Kéo nước từ giếng sâu là việc làm khó nhọc, gánh nước leo đồi về nhà càng vất vả hơn, nhất là gánh vác vào buổi trưa hè. Giếng đầu làng là nơi thu nhập và truyền bá tin tức trong ngày. Thời gian người ta chờ nhau kéo nước cũng là lúc tin tức trong làng được truyền miệng. Người phụ nữ thành Samarita đi kéo nước vào buổi trưa vì lúc đó vắng người. Bà hy vọng tránh không bị lôi kéo vào sinh hoạt đó. Bà cũng hy vọng không có ai ở đó. Ngạc nhiên thay, ba thấy Đức Kitô đang ngồi bờ giếng từ lúc nào, và Ngài xin bà nước uống. Việc Đức Kitô xin bà nước uống cho biết Ngài không đồng í với luật lệ trọng nam, khinh nữ và coi thường dân ngoại thời đó. Theo luật, đàn ông không được nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Do Thái giáo không nhờ vả dân ngoại. Xin nước uống người phụ nữ dân ngoại là điều cấm kị. Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và người phụ nữ tiến triển qua ba giai đoạn. Đức Kitô mổ đầu, xin nước uống cho đỡ khát; tiếp đến người phụ nữ chân thành xác nhận những gì Đức Kitô biết về quá khứ bà đều đúng, và cuối cùng bà trở thành môn đệ Đức Kitô. Bà rất ngạc nhiên khi Đức Kitô xin bà nước uống vì đó là điều tối kị. Đức Kitô cho biết nếu bà biết Ngài là ai thì chính bà xin Ngài ban cho nước uống, chứ không phải Ngài xin bà. Điều này gây thắc mắc hơn nữa, bởi giếng nước sâu, Ngài không có gầu múc nước làm sao có thể lấy được nuớc. Đức Kitô cho biết nước Ngài ban là nước hằng sống, không bao giờ cạn. Dù không hiểu bà cũng xin Ngài ban cho nước không hề cạn. Đức Kitô nói với bà, hãy về gọi chồng bà ra đây. Bà tự thú bà không có chồng. Câu tiếp theo khiến nhiều học giả Kinh Thánh giải thích người phụ nữ thay đổi niềm tin như thay áo, bà đã phục vụ năm bảy vị thần khác nhau và không hài lòng với vị thần nào, ngay cả vị thần bà đang tôn kính. Số học giả khác không đồng í với giải thích trên. Tuy nhiên không ai có thể chối cãi một thực tế là Đức Kitô không hề kết án, cũng như nhắc đến tội của bà.

Ngay sau khi bà xác định bà không có chồng, câu chuyện đổi sang việc thờ phượng. Đức Kitô hướng dẫn bà về cách thờ kính Thiên Chúa. Không phải cách hay nơi thờ phượng, hay núi thánh mà là tâm tình thờ phượng phải chatn thành. Việc thờ phượng Thiên Chúa chính đáng nhất là tôn thờ với tất cả tấm lòng và trong sự thật. Vì hướng dẫn trên mà học giả Kinh Thánh giải thích chữ 'chồng' ở đây không đồng nghĩa như nghĩa thông thường xã hội dùng. Người phụ nữ đón nhận giải thích về cách tôn thờ chính đáng Đức Kitô đưa ra. Bà cũng cho biết cách thờ phượng đó chỉ một mình Đấng Messiah hướng dẫn khi Ngài đến. Đức Kitô nói với bà chính Ngài là Đấng Messiah. Đúng lúc đó thì các môn đệ Đức Kitô đi mua ăn trưa trở về và cuộc đối thoại bị gián đoạn. Cuộc đối thoại biến sang giai đoạn ba, giữa Đức Kitô và đám đông dân làng. Người phụ nữ về làng thông báo cho mọi người biết tại bờ giếng bà gặp một vị xem ra vị này là Đấng Cứu Thế bởi Ngài có thể nói những việc thầm kín quá khứ đời bà. Vì niềm tin phóng khoáng, đổi thần, thay thánh, của bà mà nhiều người không tin lời bà nói. Ngạc nhiên thay, lần này người ta tin và họ kéo nhau ra giếng gặp Đức Kitô. Sau khi nghe Đức Kitô, họ tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Đám đông nói với bà. Chúng tôi tin Ngài là Đấng Cứu thế không phải do lời bà loan báo mà chính mắt chúng tôi đã thấy, tai chúng tôi đã nghe Ngài giải thích, và chúng tôi tin. Dù giải cuộc sống bà thích thế nào chăng nữa, bà chính là người loan báo Tin Mừng cho dân làng, và những điều bà loan báo minh xác sự thật- Đức Kitô là Đấng Cứu Thế.

Người phụ nữ tin vào Đức Kitô vì bà chân thành lắng nghe, cởi mở cõi lòng và bà khẩn khoản xin Đức Kitô ban cho nước hằng sống. Bà không hiểu rõ nước hằng sống là gì? Điều này cho biết tin theo Đức Kitô không phải có các câu trả lời cho thắc mắc về đức tin, mà chính là yêu mến Ngài. Tin theo Đức Kitô giúp thoả mãn khát khao của tâm hồn, giúp con tim tìm được bình an ngay trong cảnh hỗn loạn, và giúp sống trong hy vọng. Với bà, ơn không ngoan Đức Kitô trao cho dư thừa, không cần phải tìm nguồn khôn ngoan nào khác.

TiengChuong.org

Everlasting water

Drawing water from a well is hard work, and carrying it up hill, under the heat, is even more challenging. A village well is a hub of information. News from all over the place came in and out would be shared by people, who came to draw water. A Samaritan woman came to draw water at noon to avoid the crowd. She expected a quiet time, but to her surprise, Jesus was there. By asking the woman for water to drink, Jesus demonstrated his rejection of Judaism's customs and male superiority, that it was improper for a man to talk to a woman in public; worse even, when a man asked for hospitality from a woman. Jews certainly would have nothing to do with the gentiles. The dialogue between Jesus and the woman had three phases. It began about the thirst for natural water, and it went deeper for her to open up her past life, and ended up with her having faith in Jesus. Water is necessary to sustain life, but it will not satisfy one's heart. Our hearts thirst for true love and everlasting peace. God alone can satisfy that thirst. Jesus employed the symbolic language- living water- to talk about the need of a human heart. Jesus initiated the conversation by asking the Samaritan for a drink. What? A man asked a woman for a drink. Jesus went on to say, if she knew who he was, it would be her asking him for water, not him asking her, and he would give her the everlasting water. The woman was more curious to understand Jesus, and wondered how could Jesus, without a bucket, draw water from the deep well? We humans love to make claims of possession; the woman claimed that Jacob gave her people the well. Jesus agreed: Yes, the well is yours; but God (I) provide the water. She had her faith in Jacob, Jesus helped her to open it up. He told her that it was not the place, but who and how one worshipped that was important: 'true worshippers will worship the Father in spirit and truth'. Jesus invited the woman to look deep into her life by telling her, 'Go and call your husband and come back'. Seeing that Jesus was able to reveal the secrets of her past, she believed Jesus was a prophet. The dialogue moved from physical water to spiritual water. Jesus talked to her about true worship. She responded that when the Messiah comes, he will teach them to worship in spirit and truth. Jesus revealed his identity to her, by telling her, that He actually is the Messiah. Jesus' apostles returned from the market, and the conversation came to an abrupt end. The village well is the centre of information exchange. Not realizing that she became a missionary for Jesus, the woman rushed back to her village, telling others about Jesus, and inviting them to meet the man, whom she suspected was the Messiah, because he was able to reveal her past life. The woman was well known for her way of life, and her villagers would doubt the truthfulness of her word. Surprisingly they believed her, and came to meet Jesus. Later on her villagers told her, they believed in Jesus not because of her story, but because they themselves had heard him, and had come to believe, that He is the Messiah, thus validating her words. We don't know her name, but we do know that her faith came via dialogue with Jesus, and she made a change of heart. For her, having faith in Jesus was not about having all the answers, but God's love satisfied her heart. She listened and believed in Jesus, and she was satisfied. For her having faith in Jesus was enough, and she would need no other source of wisdom.