Thanh Hỏa Trà, Hồng Huyết Lan
Lời Dẫn: Chuyện kể trước Giao Thừa Kỷ Dậu 1789, hoàng đế Quang Trung trên đường kéo quân ra Bắc diệt quân Mãn Thanh, ngài ghé vào gặp La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp hỏi về kế sách đánh giặc. Nguyễn Thiếp nói, “Quân Mãn Thanh vừa kéo sang nước ta, kiêu căng ngạo mạn và khinh địch. Doanh trại chưa thiết lập xong. Nếu đánh nhanh, tất chiến thắng”…
Cả tuần rồi, trời tháng Chạp trở mình chuyển gió bấc. Bầu trời đang xanh biêng biếc ngọc bích, bỗng dưng tựa người họa sĩ tâm thần nổi cơn điên cầm cọ chấm ô mực xám tô lên bức tranh. Thế là tổng thể xám ngoét! Trời xám, đất đen nứt nẻ như hạn hán, vỏ cây nứt banh bày phơi bộ ruột trắng xóa cốt khô! Trời xám! Cá tép cặp mắt trắng đục đua nhau nổi lềnh bềnh trắng xóa một khoảng sông Cái, kên kên đầu trọc lóc bay về tíu tít từng bầy no nê bữa tiệc cá chết trời đãi. Chiều về, đình làng bình thường ồn ào đám trẻ mục đồng tụm năm tụm bẩy đánh đinh đánh đáo, giờ trời trở rét, sân gạch vắng tanh tựa bãi tha ma. Trời sập tối, người làng trốn vào vựa thóc. Tối tối, ánh đèn từ kho rơm chập chờn thoáng ẩn thoáng hiện, thoạt nhìn tựa bầy ma chơi.
Rét kéo về huyện La Sơn khiến cụ Nguyễn Thiếp thêm nặng tiếng ho. Tối tối, cạnh bên chung trà vàng đặc tựa mật ong, cụ ôm ngực ho từng hồi. Vuốt vuốt cần cổ trấn áp cơn ho, cụ quyết định đứng dậy bước vào phòng, khoác lên thân hình khẳng khiu tấm áo bông trắng ngà. Quay lại phòng sách, cụ Nguyễn loay hoay nấu bình trà mới. Bóng cụ cô đơn, đổ dài bên lò than. Than hồng tí tách nổ văng tung tóe đêm đen tựa sao băng trên nền trời cuối năm. Chỉ còn mấy hôm nữa thôi, Bắc Hà sẽ lại nổ vang tiếng pháo đỏ chào mừng năm Kỷ Dậu.
Miệng húng hắng ho nhưng cụ nghiêng tai, vành tai dài, nghe ngóng. Cụ nhận ra tiếng chân đạp nhè nhẹ trên lá khô ngoài ngõ vắng. Ngẩng đầu nhìn qua khung cửa sổ, mặt cụ tươi vui. Cụ Nguyễn cất tiếng, giọng ấm và vui,
— Chào cụ Nghè.
Ngoài sân vang tiếng chào lại của cụ Nghè Văn Tiên, giọng thổ trầm ấm,
— Không dám, chào cụ.
Từ hồi tóc còn để chỏm, học lớp cụ Tú Chuyên trong làng, Văn Tiên và Nguyễn Thiếp đã thân với nhau. Theo học cửa cụ Tú Chuyên mấy năm, Văn Tiên chuyển sang huyện bên cửa môn cụ Nghè Thanh Hậu, khoa mục nổi tiếng văn hay chữ tốt không phải chỉ ở Nghệ An mà cả Bắc Hà. Năm Nhâm Tuất, năm vỡ con đê khúc sông Ðáy đổ vào sông Nhị Hà, Văn Tiên hai mươi hai tuổi đỗ thủ khoa trường Nghệ. Ba mươi tuổi Nghè Văn Tiên đỗ tiến sĩ, được bổ Tri Phủ quyền thụ Án Sát. Trước khi quân Ó tiến vào Thăng Long chấm dứt cơ nghiệp 200 năm của Chúa Trịnh, viện cớ thân phụ cao tuổi, Nghè Văn Tiên quyết định từ quan, quay về lại làng. Riêng cụ Nguyễn Thiếp, ngoại trừ thời gian dạy học tại nhà Ðề Lĩnh ở Thăng Long, sau mấy kỳ lận đận thi cử, quyết định về làng mở trường dạy sách thánh hiền. Bởi vậy người huyện La Sơn quen miệng gọi cụ La Sơn Phu Tử.
Cụ Nguyễn và cụ Nghè nể nhau về tài học, trọng nhau về đức độ. Riêng cụ Nghè Văn Tiên, cụ kính trọng La Sơn Phu Tử về kiến thức thông thiên bác cổ. Có lần, giữa tiệc rượu tại nhà quan huyện Hương Sơn, cụ Nghè Văn Tiên nói,
— Thời Tam Quốc có Ngọa Long tiên sinh nằm nhà cỏ nhưng vẫn biết thiên hạ sẽ phải chia ba. Giờ Bắc Hà có Nguyễn tiên sinh, không mấy khi rời bước khỏi làng, nhưng chuyện thiên hạ không đâu cụ không biết. Đến là tài!
Quan huyện Hương Sơn gật đầu, vuốt râu khẽ góp ý,
— Vâng! Tôi nghe nói La Sơn Phu tử còn biết cả đông y nữa cơ đấy...
Cụ Nghè Văn Tiên tiếp lời,
— Vâng, quan nói đúng. La Sơn Phu Tử, tài sánh với Hải Thượng Lãn Ông của huyện nhà. Con bệnh hiểm nghèo, thầy thuốc chê, người nhà chuẩn bị áo quan. Đưa đến tiên sinh, ngài cứu sống bẩy tám.
Cụ Nghè kể chuyện,
— Thời dạy học tại kinh đô, Phu Tử và Lãn Ông thường xuyên gặp gỡ trao đổi nghề thuốc. Thời gian chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán, có hai ba lần Hải Thượng Lãn Ông đích thân triệu mời Nguyễn tiên sinh tới Phủ Chúa chẩn mạch cho Thế Tử tại lầu Tử Các. Bởi vậy có lần Hải Thượng Lãn Ông vắng nhà, hình như vô rừng hái thuốc, mà ngặt nỗi bữa đó Chúa Trịnh Khải bất ngờ đổ bệnh nặng. Phủ Chúa lo lắm! Có người chợt nhớ tới vị đông y bạn của Hải Thượng Lãn Ông. La Sơn Phu Tử lập tức được triệu mời vào kinh đô. Chỉ qua hai thang thuốc của La Sơn, Chúa Trịnh đứng dậy, ăn liền một lúc mấy chén cơm, cứ như người chưa bao giờ ốm nặng...
Nhìn những khuôn mặt không che dấu nét kinh ngạc, cụ Nghè buông lời kết,
— Từ đó Chúa coi tiên sinh đại ân nhân, ăn cơm mời ngồi cùng mâm... Có lần thân mẫu của La Sơn Phu Tử ngã bệnh. Nếu không có nhân sâm Phủ Chúa, e khó sống. Tiên sinh lên kinh đô. Chính tay Chúa Công mở cửa kho thuốc, trao tận tay tiên sinh một lạng nhân sâm.
Cụ Nghè kể thêm,
— Biết tiên sinh thông thiên bác cổ, Thái Thượng Hoàng và Chúa Trịnh thường xuyên mời La Sơn Phu Tử về kinh vấn kế. Nếu không có nạn quân Ó, có lẽ tiên sinh đã về Thăng Long làm việc hẳn trong Phủ Chúa rồi.
…
Nhìn bạn đồng môn khuôn mặt lơ đãng, cụ Nguyễn hỏi,
— Cụ làm gì mà mơ màng như đang nhớ chuyện thủa xưa vậy?
Tiện tay, cụ Nguyễn rót trà mời khách, giọt nước óng ánh mầu mật ong,
— Thôi! Ta bắt đầu tiệc trà vậy. Mời cụ.
Cụ Nghè đáp lễ,
— Không dám. Mời cụ.
Cụ Nghè Văn Tiên đưa chung trà mầu nâu đỏ nhỏ tựa hột trứng gà con so lên miệng. Uống một ngụm, cụ đặt chung trà xuống mặt bàn.
— Chà! Hương trà thơm. Mới đưa vào miệng, vị chát. Nhưng nuốt vào tới cổ họng, vị ngọt đượm quanh cần cổ. Cụ đặt mua ở đâu vậy?
Cụ Nguyễn cười hiền hòa,
— Tôi có người cháu gọi bằng bác từ Đàng Trong gửi tặng. Người Nam Hà họ cũng có nhiều loại trà khá lạ cụ ạ! Thoạt tiên tôi cứ tưởng thằng cháu mua trà của người Minh Hương. Sau mới biết không phải. Trà này trà của Nam Hà.
Cụ Nghè ngạc nhiên,
— Trà Nam Hà? Cụ mà không nói, chắc cứ tưởng đang uống trà tàu.
Cụ Nguyễn nụ cười trên môi,
— Trà này người Ðàng Trong, họ gọi Thanh Hỏa Trà, chỉ xuất hiện trên vùng đất chất diêm, trời lạnh quanh năm. Thanh Hỏa Trà vị đắng. Mầu vàng tươi, óng ánh mật ong. Người suy nhược uống vào, thần khí trở lại bình thường. Đặc biệt Thanh Hỏa Trà ngừa và giải được độc tính của lá Hồng Huyết...
Cụ Nghè nhíu đôi chân mày,
— Cụ muốn nói…Hồng Huyết Lan?
Cụ Nguyễn gật đầu,
— Vâng! Cụ nói đúng.
Cụ Nghè kể chuyện,
— Ở nhà, tôi có giò Hồng Huyết Lan do người thân gửi biếu Tết. Người này dặn đừng tưới nước, đúng Giao Thừa hoa sẽ nở. Nhưng tôi chưa, chưa bao giờ nghe nói Hồng Huyết Lan mang độc tính.
Dừng lại nhìn cụ Nguyễn, ánh mắt cụ Nghè Văn Tiên dò hỏi. Khe khẽ cười, cụ Nguyễn chậm rãi nói,
— Vâng! Thưa cụ… Hồng Huyết Lan chỉ xuất hiện trên mạn ngược. Khi nở, hoa hình trái tim đỏ máu tươi. Lá cắt nhỏ, phơi khô ba sương bốn nắng. Giã nát thành bột, bột mang tính độc. Hồng Huyết Lan dùng đúng liều lượng có khả năng cứu sống người thổ tả. Nhưng nếu đốt trên lò than, mùi thơm hơn trầm hương. Người ngửi phải khói Hồng Huyết Lan, sau ba canh giờ, thất khiếu ứa máu mà chết!
Đứng dậy mở cửa tủ gỗ cẩm xà cừ bóng lộn nằm dưới bàn thờ, cụ Nguyễn chỉ vào lọ thuốc mầu Hồng Ngọc,
— Đây là Hồng Huyết Lan.
Cụ chỉ vào lọ thuốc mầu Bạch Ngọc nằm ngay bên cạnh,
— Còn đây là trầm hương.
Cầm lọ Bạch Ngọc trên tay, cụ rắc nhẹ trầm vào lư hương đồng đặt trên mặt tủ gỗ. Nhìn khói trắng quyện tròn bốc cao, cụ Nghè nhấp một ngụm trà, miệng cười hóm hỉnh,
— Nói dại miệng! Giờ cụ có đốt trầm hương trộn Hồng Huyết Lan, tôi vẫn chưa có cơ hội ghé chơi…cõi tuyền đài.
Cụ Nguyễn cười theo, tiếng cười dòn tan,
— Vâng! Cụ nói đúng, bởi ta đang uống trà Thanh Hỏa. Nhưng cụ yên chí, tôi, lương y như từ mẫu, tôi, tôi chỉ cứu người...
Thật là bất ngờ, tựa người trúng gió độc cụ Nguyễn bỗng ngừng ngang tiếng cười. Sát khí ở đâu kéo về nổi cộm, dầy như mây xám vần vũ bám đen vầng trán, giọng cụ ngập ngừng, khô khốc củi khô,
— Họa may, ngoại lệ, chắc chỉ có...
Cụ lập lại cùng một chữ,
— Chỉ có một người...
Cụ Nghè nhíu mày nhận ra người bạn vong niên ngước mắt nhìn bàn thờ gia tiên. Trên bàn thờ, hoành sơn đỏ thêu chữ LÊ đại tự kim tuyến với linh bài khắc năm chữ đỏ tươi Ðoan Nam Vương Trịnh Tôn mờ ảo chập chờn bởi hai ngọn nến đỏ tươi. Cụ Nghè đăm chiêu,
— Chắc cụ biết Hồng Huyết Lan chỉ nở cuối tháng Chạp, hoa nở ba tháng chưa tàn. Nhưng Hồng Huyết Lan sẽ không đỏ mầu máu nếu không có máu đổ thịt rơi!
Dừng lại, cụ thì thầm,
— Tôi nghe nói nhìn Hồng Huyết Lan, biết thời cuộc. Hoa nở đỏ mầu máu báo trước nhân gian sắp trải qua cuộc binh đao.
Cụ Nghè ngưng lại, nâng cao chung trà,
— Tôi theo lời dặn, từ ngày được hoa, không tưới một giọt nước. Thật là bất ngờ sáng hôm qua lan hé nụ. Ngạc nhiên tôi hỏi người trong nhà có ai đụng chạm giò lan hay không? Đứa con dâu thứ rụt rè nói cách đây hai hôm tôi đi vắng, thằng cháu đích tôn tinh nghịch đổ nước tưới lan...
Một lần nữa cụ xuống giọng, mặt tái xám,
— Tôi nhìn hoa Hồng Huyết mà rùng mình, hoa trái tim đỏ tươi mầu máu. Những nụ còn lại đang hé nở, nhìn vào bên trong, tinh là mầu máu đỏ tươi! Tôi còn ngửi được cả mùi máu tanh nồng nặc!
Cụ Nghè dừng lại, không nói gì thêm. Cụ Nguyễn đăm chiêu nhìn ra ngoài khung cửa. Bên ngoài trời tháng Chạp tối đen như mực. Cụ Nghè Văn Tiên lên tiếng đánh đổ bức tường yên lặng vây bọc chung quanh,
— Chắc cụ cũng biết tình hình Bắc Hà ngày càng rối loạn. Sau ngày Chỉnh bị Nhậm đánh đuổi, Hoàng Thượng rời bỏ kinh thành Thăng Long, chạy thẳng sang Bắc Kinh. Cống Chỉnh bỏ đi, Văn Nhậm một mình hùng cứ đất Bắc. Bắc Hà thay đổi từ vua sang chúa, từ chúa sang công, từ công sang tướng, cứ như quân rối.
Cụ Nghè thở dài,
— Nhưng, một lần nữa Huệ kéo quân Ó ra Bắc Hà, thế lực võ biền Văn Nhậm tan biến. Quân Ó bỏ về Nam Hà, 20 vạn quân Thanh dưới quyền Lưỡng Quảng Tổng Ðốc Tôn Sĩ Nghị vượt Lạng Sơn kéo thẳng xuống kinh thành. Ngô Thời Nhậm bỏ trống Thăng Long, kéo quân về đóng tại núi Tam Ðiệp...
Cụ Nghè nhìn bạn,
— Nghe nói Hoàng Thượng lơ là triều đình, ngày đêm chỉ lo báo thù trả oán. Trong khi đó, hai mươi vạn lính Thanh trấn đóng kinh thành ngày đêm hà hiếp dân tình. Đêm đêm tiếng than kêu thấu trời xanh…
Cụ Nghè đăm chiêu, lắc đầu,
— Nghĩ hoài mà vẫn không hiểu tình hình Bắc Hà rồi sẽ ra sao!
Nhìn người đối diện, cụ thở than,
— Mấy đêm rồi tôi ngủ không được, trằn trọc. Chiều nay ghé vào cụ, hỏi nhờ mấy việc. Cụ bác học, thông thiên địa lý, chắc chắn phải có nhiều cao kiến…
Đưa chung trà thơm lên miệng, uống một ngụm nhỏ, cụ Nguyễn cười,
— Cụ Nghè hỏi thì chắc cũng phải xin góp nhặt một vài điều để hầu cụ. Nhưng, cụ đã hỏi thì tôi áng chắc trong đầu cụ cũng đã có một vài cao kiến.
Cụ Nghè lắc đầu cười xòa,
— Tôi, tôi rối bời qua đây kiếm cụ tâm sự, vấn kế, ai ngờ bị hỏi ngược. Nhưng thôi, đã bị hỏi thì chắc cũng phải nói.
Nhìn ra khung cửa sổ, cụ Nghè Văn Tiên trầm ngâm mơ màng. Quay vào nhìn chăm chú bản đồ Thăng Long dán trên vách tường chi chít những khoanh tròn mực đỏ cửa ải hiểm yếu dẫn vào kinh thành, cụ Nghè chậm rãi nói,
— Từ ngày Lê Thái Tổ lên ngôi năm Mậu Thân, đất Thăng Long từ đó đến nay vẫn chưa đổi chủ, mặc dù con cháu tướng quân Trịnh Kiểm và Hữu Vệ Điện Tiền Nguyễn Kim lập hai phủ Chúa tại Thăng Long và Phú Xuân lấn áp vua Lê. Hai trăm năm rồi Trịnh Nguyễn phân chia đất nước, hùng cứ một phương. Nhưng Bắc Hà và Nam Hà trên danh nghĩa vẫn thuộc vua Lê, bởi ngai vàng Thái Tổ vẫn còn đó. Thêm nữa, mặc dù dân hai quốc gia, người Bắc và người Nam Hà đều răng nhuộm đen ăn trầu. Ngày Tết, người song Hà vẫn đốt pháo, dựng nêu, đưa ông Táo về trời, nấu bánh chưng xanh, cúng tổ tiên giờ Giao Thừa.
Cụ Nghè lắc đầu,
— Nhưng thật là bất ngờ, anh em Tây Sơn nông dân chân lấm tay bùn nổi lên từ Quy Nhơn dẹp đổ vương quyền Chúa Nguyễn, của Trương Phúc Loan. Lần thứ nhất quân Ó vượt sông Gianh, Phủ Chúa truyền nối hai trăm năm sụp đổ. Lần thứ hai quân Ó kéo ra Thăng Long, quyền hành Văn Nhậm tan theo mây...
Cụ Nghè Văn Tiên dừng lại, mặt trầm tư,
— Nhưng tình hình lần này hoàn toàn khác. Hai lần trước, quân Ó kéo ra kinh thành cũng chỉ đụng phải đám kiêu binh Tam Phủ, một Văn Nhậm hữu dõng vô mưu. Lần này hai mươi vạn quân Mãn Thanh, dưới quyền điều động của danh tướng Lưỡng Quảng Tôn Tổng Ðốc, vượt biên giới Lạng Sơn. Bởi vậy tướng Tây Sơn Thời Nhậm khiếp sợ, chưa giao tranh chưa đụng trận đã cuốn cờ kéo quân Ó bỏ chạy về núi Tam Điệp.
Lắc đầu, cụ Nghè lại thở dài,
— Có một điều tôi không hiểu. Nghe nói Hoàng Thượng về lại kinh thành nhưng đất Bắc Hà vẫn như vô chủ, bởi từ ngày về lại Thăng Long, Hoàng Thượng ngày ngày bỏ ngai vàng, thân chinh vào tận Tây Long Cung của Lưỡng Tổng Đốc hỏi han việc quốc sự…
Cụ Nghè đăm chiêu,
— Chỉ với cụ tôi mới dám thổ lộ điều tâm huyết.
Cụ Nghè ngần ngừ,
— Một phần tôi mong Hoàng Thượng mau chóng khôi phục ngai vàng, phủ Chúa được lập lại. Nhưng nhìn vào Thăng Long với hai mươi vạn quân thiện chiến rợp bóng kinh thành, tự nhiên, thật tình mà nói…
Cụ Nghè giọng nhỏ rưng rức, gần như thì thầm,
— Tôi lại nghĩ tới quân Ó…
Bên ngoài tối đen. Một vài tiếng pháo chuột nổ đì đùng xa xa. Than hồng bám tro tàn ngủ quên trong lò. Bóng của hai người lu mờ câm lặng trên vách tường nhà. Trống điểm canh buồn rầu vang dội đêm đen. Giờ này giờ Hợi.
oOo
Tiễn bước người bạn vong niên ra khỏi ngõ, cụ Nguyễn quay vào nhà. Tiếng chó sủa vang vang đầu ngõ khiến cụ nhíu mày ngạc nhiên, bầy chó trong nhà không lạ gì cụ Nghè Văn Tiên. Bước vào phòng khách, cụ giật mình. Dưới tia sáng tù mờ của ngọn đèn dầu, cụ Nguyễn nhận ra người lạ mặt, dạ hành đen tuyền bó sát người, lưng quay lại cánh cửa, mặt hướng bàn thờ nhìn chăm chú bức hoành sơn đỏ thêu chữ LÊ đại tự và linh bài Ðoan Nam Vương Trịnh Tôn.
Biết cụ bước vào, người lạ chậm rãi xoay ngang, cất tiếng chào, âm giọng trầm, tiếng ngân vang tựa tiếng chuông,
— Kính chào Nguyễn tiên sinh.
Cụ Nguyễn khơi cao ngọn đèn, người lạ mặt hiện ra rõ từng nét. Dáng cao, hai bờ vai rộng, nước da đen sậm, mắt sáng long lanh trong đêm tối. Giọng người khách nghe lạ, rõ ràng không phải người Bắc Hà,
— Xin lỗi, tôi ghé nhà hơi đường đột. Nghe danh La Sơn Phu Tử nổi tiếng một vùng. Đã hai lần có công chuyện đi ngang, tôi đều muốn ghé vào thăm hỏi. Nhưng cả hai lần đều lỡ dịp. Nay tôi quyết định gác qua mọi chuyện, ghé vào, trước là thăm hỏi tiên sinh, sau có một vài tâm ý muốn xin được chỉ giáo.
Cụ Nguyễn giơ tay,
— Mời đại nhân…
Người khách ngồi xuống. Cụ Nguyễn đưa tay nhấc ấm trà, ấm trà nhẹ tênh. Nhìn quanh, cụ lưỡng lự đứng dậy, rồi lại ngồi xuống nhìn người đối diện. Khách lạ nhìn lên bàn thờ, nhìn căn phòng khách, ánh mắt dừng lại nơi có bản đồ kinh thành Thăng Long được đánh dấu chi chít khoanh tròn mực đỏ những cửa ải chiến lược. Nhìn theo người khách, cụ Nguyễn nhíu mày, cất giọng khô khốc,
— Cám ơn cho những lời quá khen. Lần trước ngài ra Bắc chấm dứt cơ nghiệp trăm năm của Chúa Trịnh, lần thứ hai ngài ra Bắc Hà bắt sống Vũ văn Nhậm, đã hai lần đại nhân đi ngang qua đây, cả hai lần tôi đều lỡ dịp được hầu tiếp ngài. Thật đáng tiếc…
Cụ Nguyễn đứng dậy, cổ bật tiếng ho khan,
— Xin lỗi đại nhân. Trời cuối năm lạnh se da thịt. Tôi đã có tuổi. Mấy năm nay thường hay đau yếu…
Cụ Nguyễn hạ khung cửa sổ xuống. Chậm rãi quay lại tủ gỗ cẩm xà cừ, cụ lấy ra lọ thuốc hồng ngọc Hồng Huyết Lan. Mở nắp lư hương, cụ Nguyễn rắc nhè nhẹ hương trầm Hồng Huyết Lan lên than hồng. Gặp lửa, khói trắng bốc cao tỏa hương thơm ngào ngạt dầy đặc không gian nhỏ bé của căn phòng khách. Cụ Nguyễn bỏ về ghế, ngồi xuống. Khách lạ nhìn cụ Nguyễn, khẽ cười, bắt đầu nói,
— Tôi xuất thân chốn quê mùa, một đời ngưu ẩm, không biết đốt hương trầm, không biết gẩy đàn, không biết nhiều chữ thánh hiền, nhưng cũng được một vài dịp đi tới lui…
Khách lạ quay hướng câu chuyện,
— Tôi nhớ có nhiều lần ghé vào kinh thành, gặp người Mãn Châu. Người Thanh cụ biết thuộc phương Bắc, to cao lực lưỡng, lấn chiếm Trung Nguyên chấm dứt nhà Minh. Tới thời Khang Hy, tiêu diệt Thiên Địa Hội, chấn chỉnh lại nhà Đại Thanh. Tới thời Càn Long, hùng khí vươn cao một góc trời.
Khách lạ dừng lại, âm giọng trầm buồn,
— Từ bao lâu nay phương Bắc ỷ lớn coi thường người phương Nam. Người nước Nam, rất tiếc, thời Lý Đại Tướng Bắc đánh Tống Nam bình Chiêm; thời Trần Đại Tướng chỉ sông Hóa thề không trở về nếu không dẹp tan giặc Mông Cổ; thời Lê Thái Tổ mười năm nằm gai nếm mật đã qua. Hai trăm năm rồi, hai phủ Chúa dùng danh hiệu Thái Tổ hiệu lệnh thiên hạ. Hai trăm năm rồi, Bắc Hà và Nam Hà đoạn giao, coi nhau thù địch. Người Bắc Hà coi người dưới dòng sông Gianh ngoại tộc, man di mọi rợ. Người Nam Hà coi người nằm trên dòng sông Gianh hủ nho, cổ hũ, không thức thời. Cũng người Việt một dòng máu, thế mà anh em quay sang chống đối, hận thù, gây ra bẩy lần cảnh nồi da xáo thịt.
Nhìn ấm trà nguội lạnh nằm giữa bàn, khách lạ yên lặng giây phút, rồi lại tiếp tục,
— Tôi nhớ có lần ra tới Thăng Long, đi ngang chợ kinh đô gặp người Mãn Châu đầu thắt bím, quần áo xuề xòa, dáng vẻ thương buôn, dạo chơi kinh thành. Vừa đi họ vừa nhổ xoèn xoẹt xuống mặt đường. Những người này tới đâu, dân Thăng Long nhìn theo ánh mắt sợ hãi, chiêm ngưỡng. Có hai ba người học trò, và cả những cô gái kinh thành nhoẻn miệng cười duyên dáng, mở miệng bập bẹ tiếng Mãn Châu với người Thanh. Nhưng người Mãn Châu nói tiếng Hán, tủm tỉm cười với nhau, không thèm trả lời, bỏ đi một nước.
Khách lạ mặt lạnh như tiền,
— Về phòng trọ, tối hôm đó tôi trằn trọc cả đêm. Tự nhiên mất ngủ, hỏi, tại sao?
Một lần nữa nhìn ấm trà nguội lạnh nằm chơ vơ giữa bàn, khách lạ cười khẩy,
— Có một thời tiên sinh ở kinh thành, tôi tin ngài cũng đã nhìn thấy hàng tơ lụa phương Bắc tràn ngập Thăng Long. Người Bắc Hà ghé vào xem, trầm trồ khen ngợi. Bắc Hà cũng như Nam Hà, người ta hát nhạc Mãn Châu. Gần đây tôi thấy có người bắt đầu cạo đầu thắt bím, mặc quần áo Mãn Châu. Dân kinh thành đua nhau học tiếng Mãn. Người người đọc sách nhà Thanh. Thoạt tiên nhìn vào, cứ tưởng người Thăng Long giờ đã tộc hóa ra người Mãn!
Nhìn khung cửa sổ đóng kín mít rồi nhìn khói hương trầm thơm ngát ngạt ngào bầu không khí, khách lạ tiếp tục,
— Có hai ba lần, tôi gặp người trẻ Bắc và Nam Hà. Hỏi họ Gia Huấn Ca của Vương Hầu Nguyễn Trãi, không mấy người biết. Hỏi sự tích Trầu Cau, chẳng ai hay. Tôi kể chuyện tổ tiên Hùng Vương Mười Tám đời, họ tưởng chuyện của ai đó. Chuyện về nguồn gốc dân tộc, tuổi trẻ song Hà không hay. Nhưng hỏi về nguồn gốc Mãn Thanh, của Minh, của Hán, không ai không biết. Đến là lạ! Thơ Lý Bạch, thơ Thôi Hộ, tuổi trẻ song Hà thuộc nằm lòng, như in trong trí như tạc trong dạ. Tôi ngạc nhiên lắm. Hỏi, tại sao?
Khách lạ dừng lại nhìn người đối diện,
— Tôi nhớ hai ba lần ghé qua Xiêm. Tiên sinh hẳn biết, Xiêm La theo chế độ cưỡng bách giáo dục, tất cả trẻ em đều phải cắp sách đến trường. Mười tám tuổi, thanh niên vô chùa tu học hai năm. Chùa chiền và trường học xuất hiện khắp nơi. Cứ một dãy phố lại thấy trường học và cảnh chùa. Ghé vào khu vực san sát nhà cửa, lâu đài mọc cao như nấm, ngựa xe tấp nập trong kinh thành Vọng Các, tôi ngạc nhiên nhận ra đó là khu vực người gốc Đại Việt. Hỏi ra mới biết những người này trước đó ở bên nước ta, không một tấc đất để cắm dùi. Nhưng sau một lần bỏ quê cha đất tổ, đời sống họ thay đổi. Họ trắng da thắm thịt. Tôi cũng gặp ở đất Xiêm rất nhiều thanh niên Đại Việt thông minh tráng kiện làm việc trong triều đình vua Xiêm. Nhìn họ cao lớn, tưởng người Xiêm. Có người dậy hoàng tử Xiêm học. Hỏi chuyện mới biết khi còn ở bên nước Nam ta, họ là trẻ mục đồng, không biết mặt chữ Nhất. Tôi bàng hoàng không tin vào con mắt của mình. Lại hỏi, tại sao?
Khách lạ khẽ thở dài, nhìn lên hoành sơn chữ LÊ đại tự,
— Tôi còn nhớ vào thời Ức Trai tiên sinh, ngài viết Bình Ngô Đại Cáo, “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu”. Chuyện thời Ức Trai, thời Lê Thái Tổ, chuyện lâu rồi mà cũng còn như mới, tựa như chuyện ngày hôm nay, ngay bây giờ. Thời đó, thời của mười năm liền đất nước Văn Lang mở ngõ cho giặc Minh phá bỏ; thời người nước Nam bị đày xuống biển mò ngọc trai, lên rừng kiếm ngà voi cho giặc Minh. Hào khí Lạc Việt xuống thấp. Nhiều người bỏ sang Vạn Tượng, Nam Vang, Vọng Các sống một đời tha hương. Nhờ vượng khí nước Nam, nhà Lê nổi lên từ Lam Sơn với mười năm nằm gai nếm mật. Cuối cùng Liễu Thăng đầu rụng tại Chi Lăng, Vương Thông đầu hàng tại Đông Quan. Kinh thành Thăng Long vươn mình bước vào vận hội mới.
Dừng lại trong một thoáng, đôi mắt người khách lạ long lanh màu lửa đỏ, những tia lửa nổ tung,
— Bây giờ Càn Long dựa vào Hoàng tôn Lê Duy Kỳ, sai Tôn Sĩ Nghị đưa hai mươi vạn quân tiến vào Thăng Long. Kinh thành hiện giờ đang ngập bóng người thắt bím.
Khách lạ giọng sắc, rõ từng chữ,
— Hoàng tôn Lê Duy Kỳ xưng làm vua, cha mẹ của dân. Nhưng thay vì lo đến tương lai của con cái của dân tộc, chỉ vì tư lợi riêng tư, Chiêu Thống dám hy sinh vận mạng cả nước, cõng rắn cắn gà nhà, tạo thêm cơ hội ngàn vàng cho ngoại bang dầy xéo người nước Nam.
Nhìn thẳng vào người đối diện, khách lạ nói chậm nhưng rõ,
— Tiên sinh thông thiên bác học, ngọc quý của Bắc Hà. Xin được tiên sinh chỉ giáo cho những điều tâm huyết mà tôi vừa trình bày… Điều sai điều dở!
Bên ngoài gió lạnh cuối năm buồn rầu than thở qua khe hở của khung cửa. Trong chiếc áo bông dầy cộm, cụ Nguyễn không kềm nén, bật tung miệng tiếng thở dài; cụ yên lặng cúi nhìn đất đen, không nói chi. Gió lạnh tiếp tục xào xạc bên ngoài khung cửa. Đêm đen gió rét như cũng thở dài, ngao ngán! Cụ Nguyễn nhìn lên làn khói trắng thơm ngào ngạt quyện bay trong bầu không khí. Cụ nghĩ ngợi. Cụ đứng dậy. Cụ hai tay đẩy mạnh mở toang khung cửa sổ liếp tre. Gió lạnh ngập tràn thổi bay đi xa bầu không khí thơm ngát trầm hương Hồng Huyết Lan. Sương lạnh bên ngoài kéo vào, thổi hắt vào mặt bật ra những tiếng ho húng hắng nơi cổ họng.
Khách lạ nhìn cụ Nguyễn, ánh mắt ngạc nhiên. Cụ Nguyễn miệng húng hắng ho, cất tiếng phân bầy,
— Xin lỗi đại nhân! Tôi lỡ tay đốt nhiều trầm quá. Khói bay xông xốc cổ họng, ngứa cổ, muốn ho. Xin phép đại nhân mở cửa. Sương lạnh nhưng không khí trong lành, không vương khói trầm hương.
Chậm rãi bước tới tủ gỗ cẩm xà, cụ Nguyễn cất giọng thân tình,
— Tôi có loại trà quý Nam Hà. Những lúc tối trời giá lạnh, hay pha uống. Trà đặc sánh mầu vàng mật ong. Uống vào, vị đắng, nhưng xuống tới cổ đổi sang dịu ngọt. Trong trà có linh dược giúp người bệnh hồi phục nhanh chóng không kém nhân sâm…
Khách lạ cười,
— Vâng! Cụ muốn nói Thanh Hỏa Trà, vùng cao nguyên đất đỏ của Nam Hà?
Cụ Nguyễn bật cười, sửa lại chữ Nam Hà của khách,
— Ðúng, Thanh Hỏa Trà của đất… đất Văn Lang. Ngài vó ngựa vạn dậm từ Phú Xuân tới đây. Chắc là mệt mỏi lắm rồi. Kính mời ngài một chung trà quý.
Cụ Nguyễn đặt chung trà nhỏ mầu nâu đỏ trước mặt người khách lạ. Cụ Nguyễn cất giọng,
— Mời ngài.
Một vài tiếng pháo cối nổ vang dội đêm đen. Bóng của cả hai, một già một trẻ lung linh nhảy múa trên vách tường nhà. Than hồng cháy đỏ tươi vui tiếp tục tí tách trong đêm đen. Trời đã khuya lắm rồi. Trống điểm sang canh, giờ này giờ Tý. Lắng nghe tiếng pháo nổ xa xa, lắng nghe tiếng mõ điểm canh, người khách lạ cất tiếng hỏi,
— Nay quân Mãn Thanh kéo quân sang đây, thế giặc mạnh như chém sắt chẻ tre. Thầy nghĩ chúng ta phải làm sao?
Cụ Nguyễn đứng lên, ngón tay chỉ vào bản đồ kinh thành Thăng Long dán trên vách tường,
— Quân Mãn Thanh vừa kéo sang nước ta, kiêu căng và khinh địch. Doanh trại chưa thiết lập xong. Nếu đánh nhanh tất chiến thắng…
oOo
Mùa Xuân Nhâm Tý 1792, trong khi đang tiến đánh Nguyễn Ánh tại thành Gia Định, vua Quang Trung tự dưng quỵ ngã, rồi dần dần thiếp đi trong hôn mê, sau cùng băng hà tại điện Trung Hòa vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý, thọ bốn mươi tuổi, ở ngôi hoàng đế được năm năm. Không ai rõ lý do và nguyên nhân đã dẫn đến cái chết của đại hoàng đế nước Nam. Có người suy đoán nói hoàng đế Quang Trung do làm việc nhiều, suy nghĩ nhiều, bị cao huyết áp, đứt mạch máu não mà chết. Có người nghi vấn đặt vấn đề có thể hoàng đế bị đầu độc hoặc đã từng bị đầu độc trong quá khứ. Nếu đúng là như vậy, ai là người có khả năng đến gần long thể để đầu độc được hoàng đế nước Nam?
□ Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.webs.com