Mù mờ diễn tả hoàn cảnh không nhìn thấy gì hoặc nhìn không rõ, hình ảnh mờ mờ, ảo ảo. Đức Kitô mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh nhìn thấy ánh sáng. Mở mắt sáng cho anh, Đức Kitô cho biết không phải do tội mà là nguyên nào khác gây nên, làm cho em nhỏ bị tật bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Ngài. Chính em hay cha mẹ em phạm tội khiến cho em bị tật mù bẩm sinh? Các môn đệ mắt sáng nhìn thấy điều trước mắt là người mù từ lúc mới sinh; Đức Kitô nhìn thấy điều các môn đệ không nhìn thấy khi Ngài hướng dẫn các ông hiểu thêm hơn về lòng Chúa xót thương nhân loại. Ngài nói với các ông:
Không phải em, cũng không phải cha mẹ em, nhưng qua bệnh tật của em lòng Chúa xót thương được sáng tỏ hơn (c.3).
Khi nói điều đó Đức Kitô còn cho biết công việc của Ngài và công việc của Chúa Cha là một. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Qua Ngài tình yêu và ân sủng Chúa đong đầy cho những tâm hồn chân thành đón nhận Ngài. Có rất nhiều giải thích về đau khổ, và giải thích nào xem ra cũng có vẻ thích hợp. Lời giải thích thích hợp thường thích hợp cho hoàn cảnh hiện tại, mà không thích hợp cho hoàn cảnh khác. Nó càng không phải là câu trả lời thích hợp cho mọi đau khổ. Đức Kitô không giải thích đau khổ từ đâu đến. Ngài cho biết đứng trước đau khổ, con người có chọn lựa. Hoặc tự quyết lấy hoặc nương tựa vào lòng Chúa xót thương. Những ai nương tựa vào lòng Chúa xót thương, họ đau khổ trong hy vọng, bởi có ơn Chúa trợ giúp. Những ai tự quyết họ đau khổ trong tuyệt vọng. Chối bỏ đau khổ, đau khổ càng tăng. Cho người mù mắt sáng Đức Kitô làm tròn điều tiên tri Isaiah tiên đoán nhiều năm trước về Ngài
'Mở mắt cho người mù, giải thoát kẻ bị giam cầm và những ai sống trong bóng tối sẽ nhìn thấy ánh sáng Is 42,7.
Dùng nước miếng trộn đất bùn chữa mắt người mù Đức Kitô nhắc công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trường hợp này được hiểu Đức Kitô ban cho anh một đời sống mới, tái tạo cuộc sống mới cho người mù. Thiên Chúa tạo dựng Ađam bằng đất. Ađam nhìn thấy Chúa trước khi nghe tiếng Ngài. Người mù Đức Kitô mở mắt sáng lại nghe được lời Đức Kitô trước khi xem thấy Ngài. Để được mắt sáng anh cần nghe theo lời Ngài hướng dẫn. Đi rửa tại hồ Siloam. Hành động đi và rửa tại hồ Siloam diễn tả một hành động trong bí tích Rửa Tội ngày nay Giáo Hội đang thực hiện. Hình ảnh nước cũng nhắc nhở điều Đức Kitô nói với người phụ nữ thành Samarita tại bờ giếng. Ngài là nước hằng sống.
Nhìn thấy sự thật, người mù trở thành nhân chứng cho sự thật, nhân chứng luôn bị cật vấn, nhân chứng cho Đức Kitô thường gặp chống đối, bắt bẻ bởi thế lực tối tăm. Chọn lối sống tối tăm là chọn sống trong bóng tối. Bóng tối luôn sợ ánh sáng và sống trong tối tăm thường nhìn sự vật mờ mờ, ảo ảo. Nhóm lãnh đạo Pharasiêu thẩm vấn người mù. Anh thành tâm đáp Đức Kitô cho anh mắt sáng, còn Ngài từ đâu đến thì anh không rõ. Câu trả lời thành thật và khiêm nhường kia hoàn toàn trái nghịch với thái độ kênh kiệu, ta đây, của nhà lãnh đạo. Họ tự nhận họ nhìn thấy nhưng thực ra họ không nhìn thấy. Họ tự nhận họ biết tất cả nhưng thực ra họ không biết nhiều như họ nghĩ họ biết. Mù mà biết mình mù thì đáng thương. Mờ mà không biết mình mờ thì đáng ngại bởi họ sẽ là nguyên nhân gây đau khổ cho người khác. Lãnh đạo Pharasiêu không nhận biết Đức Kitô là Thiên Chúa bởi tính tự kiêu, tự đại che mờ mắt họ. Họ không mù nhưng mờ. Điều này thể hiện rõ ràng khi họ kết án Đức Kitô là không tuân giữ luật ngày hưu lễ. Chính họ ngồi toà xét xử trong ngày hưu lễ thì sao? Có phạm luật chăng? Bởi mù mờ họ không nhìn thấy điều đó. Nhóm này ép buộc người mù vào phe cánh họ. Anh từ chối nên bị họ điệu đi điều tra, thẩm vấn nhiều lần đến độ anh phát cáu nói các ông muốn tin theo Đức Kitô thì đi theo Ngài, hỏi mãi làm chi. Họ đáp, anh mù vì tội của anh, còn chúng tôi vô tội. Không lôi cuốn được anh họ đuổi anh ra khỏi hội đường, và họ tiến đến áp đảo cha mẹ anh. Bởi không cảm nhận được lòng Chúa xót thương, hai ông bà sợ hãi chỉ dám xác nhận. Nó là con chúng tôi, bị mù từ bẩm sinh, còn làm sao nó mắt sáng thì nó lớn rồi, đi hỏi nó. Hai ông bà nói thế vì sợ bị trục xuất khỏi hội đường. Anh mù hoàn toàn tin tưởng vào Đức Kitô, anh dõng dạc tuyên bố, Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa bởi lòng xót thương Ngài diễn tả điều đó. Đến lúc này nhóm Pharasiêu chia rẽ trong bọn. Người thì hỗ trợ, cổ võ, điều anh mù xác định Đức Kitô đến từ Thiên Chúa; số còn lại kết án Đức Kitô là kẻ tội lỗi vì vi phạm luật ngày hưu lễ. Được sáng mắt, cuộc sống anh mù vẫn không hết khó khăn. Khi còn mù, đi ăn xin, người ta coi thường anh. Giờ mắt sáng, anh trở thành tâm điểm của điều tra, thẩm vấn. Bị điều tra thẩm vấn, anh không sợ bởi đây là cơ hội cho anh nói lên sự thật, nói điều anh thầm nghĩ bấy lâu mà không có ai nghe, không ai để í, nay điều anh nói được mọi người nghe, mọi người để í vì thế anh lớn tiếng nói lên sự thật về Đức Kitô. Dù gặp khó khăn, đau khổ, anh vững tâm làm chứng cho Ngài. Đức Kitô biết anh bị trục xuất khỏi hội đường, Ngài đến gặp anh, hỏi han. Anh xin Ngài cho anh biết Ngài là ai? Đức Kitô cho biết Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Anh mù đón nhận Ngài, tin theo và tôn thờ Con Thiên Chúa hằng sống.
TiengChuong.org
Sight and blindness
The healing of the man born blind affirms that Jesus is the light for the world. In healing the man blind from birth, Jesus wanted to change a strong belief. He knew it is something else, not sin, that causes a baby's health deficiency from birth. His apostles raised the question, whose sin was it the man himself or his parents, that caused him to be blind? Jesus corrected them by telling them, that it is neither his own sin nor his parents' sin, but it is through his sickness that Jesus shows God's love, and glory to the world. (v. 3). Jesus' work and that of his Father are inseparable. He is the light for the world, and through him God's love and mercy enlighten those who have faith in him. Human beings suffer, and the exact cause is hard to identify. Jesus gives no answer for human suffering, but showed that those who turn to God, will have hope in their suffering. God is in their midst, drawing them closer to Himself. Denying the reality of our suffering makes the problem worse, but recognizing it, and asking for God's grace to endure it, works best. In giving sight to the blind man, Jesus fulfilled what the prophet Isaiah prophesied about Him.
To open the eyes of the blind, to free captives from prison, and those who live in darkness from the dungeon. Is. 42,7
Using His saliva and clay to heal the blind man, Jesus reminds us of how the first human being was made. In this context, Jesus reshaped the blind man's life. He heard Jesus before seeing Him. Jesus touched him and healed him. Jesus commanded him to wash himself at the pool of Siloam. The act of going into and emerging from the water is a part of our baptism ceremony. It also reminds us of the power of the living water Jesus gave to the Samaritan at the well.
When the Pharisees questioned him, the blind man became a bold witness for Jesus. He knew Jesus healed him, but had a very vague idea who Jesus was. The man was humble and honest in contrast to his interrogators, who claimed to see but actually could not see; to know but really they did not know. It was not their eyes' sight that failed them in seeing Jesus, but their arrogance failed them. They were unable to recognize Jesus, the Messiah. Having sight from Jesus the blind man was in the spot light, confronted by the authorities. The Pharisees charged Jesus for breaking the Sabbath laws. They failed to know, that they themselves had broken the Sabbath laws by interrogating and judging the man. They failed to make the man take their side; they drove him out of their community. They then went on to see his parents. The man's parents were afraid of being driven out of the community. They confirmed the blind man was their own son, but how, and who gave him sight they said they didn't know. They refused to get involved, citing he was old enough to handle the case himself.
The blind man first identified Jesus as the prophet, and then confessed, Jesus came from God. He challenged the Pharisees and then factions happened. Some believed the man's testimony that Jesus came from God; others opposed. The man himself was being truthful, and consistent during his trial, that Jesus gave him sight and His healing power came from God. Jesus, learning that he had been driven out of the synagogue, found the man and welcomed him into the community of believers. The man confessed he believed that Jesus is the 'Son of Man' and worshipped Him.
Không phải em, cũng không phải cha mẹ em, nhưng qua bệnh tật của em lòng Chúa xót thương được sáng tỏ hơn (c.3).
Khi nói điều đó Đức Kitô còn cho biết công việc của Ngài và công việc của Chúa Cha là một. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Qua Ngài tình yêu và ân sủng Chúa đong đầy cho những tâm hồn chân thành đón nhận Ngài. Có rất nhiều giải thích về đau khổ, và giải thích nào xem ra cũng có vẻ thích hợp. Lời giải thích thích hợp thường thích hợp cho hoàn cảnh hiện tại, mà không thích hợp cho hoàn cảnh khác. Nó càng không phải là câu trả lời thích hợp cho mọi đau khổ. Đức Kitô không giải thích đau khổ từ đâu đến. Ngài cho biết đứng trước đau khổ, con người có chọn lựa. Hoặc tự quyết lấy hoặc nương tựa vào lòng Chúa xót thương. Những ai nương tựa vào lòng Chúa xót thương, họ đau khổ trong hy vọng, bởi có ơn Chúa trợ giúp. Những ai tự quyết họ đau khổ trong tuyệt vọng. Chối bỏ đau khổ, đau khổ càng tăng. Cho người mù mắt sáng Đức Kitô làm tròn điều tiên tri Isaiah tiên đoán nhiều năm trước về Ngài
'Mở mắt cho người mù, giải thoát kẻ bị giam cầm và những ai sống trong bóng tối sẽ nhìn thấy ánh sáng Is 42,7.
Dùng nước miếng trộn đất bùn chữa mắt người mù Đức Kitô nhắc công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trường hợp này được hiểu Đức Kitô ban cho anh một đời sống mới, tái tạo cuộc sống mới cho người mù. Thiên Chúa tạo dựng Ađam bằng đất. Ađam nhìn thấy Chúa trước khi nghe tiếng Ngài. Người mù Đức Kitô mở mắt sáng lại nghe được lời Đức Kitô trước khi xem thấy Ngài. Để được mắt sáng anh cần nghe theo lời Ngài hướng dẫn. Đi rửa tại hồ Siloam. Hành động đi và rửa tại hồ Siloam diễn tả một hành động trong bí tích Rửa Tội ngày nay Giáo Hội đang thực hiện. Hình ảnh nước cũng nhắc nhở điều Đức Kitô nói với người phụ nữ thành Samarita tại bờ giếng. Ngài là nước hằng sống.
Nhìn thấy sự thật, người mù trở thành nhân chứng cho sự thật, nhân chứng luôn bị cật vấn, nhân chứng cho Đức Kitô thường gặp chống đối, bắt bẻ bởi thế lực tối tăm. Chọn lối sống tối tăm là chọn sống trong bóng tối. Bóng tối luôn sợ ánh sáng và sống trong tối tăm thường nhìn sự vật mờ mờ, ảo ảo. Nhóm lãnh đạo Pharasiêu thẩm vấn người mù. Anh thành tâm đáp Đức Kitô cho anh mắt sáng, còn Ngài từ đâu đến thì anh không rõ. Câu trả lời thành thật và khiêm nhường kia hoàn toàn trái nghịch với thái độ kênh kiệu, ta đây, của nhà lãnh đạo. Họ tự nhận họ nhìn thấy nhưng thực ra họ không nhìn thấy. Họ tự nhận họ biết tất cả nhưng thực ra họ không biết nhiều như họ nghĩ họ biết. Mù mà biết mình mù thì đáng thương. Mờ mà không biết mình mờ thì đáng ngại bởi họ sẽ là nguyên nhân gây đau khổ cho người khác. Lãnh đạo Pharasiêu không nhận biết Đức Kitô là Thiên Chúa bởi tính tự kiêu, tự đại che mờ mắt họ. Họ không mù nhưng mờ. Điều này thể hiện rõ ràng khi họ kết án Đức Kitô là không tuân giữ luật ngày hưu lễ. Chính họ ngồi toà xét xử trong ngày hưu lễ thì sao? Có phạm luật chăng? Bởi mù mờ họ không nhìn thấy điều đó. Nhóm này ép buộc người mù vào phe cánh họ. Anh từ chối nên bị họ điệu đi điều tra, thẩm vấn nhiều lần đến độ anh phát cáu nói các ông muốn tin theo Đức Kitô thì đi theo Ngài, hỏi mãi làm chi. Họ đáp, anh mù vì tội của anh, còn chúng tôi vô tội. Không lôi cuốn được anh họ đuổi anh ra khỏi hội đường, và họ tiến đến áp đảo cha mẹ anh. Bởi không cảm nhận được lòng Chúa xót thương, hai ông bà sợ hãi chỉ dám xác nhận. Nó là con chúng tôi, bị mù từ bẩm sinh, còn làm sao nó mắt sáng thì nó lớn rồi, đi hỏi nó. Hai ông bà nói thế vì sợ bị trục xuất khỏi hội đường. Anh mù hoàn toàn tin tưởng vào Đức Kitô, anh dõng dạc tuyên bố, Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa bởi lòng xót thương Ngài diễn tả điều đó. Đến lúc này nhóm Pharasiêu chia rẽ trong bọn. Người thì hỗ trợ, cổ võ, điều anh mù xác định Đức Kitô đến từ Thiên Chúa; số còn lại kết án Đức Kitô là kẻ tội lỗi vì vi phạm luật ngày hưu lễ. Được sáng mắt, cuộc sống anh mù vẫn không hết khó khăn. Khi còn mù, đi ăn xin, người ta coi thường anh. Giờ mắt sáng, anh trở thành tâm điểm của điều tra, thẩm vấn. Bị điều tra thẩm vấn, anh không sợ bởi đây là cơ hội cho anh nói lên sự thật, nói điều anh thầm nghĩ bấy lâu mà không có ai nghe, không ai để í, nay điều anh nói được mọi người nghe, mọi người để í vì thế anh lớn tiếng nói lên sự thật về Đức Kitô. Dù gặp khó khăn, đau khổ, anh vững tâm làm chứng cho Ngài. Đức Kitô biết anh bị trục xuất khỏi hội đường, Ngài đến gặp anh, hỏi han. Anh xin Ngài cho anh biết Ngài là ai? Đức Kitô cho biết Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Anh mù đón nhận Ngài, tin theo và tôn thờ Con Thiên Chúa hằng sống.
TiengChuong.org
Sight and blindness
The healing of the man born blind affirms that Jesus is the light for the world. In healing the man blind from birth, Jesus wanted to change a strong belief. He knew it is something else, not sin, that causes a baby's health deficiency from birth. His apostles raised the question, whose sin was it the man himself or his parents, that caused him to be blind? Jesus corrected them by telling them, that it is neither his own sin nor his parents' sin, but it is through his sickness that Jesus shows God's love, and glory to the world. (v. 3). Jesus' work and that of his Father are inseparable. He is the light for the world, and through him God's love and mercy enlighten those who have faith in him. Human beings suffer, and the exact cause is hard to identify. Jesus gives no answer for human suffering, but showed that those who turn to God, will have hope in their suffering. God is in their midst, drawing them closer to Himself. Denying the reality of our suffering makes the problem worse, but recognizing it, and asking for God's grace to endure it, works best. In giving sight to the blind man, Jesus fulfilled what the prophet Isaiah prophesied about Him.
To open the eyes of the blind, to free captives from prison, and those who live in darkness from the dungeon. Is. 42,7
Using His saliva and clay to heal the blind man, Jesus reminds us of how the first human being was made. In this context, Jesus reshaped the blind man's life. He heard Jesus before seeing Him. Jesus touched him and healed him. Jesus commanded him to wash himself at the pool of Siloam. The act of going into and emerging from the water is a part of our baptism ceremony. It also reminds us of the power of the living water Jesus gave to the Samaritan at the well.
When the Pharisees questioned him, the blind man became a bold witness for Jesus. He knew Jesus healed him, but had a very vague idea who Jesus was. The man was humble and honest in contrast to his interrogators, who claimed to see but actually could not see; to know but really they did not know. It was not their eyes' sight that failed them in seeing Jesus, but their arrogance failed them. They were unable to recognize Jesus, the Messiah. Having sight from Jesus the blind man was in the spot light, confronted by the authorities. The Pharisees charged Jesus for breaking the Sabbath laws. They failed to know, that they themselves had broken the Sabbath laws by interrogating and judging the man. They failed to make the man take their side; they drove him out of their community. They then went on to see his parents. The man's parents were afraid of being driven out of the community. They confirmed the blind man was their own son, but how, and who gave him sight they said they didn't know. They refused to get involved, citing he was old enough to handle the case himself.
The blind man first identified Jesus as the prophet, and then confessed, Jesus came from God. He challenged the Pharisees and then factions happened. Some believed the man's testimony that Jesus came from God; others opposed. The man himself was being truthful, and consistent during his trial, that Jesus gave him sight and His healing power came from God. Jesus, learning that he had been driven out of the synagogue, found the man and welcomed him into the community of believers. The man confessed he believed that Jesus is the 'Son of Man' and worshipped Him.