Chúa Nhật XII TN B
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảmhơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi haychất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà ngườichất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyênchế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân.Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người tachất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.
Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữubài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi làchúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biểncả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóngto ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những taiương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữđối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏiThiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đềliên quan đến sự dữ?
Trước vấn nạn sự dữ thì dường như khôngchỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫncó đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này,sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sànhkhông thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếpthụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạnvật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấytay che miệng”(x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói”(x.G 42,6).
Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn cóvẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước.Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra.Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Ngườita bảo Con Người là ai?...Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Cáctông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi,chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khicon đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con ngườiphải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Saocon làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chútgì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơtrong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lờigiải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.
Điểm tới của những lời chất vấn là lòngtin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đãbiết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu.Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đứctin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềmtin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôntrơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản,có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chấtvấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vậtcản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trởthành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.
Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đãthấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tớiđộ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng tacần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với nhữngxác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầucho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhậnnhững ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa”(x.Phần I - trang 31).
Chúa Kitô không ngần ngại trước những lờichất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căntính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiềungười được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằngmình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúnglại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấnniềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùngchất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đứctin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạnthì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đươngnhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳngđịnh Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x.Ga 15,15).
Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đếntận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau nàychúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy nhưvậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn cònđó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềmtin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đangở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhânđặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chấtvấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đềthật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bảnthân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đólà người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngàiHồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực:“Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho conngười vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối chođời – trang 43).
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảmhơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi haychất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà ngườichất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyênchế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân.Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người tachất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.
Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữubài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi làchúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biểncả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóngto ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những taiương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữđối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏiThiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đềliên quan đến sự dữ?
Trước vấn nạn sự dữ thì dường như khôngchỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫncó đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này,sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sànhkhông thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếpthụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạnvật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấytay che miệng”(x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói”(x.G 42,6).
Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn cóvẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước.Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra.Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Ngườita bảo Con Người là ai?...Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Cáctông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi,chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khicon đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con ngườiphải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Saocon làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chútgì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơtrong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lờigiải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.
Điểm tới của những lời chất vấn là lòngtin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đãbiết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu.Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đứctin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềmtin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôntrơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản,có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chấtvấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vậtcản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trởthành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.
Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đãthấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tớiđộ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng tacần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với nhữngxác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầucho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhậnnhững ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa”(x.Phần I - trang 31).
Chúa Kitô không ngần ngại trước những lờichất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căntính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiềungười được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằngmình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúnglại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấnniềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùngchất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đứctin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạnthì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đươngnhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳngđịnh Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x.Ga 15,15).
Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đếntận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau nàychúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy nhưvậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn cònđó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềmtin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đangở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhânđặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chấtvấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đềthật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bảnthân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đólà người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngàiHồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực:“Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho conngười vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối chođời – trang 43).