích của con cái họ. Đúng là tín lý không thể bị thay đổi và sẽ không bị thay đổi. Nhưng tín lý phải được áp dụng một cách thận trọng (prudence), một cách công chính và công bình theo các tình huống cụ thể và thường phức tạp. Bởi vì các tình huống này rất khác nhau. Không hề có một trường hợp ly dị và tái hôn tiêu biểu (typical); do đó, không thể có một giải pháp tiêu chuẩn chung cho mọi tình huống. Cần phải biện phân, và biện phân, thận trọng và khôn ngoan là các nhân đức chính của một giám mục mục tử. Ta không luôn thực hiện được điều tốt nhất, nhưng ta nên luôn luôn làm hết sức ta.
Bởi vậy, theo Đức HY Kasper, câu hỏi là: nếu một người, sau khi ly dị, bước vào một cuộc hôn nhân thứ hai theo dân luật nhưng rồi thống hối sự thất bại không chu toàn lời hứa của mình trước mặt Thiên Chúa, người phối ngẫu và Giáo Hội trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chu toàn hết sức các bổn phận mới của mình và làm những gì có thể làm được cho việc giáo dục con cái trong đức tin Kitô Giáo và có ước muốn nghiêm chỉnh được chịu các bí tích, mà ông cần để có sức mạnh trong tình huống khó khăn của mình, liệu ta có nên từ chối tha tội và tha thứ cho ông ta không sau một thời gian tái định hướng và ổn định? Trong Kinh Tin Kính, ta tuyên xưng: “tôi tin phép tha tội”. Nếu Thiên Chúa chịu ban cơ hội mới, tương lai mới cho mọi người biết ăn năn thống hối và làm những gì có thể trong tình huống của họ, tại sao Giáo Hội, vốn là bí tích của lòng Chúa thương xót, lại không chịu ban?
Đức HY Kasper cho rằng chủ điểm ở đây là việc giải thích thoả đáng đối với việc áp dụng. Thánh Tôma Aquinô, theo gương Aristốt, dạy ta phải áp dụng trí hiểu thực tiễn (practical intellect, khác với trí hiểu lý thuyết hay suy lý, theoretical or speculative intellect) vào một tình huống cụ thể. Nói cách khác, phải áp dụng nhân đức thận trọng: tức khôn ngoan áp dụng nguyên tắc phổ quát vào một tình huống cá biệt và đặc thù. Đây là phương thức từng được một số giáo phụ đưa ra, nhất là Thánh Basilêô Thành Xêdarêa: sử dụng nguyên tắc oikonomia của Chính Thống Giáo, hay nguyên tắc epikea của truyền thống La Tinh. Đầu thời cận đại, Thánh Alphôngsô Đệ Liguori đề xuất phương thức này trong hệ thống cái nhiên thuyết (probabilism) của ngài. Như thế, nếu đi theo chiều hướng này, Thượng Hội Đồng sẽ nằm trong truyền thống tốt nhất của Giáo Hội. Lẽ dĩ nhiên, các suy tư này không mở ra một phương thức tổng quát áp dụng cho mọi tình huống; chỉ có thể áp dụng cho một số nhỏ mà thôi; nhưng có thể trở thành một con đường cho những ai hết sức quan tâm và sẵn sàng đi theo lối hồi tâm.
Con đường trên vượt lên trên các cực đoan của chủ nghĩa khắt khe, vốn không thể là đường đi của người Kitô hữu trung bình, và cả chủ nghĩa lỏng lẻo nữa, vốn không tương hợp với lời kêu gọi nên thánh của Chúa Kitô. Tìm ra con đường vượt lên trên các cực đoan vốn luôn là phương cách của Giáo Hội, phương cách biện phân, cẩn trọng và khôn ngoan, phương cách của lòng thương xót cụ thể.
Lòng thương xót từ bên dưới
Theo Đức HY Kasper, cách nhìn thông thường trong thần học là bắt đầu từ bên trên. Ta biết một tín lý hay một qui luật và ta bắt đầu từ đó để áp dụng nó vào thực tại cụ thể, một thực tại thường là phức tạp và đa diện. Lòng thương xót dẫn ta tới một cách nhìn khác, không bắt đầu từ bên trên mà bắt đầu từ bên dưới, xem sét một tình huống cụ thể để rồi áp dụng vào đó một luật lệ hay một qui định. Nhưng đây không phải là đạo đức học hoàn cảnh, vì qui luật có giá trị trong chính nó và không do hoàn cảnh tạo ra. Đây chính là phương pháp của Thánh Inhaxiô Thành Loyola trong các bài linh thao của ngài; đây là lối Đức GH Phanxicô, một tu sĩ Dòng Tên thuần thành, thực hành nó. Ngài khởi đi từ một tình huống, một hoàn cảnh, rồi sử dụng sự biện phân các thần khí.
Đức HY Kasper quả quyết rằng: Chúa Giêsu cũng chỉ cho ta cùng một phương thức ấy. Khi được hỏi: “ai là người lân cận của tôi?”, Người không đưa ra một câu trả lời trừu tượng. Người kể một câu truyện cụ thể, câu truyện về người Samaritanô nhân hậu, tốt bụng (Lc 10:30-37): “có một người, trên đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, rơi vào tay bọn cướp”. Một linh mục đi qua con đường ấy, thấy ông ta, nhưng bước sang phía khác tiếp tục đi. Cũng thế, một thầy Lêvi thấy ông ta nhưng theo phía kia tiếp tục bước. Nhưng khi một người Samaria đi qua, thấy người này, bèn động lòng thương. Ông cúi xuống, rửa và băng bó vết thương cho ông ta. Kể xong, Chúa Giêsu hỏi vị thầy Do Thái Giáo: “Người nào trong ba người này biến mình thành hàng xóm của người bị rơi vào tay bọn cướp?”. Câu trả lời rất đúng: “người thương xót ông ta”. Và Chúa Giêsu bảo: “thầy hãy đi và làm như thế”.
Thiên Chúa xử với ta y hệt như thế. Người cúi xuống để nâng ta dậy; để an ủi ta và chữa lành các vết thương của ta; và để ban cho ta cơ hội mới, thông ban cho ta sự sống mới, hy vọng mới. Và ai là người chính trực đến nỗi dám tự nghĩ là mình không cần tới lòng thương xót như thế? Lòng thương xót chính là tên của Thiên Chúa chúng ta. Lòng thương xót là lời mời gọi ta trở nên một con người nhân bản, cùng cảm nhận với những con người nhân bản khác đang đau khổ và thấy mình thiếu thốn. Lòng thương xót là lời mời gọi ta trở nên một Kitô hữu thực sự, dám theo gương Chúa Kitô và gặp gỡ Chúa Kitô trong các anh chị em đau khổ của mình. Lòng thương xót là yếu tính của Tin Mừng và là chìa khóa mở ra cuộc sống Kitô Giáo. Lòng thương xót là tin mừng nhất và đẹp nhất ta từng được kể và ta nên đem tới cho thế giới. Thiên Chúa, vì lòng thương xót, luôn ban cho ta cơ hội mới, tương lai mới thế nào thì lòng thương xót của ta cũng đem lại tương lai cho người khác, và cho thế giới, một thế giới đang hết sức cần tới nó như thế.
Phải nói, những dòng trên là những dòng tuyệt vời nói về lòng thương xót. Khó có ngòi bút nào nói hay hơn. Chỉ có điều, xem ra Đức Hồng Y chỉ biết đề cao lòng thương xót đến làm lu mờ các yếu tố khác, nhất là đức công bình của Thiên Chúa. Ngài có nói tới nó, nhưng không nói tới nó cách ngọn ngành. Thí dụ lòng ăn năn chẳng hạn, ngài bất cập rõ rệt khi nói tới nó. Ăn năn đòi người ta phải “đừng phạm tội nữa”. Đó chính là lời của Chúa Giêsu thương xót.
Người ta sợ rằng nhận định của ngài về Năm Thương Xót, coi nó như “một dấu chỉ thời đại” cũng chỉ bao hàm lòng thương xót “một chiều”: chiều “tôi cũng không kết án chị” mà quên đi chiều “đừng phạm tội nữa”.