CHUYỆN TÂN NIÊN



Năm ngoái khi viết về tết Con Gà, tôi nghĩ rằng chỉ có gà là đề tài nhiều chuyện. Nhưng không đúng như thế. Năm nay viết về Chú Gâu Gâu, tôi thấy còn nhiều chuyện gấp trăm lần. Chứng cớ là trước tết tôi đã viết miên man về chó, tết đến tôi miên man hơn nữa. Nay tết đã qua, chú gâu gâu vẫn còn đầy trong đầu.

Mà chẳng riêng gì dân Việt mình mới nhiều chuyện chó. Phe Canada da trắng ở đây cũng nhiều lắm. Xin kể một chuyện điển hình vừa xảy ra ở đây, còn nóng hổi, chuyện Bà dân biểu Olivia Chow. Canada mới bầu lại quốc hội vào ngày 23 tháng I vừa qua, các cụ ạ. Đảng Tự Do sau 12 năm cầm quyền đã thất cử. Đảng Bảo Thủ lên thay. Chiến dịch vận động tranh cử đã diễn ra ác liệt. Vì Bà Olivia Chow là một nhân vật nổi tiếng nên phe đối thủ đã chơi đòn độc. Họ cho đăng hình đối thủ lên báo. Phần trên là hình bà Olivia, phần dưới là hình con chó Chowchow với lời chú thích : ‘separated at birth’ ! nghĩa là bà Chow cùng một gốc chó. Thế này thì bậy qúa. Bộ chỉ huy tranh cử của Đảng Tự Do thấy mình quá đà bèn lên tiếng xin lỗi và cách chức vị trưởng ban. Ví người đẹp ngang hàng với chó mà chỉ bị kỷ luật sơ sơ thì phải nhận nền tự do báo chí ở Canada là số một.

Còn kho tàng về chó VN ư, ôi thôi nhiều qúa sức. Tôi nhớ hồi ông Tố Hữu cháu nội Cụ Xít Ta Lin mới chết, báo chí có đăng một bài điếu văn khóc ông với lời kết thế này : “Sống là cho và chết cũng là cho”, ngụ ý đề cao cả cuộc đời Tố Hữu toàn là những việc vị tha, sống và chết toàn là cho dân tộc. Ấy thế mà, ngay sau đó, bọn xấu dám rì rầm với nhau : cái anh đọc điếu văn đó chơi chữ đấy. Hắn có ý xỏ xiên bảo cả cuộc đời Tố Hữu là chó, sống là chó và chết cũng là chó ! Hắn giả vờ quên dấu sắc ở chữ chó. Thế này thì láo qúa. Chắc đây là âm mưu bọn CIA chứ chẳng chơi.

Và gần đây, tôi đọc trên Internet thấy ông Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt làm câu đối tết

Gặp cúm gia cầm, gà biệt xứ

Đến thời lục súc, chó lên ngôi.

Kinh qúa. Xưa nay dân gian vẫn hiểu ngôi đây là ngôi vua, vị đứng đầu nước. Vậy hoá ra ông Hà Sĩ Phu dám bảo lãnh tụ ở Hà Nội là chó à ? Chẳng lẽ cũng mưu CIA nữa sao ? Mà chưa hết, cái ông Hà Sĩ Phu này còn gớm lắm. Ông ta ra một câu thách đối : “ Năm khuyển vừa khuyên vừa hỏi ”. Ông khuyên và hỏi ai, ông khuyên và hỏi cái gì ?

Nhìn về xưa một chút ta thấy cụ Nguyễn Vỹ than rằng : “ nhà văn An Nam khổ như chó !” Chó của cụ Vỹ là chó VN, chứ không phải chó Bắc Mỹ nha. Chó Bắc Mỹ có khổ bao giờ đâu. Nó được xếp hạng trên phe liền ông cơ mà. Chỉ riêng thành phố tôi đang ở có biết bao nhiêu là cơ quan phục vụ Chú Tuất, nào văn phòng thú y, nào bệnh viện, nào mỹ viện, tất cả đều cho chú.

Lại cũng gần đây, trên nhật báo 24 Hours ở Toronto số ra ngày 12.12.2005, bà Patricia Simonet, một bác sĩ tâm lý trị liệu cho chó đã phán rằng, con chó tung tăng đi bộ với chủ, khi thấy nó thè lưỡi ra thì ta tưởng là nó thở, không phải vậy đâu, con chó đang mỉm cười sung sướng đấy ! Bây giờ tôi mới nghe nói chó Bắc Mỹ biết cười. Xưa nay tôi chỉ có biết chuyện con chó đá VN cười mà thôi. Chuyện này tôi đã kể trong bài Tết vừa qua, chắc các cụ còn nhớ.

Ông bạn H.O. nghe tôi nói đến đây liền kể ngay một chuyện về đề tài cười, không phải chó cười mà là người cười. Ông bảo phải cho ông nói ngay khi nó còn nóng. Ông xin kể cái cười ông vừa chứng kiến trên xe bus, cái cười rất đặc biệt. Rằng ngồi đối diện với ông là một anh xồn xồn. Thấy anh này có cái cười khó hiểu nên ông tò mò quan sát. Tôi thấy anh ta cầm tờ báo mà cầm ngược. Tôi tưởng anh này mù chữ mà có ý lấy le với một người đẹp nào ngồi ở xa chăng. Nhưng không phải. Anh ta cầm ngược, coi một lúc rồi xoay nghiêng tờ báo, rồi nghiêng nữa. Không biết anh này đọc cái báo gì và cái thứ chữ gì mà kỳ cục. Anh ta che kín tờ bìa nên tôi không biết tên báo. Mãi về sau tôi mới biết. Ố là là. Cái anh xồn xồn đó không mù chữ đâu. Anh này gớm lắm. Kể đến đây rồi ông H.O. đố chúng tôi cái anh kia đọc báo gì. Nghe câu đố thì ai cũng cho là vô lý, vì trên đời này làm gì có thứ chữ vừa đọc xuôi vừa đọc ngược vừa đọc nghiêng, tất cả đều được. Không ai nghĩ ra. Thấy mọi người im lặng như chịu thua thì anh đáp : Anh ta đọc báo Playboy đấy. Anh ta có đọc chữ đâu, anh ta đọc hình mà !

Chị Ba Biên Hoà nghe chúng tôi cười hề hề thì biết ngay chúng tôi đang nói về chuyện gì. Chị lên tiếng : sao bao giờ gặp nhau phe các ông cũng đều nói toàn gì đâu. Ông ODP đáp ngay : vì chúng ta đang sống trên cõi trần tục, chứ chúng ta có sống trên cõi tiên đâu ! Kìa xem cụ Nguyễn Khuyến ngày xưa đã khai bút đầu năm cũng gớm lắm, không phải ngôn ngữ cõi tiên tí nào :

... Một năm một tuổi trời cho tớ

Tuổi tớ trời cho tớ lại càng.

Sau chữ càng thì cụ chấm hết, cụ không nói rõ là càng cái gì. Chắc cụ theo gương tiền nhân ‘Càng già càng giẻo càng giai, càng long chân chõng, càng sai chân giường’. Có anh chàng kia chết xong thì gặp diêm vương. Diêm vương thấy anh ta còn trẻ và khoẻ mạnh thì hỏi : bây giờ nếu ta cho ngươi sống lại thì ngươi sẽ làm cái gì. Chàng tuổi trẻ liền đáp : ‘ Tôi sẽ làm như trước, nhưng sẽ sớm hơn, lẹ hơn, nhiều hơn, dữ dội hơn, hồ hởi hơn và lâu hơn‘. Chuyện cổ chỉ kể đến đó, mà không cho biết diêm vương phản ứng ra sao. Tôi đoán rằng cái anh chàng kia trả lời diêm vương như vậy là vì anh đã thuổng cái ý ‘lại càng’ trong bài khai bút của cụ Nguyễn Khuyến.

Trên đây là mấy câu chuyện lai rai đầu bữa ăn tân niên. Bữa này làng nhậu chúng tôi làm để tiễn ông Từ Hoè về miền tây. Phe liền ông chúng tôi thì thào với nhau trong khi phe các bà tíu tít trong bếp.

Lúc vào tiệc thì chúng tôi không nói chuyện '‘laị càng'’ mà toàn nói các chuyện tết thơm tho ngày xưa, cho phải phép, vì có mặt Cụ Chánh tiên chỉ và cụ B.95 trọng tuổi mà.

Sách nói rằng người gìa thường sống với qúa khứ. Quả đúng như vậy. Trong bữa ăn thì hai cụ chỉ nói tới những ngày hội ở đình làng, các trò chơi giữa trai gái làng, ngày trẩy hội Chùa Hương ngày xưa... Rồi hai cụ khen nức nở rằng người xưa cảnh xưa sao mà đẹp thế, thơ mộng thế. Như được mớm lời mớm ý, Ông Từ Hoè, Ông ODP và tôi, cả ba đều thuộc bài thơ Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, và thuộc cả bài thơ phổ nhạc của Trần Văn Khê nên cùng lên tiếng phụ họa ngay. Không ngờ cả ba chúng tôi, không ai bảo ai, lại chỉ nhắm vào cô gái trong bài thơ.

Cô gái Bắc Ky, 15 tuổi, đang chớm biết yêu, sao mà đẹp thế này :

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,

Em đeo dải yếm đào;

Quần lĩnh, áo the mới

Tay cầm nón quai thao

Mẹ cười : thầy nó trông,

Chân đi đôi dép cong,

Con tôi xinh xinh qúa

Bao giờ cô lấy chồng ?

Cụ Chánh cũng biết bài thơ nên cụ thêm ý : Cô ta đẹp như vậy, và thấy văn nhân tuổi trẻ tài cao như vậy nên cô ta mê ngay. Cuối bài thơ cô ao ước lấy được chàng. Quả là xứng đôi.

Nói chuyện ngày xưa, chuyện trẩy hội, chuyện các cô gái mặc yếm đào, đội nón quai thao thì đúng y Cụ B.95 qúa. Cụ hiểu hết. Biết đâu cô gái đi Chùa Hương trong bài thơ chẳng là cụ ? Cụ B.95 bảo : này các bác ạ, ao ước là một chuyện, có lấy được nhau không lại là chuyện khác. Có số hết.

Ông H.O. nghe đến đây thì có ý kiến ngay. Số mệnh là chuyện ngày xưa, bây giờ tuổi trẻ không tin vào số nữa, cụ ơi. Cụ B.95 không đồng ý như vậy. Cụ bảo lấy vợ lấy chồng là việc hệ trọng cả một đời, không phải việc chơi, nên do thiên mệnh hết. Rồi cụ hỏi : Thế các bác có biết chuyện ông quan lấy cô ăn mày ngày xưa không ? Chuyện này thì không ai biết. Cụ kể ngay, kể một cách rất rành rẽ, như là một niềm tin đã ở trong tim.

Rằng có một thư sinh kia nghe ngoài chợ có ông thày tướng số nói đúng như thần nên đã ra tìm. Thư sinh hỏi thày tướng rằng về sau anh sẽ cưới ai. Ông thày xem mặt xem tay anh một chập rồi chỉ ngay cô bé ăn mày trong xó chợ : về sau anh sẽ lấy con bé kia làm vợ. Nghe xong thì chàng thư sinh giận ông thày lắm. Anh sắp đi thi, đường công danh sự nghiệp mở rộng thênh thang trước mặt, lẽ nào anh lại lấy con bé lọ lem ăn mày kia làm vợ ! Đêm đó anh nảy ra một ý : phải trừ hậu họa. Để cho con bé ăn mày đó không bao giờ có thể là vợ mình, anh lẻn ra chợ và tìm một hòn đá lớn đến đập vào đầu con bé cho nó chết luôn. Xong việc trừ hậu họa, anh tiếp tục dùi mài kinh sử. Ít năm sau anh đi thi. Và anh đỗ cao. Anh được làm quan. Rồi anh lấy vợ. Vợ anh là cô gái rất đẹp, con một đại quan trong miền. Hai vợ chồng sống rất hạnh phúc, giầu sang phú qúy. Một hôm, lúc cô vợ trẻ gội đầu, anh thấy trên đầu vợ có một vết thẹo lớn, liền hỏi. Cô vợ cứ thực kể lại, rằng ngày xưa thiếp mồ côi cha mẹ, không ai thân thuộc, thiếp phải đi ăn mày, và ngủ ở góc chợ. Một đêm kia, không biết tại sao có một tên điên, nó lấy hòn đá lớn đập vào đầu thiếp, máu chảy chan hòa, thiếp lăn ra bất tỉnh. Ai cũng tưởng thiếp chết. Quan huyện biết chuyện, động lòng thương, đem thiếp về thuốc thang. Vì không có con nên quan đã nhận thiếp làm con. Quan huyện đó chính là cha thiếp bây giờ.

Cụ Chánh nghe xong liền gật gù : ngày xưa lão có nghe chuyện ấy. Đúng là lấy vợ lấy chồng đều có số cả. Không ai chạy khỏi số. Cụ B.95 được Cụ Chánh tán thưởng ý kiến đó thì sung sướng qúa chừng. Hôm nay lại tiệc tân niên, lại có mặt ông Từ Hoè, cụ B.95 sung sướng hơn nữa. Cụ lại lên tiếng : Lão nhà quê nên chả đọc được báo chí, xin các bác nói về báo xuân báo tết vừa qua cho lão nghe với.

Ông Từ Hoè, thần tượng của Cụ, đáp lời ngay : Tôi xin tình nguyện làm việc này. Tôi ở miền tây, ít người Việt ít báo Việt, còn về Toronto này, những 100 ngàn dân Việt, nên tôi đã có dịp đọc các báo suốt tuần lễ Tết. Chao ôi là nhiều. Năm nay tết con Chó nên báo nào cũng đầy chó. Cơ man nào là chuyện. Giữa cái rừng chuyện chó này, tôi thích nhất cái bài ' ‘Nói tí chuyện con chó'’ của Đoàn Dự đăng trên tờ xuân Thời Báo. Tôi thích là vì những chuyện chó ông kể ra không trùng hợp với các chuyện khác, ngoài ra tôi biết được nhiều điều hay.

Chẳng hạn việc xảy ra cách đây 33 năm mà bây giờ tôi mới nghe. Đó là chuyện cô tài tử màn bạc Liz Taylor ôm con chó sang Hong Kong đóng phim năm 1972. Thời đó các hãng hàng không đều cấm mang thú vật lên máy bay, cho nên nhân viên máy bay từ chối không cho cô Taylor ôm chó vào máy bay, dù con chó bé tí xíu. Cô điều đình thế nào cũng không được. Sau cùng thì cô tài tử triệu phú Taylor đành bao luôn cả chuyến máy bay, cho mình cô và mình chú chó. Báo chí bên Mỹ chỉ loan tin có vậy thế mà dư luận đã ầm lên. Nhưng chuyện này có hồi hai, hồi hai mới sôi nổi và gay cấn, báo chí Mỹ không hề biết, chỉ có báo Hong Kong và báo VNCH biết mà thôi. Hồi hai như thế này : khi đóng phim xong thì cô tài tử Liz Taylor mời nam tài tử Richard Burton đi ăn cơm Tàu. Lúc nào cô cũng bế con chó. Bữa đó, bàn danh dự chỉ có 3 thực khách : Taylor, Burton và con chó. Khi kêu món ăn cho mình và Burton xong thì cô Taylor kêu món ăn cho con chó bé tí xíu. Hôm đó anh bồi bàn giỏi tiếng Anh vắng mặt, anh bồi bàn thay thế thì rất u ơ tiếng Mỹ. Cô Taylor nói một tràng, vừa chỉ con chó, vừa chỉ vào miệng mình, ra dấu rằng anh hãy nấu món gì đặc biệt và thiệt ngon cho con chó này ăn. Thấy cô Taylor chỉ vào miệng thì anh bồi bàn mắt sáng lên tỏ ra hiểu ngay. Anh vui vẻ bế con chó vào bếp. Lúc đó hình như là chị Taylor và anh Burton đã bắt đầu mê nhau. Khi anh chị ăn được nửa bữa, chị Taylor bèn quay ra hỏi anh bồi bàn đã nấu món ăn đặc biệt cho con chó của mình xong chưa, và ngỏ ý muốn xem món ăn và bế con chó. Anh bồi bàn bèn chạy ngay xuống bếp, lúc sau anh trịnh trong bưng lên một cái tô lớn, khói nghi ngút và thơm lừng. Thấy tô này một cái thì chị Taylor hét lên một tiếng và lăn ra bất tỉnh. Các cụ đã đoán ra sự cố gì chưa ? Thưa anh bồi bàn hiểu lầm ý của Taylor. Vì thấy Taylor chỉ vào miệng nên anh ta hiểu rằng Taylor muốn nhà bếp giết con chó này làm món cho cô ăn ! Nhà bếp đã làm thịt con chó rồi hầm với sâm và nhung. Chao ôi, thương cô chủ Taylor và con chó của cô qúa !

Chẳng hạn chuyện trước 1975 một nhà văn Mỹ sang thăm VNCH một tháng để tìm hứng viết tiểu thuyết. Anh được các bạn VN chiêu đãi trọng thể. Bao nhiêu món ngon VN đều đem ra thết anh. Thịt cá ê hề suốt một tháng. Trước khi nhà văn trở về Mỹ một ngày thì các ông bạn VN mới bàn nhau cho anh ta nhậu thịt chó, nhưng không dám nói là thịt chó mà nói là nai đồng quê. Nhựa mận, lòng dồi, chả chìa, chả nướng đem ra hết. Anh Mỹ nhậu rất tận tình và say đắm. Trên đường về khách sạn thì anh Mỹ hỏi rằng hồi xưa anh có ăn thịt nai ở Mỹ mà anh thấy hương vị khác xa thịt nai bữa nay, sao lạ vậy ? Các ông bạn VN bèn thú thật đó là thịt chó. Nghe xong, ông nhà văn Mỹ thất sắc rồi vò đầu bứt tai ôm mặt khóc hu hu. Các bạn VN tỏ vẻ ân hận vì đã đánh lừa anh. Họ yên ủi anh rằng chẳng phải chỉ người VN mới ăn thịt chó, mà người Tàu, người Đại Hàn đều ăn hết. Thịt chó rất bổ dưỡng. Anh nhà văn Mỹ lúc đó mới lên tiếng : Tôi tức và khóc là vì các bạn đã không hết lòng với tôi. Món thịt chó tôi vừa ăn ngon như thế, tại sao các bạn lại để vào ngày cuối cùng mới cho tôi ăn ? Tại sao lại không cho tôi ăn ngay từ đầu ? Phục ông Mỹ này qúa.

Tôi còn mê cái câu chúc trong phần kết bài. Đoàn Dự chúc mọi người năm mới giầu có bằng cách thu nhiều mà chi ít, hai câu thơ như thế này :

Tiền vào như nuớc sông Đà,

Tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin

Hình như cái ông nhà văn Đoàn Dự này còn ở VN. Ngày xưa ông viết cho tờ Tự Do với bút hiệu là Thái Phương thì phải. Thích ông qúa !

Bà Cụ B.95 lần đầu tiên nghe những chuyện như tiếu lâm xảy ra trong Nam trước 1975 thì thích vô cùng. Cụ chưa một lần đặt chân vào Miền Nam. Cụ đang hẹn với Chị Ba Biên Hòa mai này đổi đời, thế nào Cụ cũng theo chân Chị Ba về Miền Nam, sẽ tới thăm vườn trồng bưởi, sẽ đi thăm Núi Chứa Chan, sẽ thăm xóm làng của chị.

Sau bữa ăn, chúng tôi được ăn một món tráng miệng gốc Bắc Kỳ. Đó là bánh gai. Bánh này do chính cụ B.95 làm, một phần để cả làng thưởng thức, một phần gói lại làm qùa cho Ông Từ Hoè đem về tặng cho Chú Paul anh em kết nghĩa của ông. Ai cũng thắc mắc tại sao giữa mùa đông giá rét thế này mà cụ có được lá gai để làm bánh. Mấy ông gốc Bắc Kỳ đặc trong làng đều công nhận là đúng hương vị lá gai. Ấy thế mà không phải lá gai, mới hay chứ. Cụ B.95 quả là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Cụ bật mí : phải lá gai tươi trồng ở ngoài Bắc cơ, mới ngon. Vì không thể có được lá gai tươi Bắc Kỳ, cụ bèn chế. Cụ dùng vừng đen, ta quen gọi là mè đen, xay nhiễn rồi trộn với bột nếp. À há, mà được qúa. Mè lại nhiều chất bổ dưỡng hơn lá gai, mới hay nữa chứ. Rồi nhân bánh thì y chang truyền thống : đậu xanh tán nhuyễn trộn với đường, thêm vài sợi dừa, thêm chút mất bí. Gói bằng lá chuối. Lá chuối thì ở đây có ê hề. Nào ai ngờ xa quê hương đúng nửa vòng trái đất mà có đầy quê hương trên bàn ăn.

Lúc cả làng đang ăn bánh gai và nhâm nhi trà thì Chị Ba lên tiếng : Hôm nay, đầu một năm mới, xin các ông cho chúng tôi nghe một chuyện vui vui. Vị nào kể được thì tháng sau tôi sẽ làm một món đặc sản quê tôi để đãi chư vị.

Ông ODP nhận lời ngay. Ông nhập đề : Những chuyện hay và đặc biệt về con chó thì anh Từ Hoè đã nói hết rồi. Tết này tôi cũng đọc nhiều báo xuân lắm, ngoài chuyện chó, tôi còn thích một bài luận về ‘'lợi ích của việc có vợ'’. Bài này hoàn toàn không có mùi tục lụy. Tôi không thấy báo ghi tác giả. Bài luận như sau :

- Vợ dạy cho ta biết phục thiện, sẵn sàng nhận

lỗi tuy mình không làm cái lỗi đó.

Vợ dạy cho ta tính kiên nhẫn, chờ đợi mà không thở dài, khi chở vợ đi chùa hay đi shopping.

Vợ cho ta sức khoẻ khi cấm ta hút thuốc, uống rượu, đi chơi khuya.

Vợ dạy cho ta sự lễ phép khi đi thưa về trình.

Vợ dạy cho ta sự rộng rãi khi trao hết tiền lương cho vơ.

Vợ là huấn luyện viên thể dục tại gia giỏi số một khi giao cho ta cắt cỏ, làm vườn, lau nhà, lau xe, đổ rác.

Vợ dạy cho ta sự ngay thẳng, ra đường không liếc ngang liếc dọc.

Vợ giúp ta trở thành người cha gương mẫu khi nhờ ta thay tã, tắm cho con, pha sữa, ru con ngủ.

Vợ dạy cho ta biết phấn đấu với nghịch cảnh, dù muốn chết cũng cứ phải sống.

Phe liền ông nghe xong thì vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, còn phe các bà thì không vỗ tay nhưng bảo các ông phải cám ơn các bà vì đã làm cho các ông bao nhiêu điều tốt lành như thế đấy.

Nghe xong bài của ông ODP, Cụ B.95 lại quay ngay vào anh John. Anh John này bản chất thông minh nên không đợi cụ già Bắc Kỳ hỏi, anh đã phát biểu ngay : Tôi xin kể chuyện văn chương, Tôi đã kể cho vợ tôi nghe hôm qua và được vợ khen là hay, nhưng khuyên tôi là không nên phổ biến. Nay thấy cụ B.95 tha thiết quá nên xin phép vợ, nói ra đây.

Rằng trong tiếng Pháp, mạo từ chỉ phái tính là chữ LE chỉ phái nam, và LA chỉ phái nữ. Người Pháp được tiếng là nịnh đầm, luôn luôn ca tụng phái đẹp, thế nhưng ngôn ngữ của họ đã không theo cái truyền thống đáng qúy ấy. Những cái gì tốt đẹp thì toàn có mạo từ giống đực LE đứng trước, như

LE soleil : mặt trời,

LE printemps : mùa xuân,

LE paradis : thiên đàng,

LE mariage : hôn nhân,

LE régal : yến tiệc.

Còn những gì dữ và xấu thì mạo từ giống cái LA đi trước, như

LA pluie : cơn mưa,

LA neige : tuyết lạnh,

LA saleté : sự dơ dáy,

LA famine : nạn đói,

LA tempête : phong ba bão táp...

Phe các bà nghe đến đây thì xí một tiếng rất lớn và không thèm nghe nữa. Riêng Cụ Chánh, cụ cũng kể về việc đọc báo tết. Cụ không nói gì về chó cả. Cụ là bậc trưởng thượng, tiên chỉ mà. Cụ bảo rằng mỗi lần tết đến thì cụ nhớ quê hương vô cùng, hết nhớ sinh quán ngoài Bắc rồi nhớ nơi lập nghiệp trong Nam. Cụ bảo cụ thích nhất hai câu thơ này đăng trong báo Hội Cao Niên Ottawa :

Đất khách muôn trùng, sao nhỏ hẹp

Quê nhà một góc, nhớ mênh mông

Lời cụ Chánh, lời thơ đã làm cả làng tôi xúc động, các cụ ạ.