Đến giữa tim vùng ngoại vi: Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Mẹ Têrêsa thành Calcutta (hay Những đoá hoa hồng nở giữa khu ổ chuột tràn ngập bùn lầy nước đọng)

Lời dẫn nhập: Mẹ Thánh Teresa sinh năm 1910 tại Skopje, Albania. Mẹ từ biệt quê hương, mẹ ruột và anh chị để sang Ái-nhĩ-lan (Ireland) tu học tại Nhà Dòng Loreto vào năm 1928.

Năm sau đó 1929 Mẹ sang Ấn độ dạy học và ở lại thực hiện sứ mạng truyền giáo, chăm sóc cho những người cùng khổ, sắp chết ở Calcutta và Ấn độ cho đến khi về lại nhà Cha trên Trời. Sinh thời thân mẫu của Mẹ Teresa đã xin phép chính phủ sang Ấn độ thăm con gái của bà (tức là Mẹ Teresa), thế nhưng Đảng Cộng Sản và Chính phủ Albania bấy giờ không cho phép. Mẹ ruột và chị ruột của Mẹ Teresa sau đó đã qua đời vào năm 1972 và 1974. (Ai muốn vác Thánh Giá theo Chúa thì phải từ bỏ mọi sự) Chỉ sau khi chủ nghĩa Cộng Sản sụp đổ tại Đông Âu và Liên Xô, Chính thể mang danh nghĩa đệ Tứ Cộng hoà quốc gia được tái lập tại Albania, Mẹ Teresa đã thăm lại quê cha năm 1991, theo lời mời về lập chi Dòng Tu Huynh Thừa Sai Bác Ái. Cũng nhân dịp về thăm quê hương Mẹ Teres đã xin thăm mộ của mẹ và chị ruột thế nhưng bọn cán bộ hậu duệ đó trước tiên lại lừa đưa Mẹ đến thăm cái gọi là lăng của Enver Hoxha, để chụp hình quay phim và tuyên truyền (lãnh tụ độc tài đã hành hạ nhân dân và đất nước Albania từ năm 1945). Năm 1994 chính phủ mới của Albania mời Mẹ về cố quốc để nhận Huân Chương Vàng Quốc gia Albania (the Golden Honour of National Order Albania) để ghi nhận cuộc đời của người con dân Abania đã nổi tiếng khắp thế giới vì sự nghiệp hiến thân cho người cùng khổ và làm chứng cho Tình Yêu của Thiên Chúa. Bà Ines Angeli Murzaku, Tiến Sỹ, Giáo Sư về Tôn Giáo học tại Công Giáo Seton Hall University, New Jersey Hoa Kỳ, đã có nhiều công trình nghiên cứu và viết 5 quyển sách được xuất bản. Tác phẩm mới nhất mang tựa đề, Chủ nghĩa Kinh Viện tại Đông Âu và trong các nước Cộng Hoà thuộc Liên Bang XHCN Xô Viết trước đây (Monasticism in Eastern Europe and the former Soviet Republics; Routledge 2016.) Nữ Giáo sư Ines cộng tác với nhiều cơ quan truyền thông trong nước và quốc tế suốt từ thời Chiến tranh Lạnh bao gồm các Đài Radio Tirana (Albania), Đài Truyền Thanh Radio Vatican (VaticanCity), EWTN (Roma) trong suốt cuộc nổi dậy ở Đông Âu vào những năm 1990, Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA), Relevant Radio, The Catholic Thing, Crux và các nơi khác. Nữ giáo sư Ines Murzaku viết về người đồng hương Albania số một của đất nước bà. Xin trân trọng chuyển ý và chia sẻ đến các Đấng bậc và mọi người nhân ngày Giáo Hội tuyên phong Mẹ Teresa lên hàng hiển thánh của Giáo Hội Công Giáo Hoàn vũ.


Đến giữa tim vùng ngoại vi

Từ tháng Ba năm 2013, sau khi được tuyển chọn kế vị Ngai Toà của Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chiếm được cảm tình và suy nghĩ của người người trên toàn thế giới: từ các Ki tô hữu, người theo Hồi giáo, Ấn độ giáo, các Phật tử… cả người có tín ngưỡng cũng như người không theo tín ngưỡng hoặc vô tôn giáo. Từ lòng thương cảm, sự đồng cảm và sự tha thứ, lòng thương xót thể hiện trong cả lời cầu kinh nguỵện và trong hành động thực tế, cho đến kính yêu Chúa và thương yêu người lân cận là một số các dấu ấn hiện nay của triều đại Giáo Hoàng Phanxicô. Một ý niệm đặc biệt có tầm quan trọng tối cao đối với sứ vụ Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô là “ Hãy hướng về vùng ngoại vi, đi đến với những xóm nhà lá, khu ổ chuột ngập tràn bùn lầy nước đọng!“

Trả lời phỏng vấn của Linh Mục Antonio Spadaro, SJ, Chủ Bút Tạp chí La Civiltà Cattolica mấy tháng sau khi được bầu cử vào ngôi vị Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về “ Thần học hướng về ngoại vi” và ngài giải thích rằng những cuộc cách mạng và biến đổi lớn trong lịch sử con người đã trở thành hiện thực khi “ Thực tế đã không được nhìn nhận từ trung tâm, hay không thấy được từ ở ngay giữa chính lòng xã hội, không ở trung tâm các quốc gia mà thực tế được nhận biết từ bởi những vùng ngoại vi, những nơi xa xăm, ít được biết đến trước đây.” Cũng theo nhận định của Đức Thánh Cha Phanxicô chính là sự trải nghiệm cuộc sống của nơi ngoại vi, cùng bước đi trên mọi nẻo đường ngoại vi với những con người của vùng ngoại vi, thông qua đó con người quen thuộc với thực tế tồn tại; đây chỉ là sự tồn tại chứ không phải là cuộc sống đúng nghĩa của con người, existential periphery (nghĩa là có kinh nghiệm sống thực tại ở ngay tại những xóm nhà lá, đi đến, nhận biết và chia xẻ cuộc sống của người sống trong những khu ổ chuột tăm tối, chui rúc trong hẻm sâu tràn ngập bùn lầy nước đọng trong lòng xã hội hiện nay). Đường lối lãnh đạo của triều đại Giáo Hoàng Phanxico là hướng về ngoại vi, vận động hướng Giáo Hội Công Giáo Hoàn vũ từ chỗ yên ổn an toàn đi đến các nơi có rủi ro và sẵn sàng chấp nhận bất trắc, chuyển từ cách nhìn hướng nội sang cách nhìn hướng ngoại, nhìn vào những cuộc sống bên lề thay vì từ trung tâm của xã hội, (là nhìn từ những góc độ và cảnh đời bị xô dạt vào bóng tối, của những người lâm cảnh khốn cùng chứ không nhìn từ những nơi đầy ánh sáng đô thành như trong bộ phim nổi tiếng của danh hề Sạclô, La lumiere de la ville, City Light of Sir Charles Chaplin). Xin xem lại Vietcatholic.net ngày 25/7/2013 tường trình về Đức Thánh Cha Phanxico đa đi thăm dân cư các khu ổ chuột favelas Varginha thuộc phức hợp Maguinhos phía Nam Tiểu Bang Rio de Janeiro nhân Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2013 tại Brazil). (Người Chăn Chiên phải có mùi chiên)

Vậy vùng ngoại vi, ven biên, ven đô, ở bên rìa hay ngoài lề xã hội là gì?

Lời Đức Chúa Giêsu đã phán dạy các Tông đồ,” Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (trích Sách Mác-cô Mk 16:15) chỉ có thể được hoàn thành nếu mọi người đã cùng sống và trải nghiệm qua những vùng ngoại vi về cả mặt địa dư lẫn thực tế hiện thực, thực tại (periphery and existential). Đây là cách thế mà con người phàm nhân chúng ta có thể noi gương bước đi theo Đấng Nguyên mẫu cao cả của chúng ta, chính là Đức Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người trần thế trong vùng ngoại vi về mặt địa lý, vì Chúa đã không giáng sinh ở kinh thành Rôma - nhưng Chúa đã xuống thế làm người trong máng cỏ hang lừa tại làng quê nghèo nàn Nazareth cách xa kinh thành Giêrusalem. Đây là nơi là Nathaniel, một trong 12 tông đồ đầu tiên, trước khi đến gặp Chúa Giêsu đã hỏi các tông đồ khác bằng giọng điệu ngờ vực: “ Vùng Nazareth ư, ở nơi ấy nào có thể tìm được điều gì tốt lành?” Còn hơn thế nữa, Đức Chúa Giêsu đã sống trong các vùng ngoại vi này trong 30 năm và suốt cả thời gian thực thi sứ mạng cứu độ của Ngài. Không bao giờ và không một phút giây nào Đức Chúa Giêsu rời mắt khỏi những cảnh đời đau thương cùng cực của cuộc sống ngoại vi thực tế ấy; những kẻ nghèo nàn bần cùng cơ cực, những con chiên lạc của nhà Israel, những người bị ruồng rẫy, bị vứt bỏ, những người loại ra bên lề cuộc sống và bị đạp xuống dưới đáy xã hội Do Thái, những cô gái điếm, những người phụ nữ gặp nhiều khó khăn và bất hạnh trong đời …vv…. (Phụ chú: Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, đã viết, xin noi gương Đức Chúa Giêsu: sinh ra ở giữa Đồng, truyền rao Tin Mừng trên Đường, và sau cùng chết ở trên Đồi)

Đối với Đức Thánh Cha Phanxico cũng vậy, Giáo Hội Công Giáo được mời gọi bước ra khỏi cơ ngơi êm ấm của chính Giáo Hội để đi đến khắp tận cùng cõi đất ở khắp tứ phương thiên hạ trong thời đại ngày nay của chúng ta về cả địa lý lẫn cuộc sống thực tại của các giai cấp ở bên lề hay dưới đáy các xã hội, đi đến tất cả các vùng ngoại vi ở mọi hang cùng ngõ hẻm trong các thành phố lớn hay những vùng đất thuộc rừng sâu núi thẳm, những khu hẻm sâu ở trong giữa lòng những đại đô thị hay xóm nhà lá ngập bùn lầy nước đọng mọc bên hông những trung tâm công nghệ, là những thành phố bị lãng quên. Vì chính ở tại những nơi này, mới có những cuộc đời tăm tối, những kiếp sống cô quạnh, những con người khốn cực đã và đang khao khát, đang thực sự cần có ánh sáng Tin Mừng soi rọi đến! (For Francis, too, the church is called to come out of herself and go to the ends of the earth, to the peripheries of our times, geographical and existential, which are in need of the light of the Gospel.)

Có ba lý do để công nhận nền tảng “Thần học Phanxico hướng về ngoại vi” này:

1. ĐGH Phanxico, tự chính bản thân ngài đã đến từ vùng ngoại vi. Ngài được sinh ra, nuôi dưỡng trong đất nước Á căn đình, thật sự là một vùng ngoại vi theo cả hai ý nghĩa về địa lý và cuộc sống thực tại (Francis himself comes from the periphery. He was born and raised in Argentina, which is both a geographical and existential periphery)

2. Đức Thánh Cha Phanxico là vị sanh ra và đến từ Châu Mỹ Latinh, không phải là vị Giáo Hoàng sanh ở Châu Âu, đã được bầu lên để lãnh đạo 1 tỷ 200 triệu giáo dân Công Giáo toàn thế giới.

3. Đức Thánh Cha Phanxico được sinh ra và nuôi dưỡng trong vùng ngoại vi của trung tâm quyền lực chính trị và của cả Giáo quyền. (Francis was born and raised on the periphery of political and ecclesial power.)

Mẹ Teresa sẽ được Đức Thánh Cha Phanxico và Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ tuyên phong vào ngày 04 tháng Chín năm 2016 là vị Thánh của Vùng Ngoại vi, bởi các lý do;

1. Mẹ Teresa cũng đến từ vùng ngoại vi. Mẹ được sinh ra, và nuôi dưỡng tại Skopje, thuộc một vùng ngoại vi cả về phương diện ngoại vi địa lý lẫn tồn tại xã hội ngoại vi. (Mother Teresa comes from the periphery. She was born and raised in Scopje, a geographical and existential periphery.)

2. Mẹ Teresa lớn lên trong một xã hội đa sắc tộc- đa tôn giáo nơi mà Cộng đồng Công Giáo thực tế là một khu thiểu số trong vùng ngoại vi đó (Mother Teresa grew up in a multi-ethnic, multi religious society where the Catholic community was a peripheral minority. (Ghi chú: theo Lịch sử và địa lý học cho đến tận ngày hôm nay, kể từ thế kỷ thứ 12 khi người Hồi Giáo bành trướng và cai trị trên toàn lãnh thổ Albania, và đất Macedonia là những vùng cha sanh mẹ đẻ của song thân Mẹ Teresa – người Công Giáo La mã chỉ còn là thiểu số ở mức nhỏ.)

3. Mẹ Teresa đã trải nghiệm và nhận biết trực tiếp về những cuộc sống thực tại lây lất ở khu ngoại vi qua những cảnh đời nghèo đói cơ cực, khốn cùng, chiến tranh, bị buộc thay đổi chỗ ở qua tản cư, lánh cư, bị trục xuất, và bị tàn sát diệt chủng (Mother Teresa knew first-hand the existential peripheries of poverty, misery, war, displacement and ethnic cleansing. Ghi chú: tác giả từ đầu bài nghiên cứu đã dùng chữ existential periphery, nơi đó chỉ có sự tồn tại chứ không phải là cuộc sống hiện hữu như đúng nghĩa của nó: Việt Nam xưa dùng chữ “cuộc sống lây lất tạm bợ qua ngày “ là rất đúng. Existential periphery đã được diễn tả bằng các từ poverty, misery, war, displacement, ethnic cleansing, nếu phải sống ngày nào hay biết được ngày đó thì đấy chỉ là sự tồn tại, một kiếp sống lây lất vật vờ.)

4. Chính là từ ở nơi sâu xa nhất của vùng ngoại vi (the periphery of periphery, nơi tận cùng bằng số của ý nghĩa bên lề sự tồn tại) đã dạy và chuẩn bị nhiều điều cho Mẹ Teresa trong sứ mạng truyền giáo-bác ái tại Ấn Độ ngày sau. Điều quan trọng cuối cùng; “vùng ngoại vi” chính là một trong những điểm chung tương đồng nhất giữa Mẹ Teresa và Đức Giáo Hoàng Phanxico (The bottom line is that periphery is one of the commonalities between Mother Teresa and Pope Francis.)

Những bông hồng nhỏ nở giữa vùng ngoại vi, ở khu ổ chuột bùn lầy nước đọng:

Agnes Gonxhe, trong ngôn ngữ Albania có nghĩa là Bông Hồng Nhỏ (* Albanian for rosebud-flower). Cô Agnes sanh ra tại Skopje, hiện nay thuộc về nước Cộng Hoà Macedonia vào ngày 26 tháng Tám năm 1910. Mẹ Teresa tên hồi còn nhỏ là Agnes, và là con gái của bà Drane (tiếng Albania nghĩa là Bông Hồng) và ông Nikolas Bojaxhiu đầu tiên ở vùng Prizren thuộc lãnh địa Kosovo sau đó mới chuyển đến vùng Skopje.

Cộng Đoàn Công Giáo Albania của Skopje thời Mẹ Teresa sinh ra và lớn lên là một cộng đồng thiểu số (Minority). Tổng số giáo dân Công Giáo tại nơi đây vào thời gian ấy là nhỏ bé và bị át hẳn so với đa số đông nhất là giáo dân Chính Thống giáo Đông Phương (Eastern Orthodox majority) sau đó Tôn giáo chiếm đa số thứ nhì là Hồi Giáo.

Skopje là khu dân cư hơp thành bởi các sắc dân khác nhau bao gồm người Albani, Croat, Bosniaks và các dân thiểu số khác. Dân bản địa vùng ngoại vi Skopje ngay từ thời thơ bé của bé Agnes (đã cho Mẹ Teresa ngày sau này) biết thế nào là đến với cuộc sống những người khác nhau về tín ngưỡng về sắc tộc, về văn hoá và cả về tiếng nói lẫn chữ viết. Vùng Ngoại vi về mặt địa lý này cũng là vùng biên viễn chính trị thuộc về đế quốc (a political-imperial periphery.) Thực vậy, vào thời bé gái Gonxhe được sinh ra, Skopje là một phần xa xôi nhỏ bé thuộc về Đế quốc Ottoman Hồi Giáo. Các quốc gia vùng Balkan hiện nay (ngày xưa có lúc tiếng Việt Hoa phiên âm là Ba nhĩ cán, đọc trại là Ban-căng) gọi là Albania, Croatia, Slovenia, Bosnia-Herzegovina, Montenegro, Serbia, Macedonia tức lãnh thổ Liên Bang Nam Tư trước đây và Vùng Tự trị Kosovo… vv… không hề có tên và tồn tại trong Đế quốc Ottoman.

Skopje ngày ấy là một phần Tỉnh lỵ Hành chính của vùng Kosovo, là Phân khu Hành chính đệ nhất hạng (Vilayet) trong Đế quốc Ottoman. Vilayet là sự phân chia vùng lãnh thổ địa dư trong xã hội Ottoman được hợp thành bên trong những ranh giới quản trị hành chánh một nhóm đa dạng cư dân các sắc tộc và tôn giáo, là điều mà Mẹ Teresa sống và lớn lên chứng kiến tận mắt ngay từ thời thơ bé.

Bên cạnh cuộc sống trong xã hội có lãnh thổ địa lý thuộc vùng ngoại vi, Mẹ Teresa cũng đã trải qua các cuộc sống thực tại trong xã hội ngoại vi thuở đó. Năm bé Agnes mới lên hai tuổi thì các cuộc xung đột nổ ra trong các năm 1912-1913 và đã tàn phá toàn vùng Balkan. Và các cuộc chiến tranh trên toàn vùng Balkan đã ghi dấu sự chấm dứt ách cai trị của Đế quốc Hồi Giáo Ottoman trên toàn vùng Balkan. Hậu qủa xảy ra là sự tách rời và phân chia lại vùng Balkan và các phân khu hành chánh trước đây để lập nên 3 quốc gia mới (*) mang tên là Bulgaria/Bảo gia lợi; Serbia; và Hy lạp/Greece.

Sự phân chia, cắt đứt rồi sát nhập các lãnh thổ, các phân khu hành chánh, các khu hành chánh vào các quốc gia mới này đã đem lại những tai hoạ khủng khiếp cho con người, sự nghèo khổ và xung đột bằng bạo lực đến độ lời nói không thể nào diễn tả được (unspeakable human catastrophes, poverty, and massive violence). Người người phải rời bỏ nhà cửa trốn chạy, bỏ của chạy lấy thân, bị trục xuất, bị thanh lọc vì kỳ thị tôn giáo- văn hoá và nạn diệt chủng, việc tản cư và thảm cảnh xoá sạch hẳn những bộ tộc, làng mạc, các thị trấn và Mẹ Teresa ngay từ bé thơ đã tận mắt thấy nhiều gia đình, cả họ hàng, làng mạc, và cả thị trấn phải chạy trốn đi các nơi khác. Đấy chưa phải là điều xấu nhất đã xảy ra, bởi vì còn nhiều điều tệ hại khủng khiếp hơn nữa sẽ lại tiếp diễn. Suốt cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất vào năm 1914-1918, Macedonia (*) đã trở thành kết cục bất hoà, một thứ qủa đắng trong quan hệ giữa hai quốc gia mới thành lập vào năm 1913 là Serbia/Nam tư và Bulgaria (*). Kinh nghiệm cuộc đời trong các cuộc sống thực tại, hay ở trong vùng ngoại vi tăm tối nhất của các vùng ngoại vi như tên gọi dành cho Miền Tây toàn Vùng Ngoại vi Balkan “ in the periphery of periphery as the Western Balkans” đã trở thành kinh nghiệm sống và hành trang cho Mẹ Teresa sau này đi đến các vùng ngoại vi của Ấn Độ và biến các khu vực ngoại vi, những nơi và vùng cùng đinh xã hội (Dalit= outcasts) ở Ấn Độ trở thành sứ trạng truyền giáo và thực hành Đức Bác ái suốt đời của Mẹ Teresa.

Hơn thế nữa, đã có những giá trị nơi cuộc đời của các vùng ngoại vi được Mẹ Teresa tâm đắc, trân quý và đem áp dụng vào sứ mạng truyền giáo của chính Mẹ và cho tất cả Các Chi nhánh, Tu Hội Dòng sau này do Mẹ sáng lập. Đó chính là Dòng Thừa Sai Bác Ái (the Missions of Charity viết tắt MC). Cha ruột của Mẹ Teresa là cụ Nikolas Bojaxhiu, trước kia là một thương gia đã đi buôn bán khắp nơi kể cả đến Ai cập xa xăm. Thân phụ Nikolas, biết và nói thông thạo vài ngôn ngữ và có kiến thức lịch lãm về một số nền văn hoá và truyền thống khác nhau. Ông bố Nikolas là nhà kể chuyện đại tài khiến cho ba con nhỏ là Age, Lazar và bé út Gonxhe (Mẹ Teresa ngày sau) mê say nghe hàng giờ.
Thân mẫu của Mẹ Teresa là bà Drane Bojaxhiu là một phụ nữ thực tế, có cá tính mạnh mẽ, khéo tay, tháo vát và bà tận tình chăm sóc gia đình, nhiệt thành sống đạo và thực thi Đức Tin Công Giáo.

Khi thân phụ của Mẹ Teresa qua đời và các người góp vốn chung (business partners) với ông Nikolas đã không trả lại
phần góp vốn của người chồng qúa cố khiến cho bà Drane Bojaxhiu trở thành bà goá và không còn một xu dính túi penniless. (Ghi chú: như một nghiên cứu cho biết sinh thời ông Nikolas còn là thành viên của Hội đồng Đại diện Cộng đồng địa phương và ông bị ám sát vào năm mẹ Teresa được 8 tuổi.) Tuy đau khổ và khó khăn cùng cực nhưng bà goá đã bươn chải và thu xếp cuộc sống rất phi thường managed extraordinarily để bảo bọc và nuôi dưỡng ba con nhỏ mồ côi cha.

Yêu Chúa và Phục vụ người lân cận hàng xóm- nền tảng trường học thánh thiện thứ nhất đó là do Mẹ Teresa đã học được từ ngay chính bà Drane Bojaxhiu- thân mẫu của Mẹ. Sống Đạo trong Đức Tin Faith chính là tính cách thường ngày và trọn đời của gia đình Mẹ. Mỗi tối bốn mẹ con bà quây quần bên nhau cùng đọc kinh và cầu nguyện. Bà Drane không chỉ sống đời cầu nguyện liên lỉ mà còn thực sự được xác định qua lòng từ bi và thương xót trong hành động thực tế.

Tuy chỉ là bà goá một nách nuôi ba con nhỏ nhưng bà Drane vẫn nuôi dưỡng và dạy bảo ba người con mồ côi cha rằng các con không bao giờ quên những người nghèo túng, người bị bỏ rơi, và những trẻ em mồ côi không còn cha mẹ hay không được ai chăm sóc. (Never forgoet the poor, the abandoned and the orphans). Sau này Mẹ Teresa đã viết rằng; “ Có rất nhiều người nghèo ở gần nhà cũng như trong vùng Skopje đã biết rõ nhà mẹ của chúng tôi, và không có người nghèo khổ nào đến với gia đình mẹ tôi mà ra về tay không none left empty handed. Ngày nào trên bàn ăn cũng có khách lạ. Thoạt đầu tôi hay thắc mắc; “ Mẹ ơi, họ là ai vậy mẹ?” Mẹ tôi từ tốn trả lời, “ Có vài người là họ hàng thân thuộc, còn tất cả những người khác là người đồng hương của chúng ta ‘Some are relatives, but all of them are our people.’ Sau này lớn khôn hơn tôi nhận thức được rằng
những người được mẹ tôi mời ăn cơm đó là những người nghèo khổ, chẳng có một có đến một xu dính túi (When I was older, I realized that the strangers were poor people who had nothing and whom my mother was feeding.”)

Giúp đỡ người nghèo một cách tích cực và đầy lòng từ bi thương xót là một đặc tính thường xuyên và trọn đời của gia đình nhà Bojaxhiu. Đây là nền tảng trường học thánh thiện thứ hai mà Mẹ Teresa trực tiếp học tập và sống đạo yêu thương từ bi bác ái ngay từ gia đình của mẹ và sau này Mẹ Teresa đem áp dụng ngay vào chính cái “ gia đình riêng có của Mẹ Teresa- tức là Dòng Thừa Sai Bác Ái (cùng Các Tu Hội Dòng Nam Nữ Chiêm Niệm Thừa Sai Bác Ái, Linh Mục Cộng Tác Viên, Thiện Nguyện Viên, Đồng Lao Cộng Khổ):

“ Các con ơi, nếu các con muốn bắt tay làm bất cứ một việc gì, các con phải tận tâm ngay từ đầu, phải hết lòng hết dạ chu toàn công việc ngay từ lúc đầu tiên. Nếu không thì đừng làm gì hết! ” Đó chính là lời bà Drane Bojaxhiu đã khuyên cô con gái út Agnes Gonxhe Bonjaxhiu, (sau này là Mẹ Teresa thành Calcutta) khi cô út quyết định gia nhập Dòng Nữ Tu Loreto. Qủa thực, sau này Mẹ Teresa đã phục vụ các người ở vùng ngoại vi địa lý và cuộc sống thực tại với Tình Yêu và Niềm Vui served with joy and love in the peripheries, không chỉ chăm sóc những người đói khát về thể lý, bị đau đớn cùng cực ở thân xác như mắc bệnh ho lao và phong cùi giữa những người cùng khổ, nhưng Mẹ và Dòng Thừa Sai Bác Ái còn chăm lo đến cả những người sống sung túc no đủ vật chất ở các nước Tây Âu là những người sống trong nạn đói khát khác (a different kind of hunger and were dying for a little love): những người sống sung túc trong các Dưỡng đường, Nhà Dưỡng lão, Trung tâm Cao niên, Phục hồi chức nặng … đã và đang chết lần chết mòn trong cô đơn thinh lặng, chết vì bị vứt bỏ, bị lãng quên, chẳng ai thèm dòm ngó, chết vì thiếu tình yêu và chết vì không được yêu thương chăm sóc tử tế. Mẹ Teresa đã đem đến, đã cung cấp, đã phục vụ cho họ với một Tình Yêu quảng đại, Tình thương bao la và chẳng trông mong được nhận lại hay được đền đáp điều gì. (She provided that love generously, expecting nothing in return. Mẹ Teresa đã nói Yêu Thương là cho tất cả, cho nhưng không, Cho Đến Khi Biết Đau.)

Đức Thánh Cha Phanxico cũng đến từ vùng ngoại vi và hiện nay ngài đang hết sức dũng cảm đem Vùng Ngoại vi vào giữa trung tâm đời sống con người và vào lòng Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phanxico đang tích cực thúc giục và
khuyến khích Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ và mời gọi mọi người hãy can đảm bước ra khỏi cái Vùng no ấm, thoải mái, an toàn của chính Giáo Hội và đi đến với người ở các vùng ngoại vi địa lý và cuộc sống thực tại để ôm ấp và bảo bọc họ (phụ chú: Người Chăn Chiên phải có mùi của Chiên).