Không kể chủ trương của các chính trị gia, điểm khởi đầu của sự sống hiện đã là một sự kiện khoa học rồi. Lúc thụ tinh, nghĩa là lúc tinh trùng và trứng gặp nhau, một con người nhân bản hoàn toàn mới và độc đáo đã được tạo ra. Hợp tử hay trứng thụ tinh một tế bào này có trọn bổ thể (complement) của DNA nhân bản và lập tức bắt đầu diễn trình tự lớn lên và phát triển. Mẹ của hợp tử này cung cấp môi trường nuôi dưỡng để nó phát triển, nhưng bà chỉ là người quan sát thụ động trong khi đứa trẻ triển nở từ hợp tử qua phôi dâu (morula) rồi phôi bào (blastocyst), phôi thai (embryo) và bào thai (fetus). Dọc dài qua suốt chuỗi phát triển liên tục này, không có chỗ nào đưá trẻ lại sinh động ít hay nhiều, nhân bản ít hay nhiều cả, nó luôn sinh động và là người như nhau.
Sự kiện “bất tiện” đó phần lớn bị làm ngơ bởi những người cổ vũ phá thai, dùng tế bào gốc phôi thai cho việc sinh sản vô tính, và các kỹ thuật trợ giúp sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) vốn sử dụng phôi thai người. Thay vào đó, họ sử dụng ngôn ngữ để che đậy sự thực. Lúc thụ thai, họ gọi con người mới được tạo thành đó là “chiếc trứng đã được thụ tinh” như thể việc thụ tinh chỉ là kết quả của việc thay đổi tế bào sinh dục nữ chứ không phải là việc tạo nên một con người nhân bản đầy đủ. Những người bênh vực phá thai không bao giời nói tới thai nhi hay trẻ chưa sinh. Họ gọi các em là phôi thai, bào thai, hay đơn giản chỉ là “sản phẩm của thụ thai”. Chính việc phá thai được họ mô tả là kết thúc thai nghén chứ không nhắc gì tới việc hủy diệt mạng sống sau đó. Tổ chức Planned Parenthood (chuyên phá thai) không bao giờ hỏi “Bà có muốn kết liễu mạng sống của con bà hôm nay không?”. Họ thường bảo bà: “ta hãy kết thúc việc bà mang thai đi” hay “bà có muốn thi hành quyền được chọn lựa và phá thai hôm nay không?” Nên lưu ý, họ không bao giờ nói hết câu để người đàn bà biết hết sự thật về điều bà đang chọn lựa: nghĩa là sự sống hay cái chết cho đứa con chưa sinh của bà.
Ngay định nghĩa của thai nghén cũng bị thao túng để khỏi phải nhìn nhận thụ thai như là khởi đầu của sự sống. Thụ thai thường diễn ra tại vòi Fallopian trong hệ thống sinh sản nữ. Con người nhân bản một tế bào thành hình lúc ấy lớn lên và phát triển khi di chuyển từ vòi vào tử cung. Việc này cần khoảng một tuần. Khi vào tới tử cung, nếu mọi sự diễn tiến tốt đẹp, thì sự sống mới này dính vào thành tử cung, một diễn trình thường được gọi là cấy (implantation). Hiện nay, các hội y khoa của cả Mỹ lẫn Âu Châu đều định nghĩa việc thai nghén như là khởi đầu với việc cấy này chứ không phải với việc thụ thai. Lợi dụng định nghĩa này, người ta cho phép sử dụng các phương pháp kiểm soát sinh đẻ nào không xếp việc cấy này vào loại ngừa thai mà vào loại tác nhân gây phá thai.
Ý thức rằng việc chơi chữ trên vẫn không thay đổi được thực tế là việc ngăn cản diễn trình cấy trên quả có hủy diệt sự sống, những người cổ vũ IUD, tức thuốc viên sáng hôm sau, và các thuốc ngưà thai thông thường bằng hoócmôn từng tìm cách che đậy bản chất phá thai của việc kiểm soát sinh đẻ này. Nhưng nay, đang có cố gắng nhằm dẹp bỏ sự che đậy này bằng cách công khai chấp nhận diễn trình ngăn cản việc cấy kia như là phương thức hợp pháp để kiểm soát sinh đẻ. Viết trên Journal for Family Planning and Reproductive Health Care, một nhóm do Bác Sĩ Elizabeth G. Raymond hướng dẫn đang kêu gọi cộng đồng y khoa dọn đường cho việc chấp nhận và khai triển các loại thuốc phá thai mới. Bước đầu tiên là ma thuật ngôn từ với việc áp dụng thuật ngữ “ngừa thai sau thụ tinh” (post-fertization contraception) cho các loại thuốc và thủ tục nhằm ngăn cản việc cấy kia.
Bước kế tiếp của Bác Sĩ Raymond là ngưng nhấn mạnh tới các cơ chế tiền thụ tinh của nhiều phương pháp kiểm soát sinh đẻ thông thường và nhìn nhận rằng chúng có các hiệu quả hậu thụ tinh. Bà cho rằng quá chú trọng tới việc ngăn cản thụ tinh sẽ làm cho việc ngăn cản diễn trình cấy kia thành ô nhục theo nghĩa việc trên đáng mong ước hơn việc sau. Điều đáng lưu ý là Bác Sĩ Raymond tự ý thú nhận rằng việc kinh niên sử dụng phương pháp ngừa thai bằng hoócmôn quả có thay đổi màng tử cung, khiến nó khó tiếp nhận phôi thai đang phát triển. Thay vì tối thiểu hóa ý nghĩa của các hậu quả này, Bác Sĩ Raymond thúc giục các nhà chuyên nghiệp ngành y ủng hộ các cơ chế hậu thụ tinh. Bà cho rằng chỉ cần các bác sĩ chịu nói rằng ngăn cản không cho trứng thụ tinh được cấy vào thành tử cung là một điều kỳ diệu, thì các phụ nữ sẽ tin là như thế.
Cuối cùng, bà kêu gọi phải nghiên cứu và khai triển nhiều phương pháp hậu thụ tinh hơn nữa để kiểm soát sinh đẻ. Bà dự kiến phát triển một loại thuốc có thể dùng như một thứ “ngừa thai cấp cứu” (emergency contraception) sau khi giao hợp cả 4 tuần lễ. Thêm vào đó, loại thuốc như vừa nói chỉ cần mỗi tháng dùng một lần một cách thường xuyên sẽ ngăn cản hay ngưng được việc có thai, bất kể người đàn bà làm tình bao nhiêu lần trong tháng. Bác sĩ Raymond lý luận rằng phụ nữ muốn và cần các phương thức hậu thụ tinh đó và việc phát triển loại thuốc này vốn gặp trở ngại từ các tranh cãi chính trị hơn là khoa học.
Bác sĩ Raymond trưng dẫn kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu quốc tế cho thấy phụ nữ coi phương thức dùng thuốc chấm dứt thai nghén hợp “tự nhiên” hay hợp với các quan điểm tôn giáo và đạo đức nhiều hơn, vì các quan điểm này vốn chống lại việc phá thai bằng mổ xẻ. Bà gợi ý rằng bất cứ thuốc nào “khai quang” tử cung mà không xác định thai nghén đã xẩy ra chưa dễ được chấp nhận hơn nơi các cộng đồng minh nhiên ngăn cấm phá thai.
Điều Bác Sĩ Raymond thực sự muốn nói là: nếu những người ủng hộ phá thai trong cộng đồng y khoa và các đồng minh của họ chịu giữ phụ nữ trong đêm tối, không cho họ biết những gì thực sự xẩy ra trong cơ thể họ, thì họ sẽ chấp nhận các can thiệp hậu thụ tinh. Xem ra bà muốn huấn luyện phụ nữ để họ đừng hỏi các câu hỏi liên quan tới việc thụ thai đã xẩy ra hay chưa và chỉ cần diệt màng tử cung để bất cứ đứa trẻ đang phát triển nào cũng chẩy đi theo dòng kinh nguyệt mà không cần được báo trước. Họ chỉ cần giả đò là một tuần sự sống diễn ra trước lúc được cấy chưa hề hiện hữu.
Phương thức trên rất giống với phương thức của những người cổ vũ phá thai; những người này đang chống lại việc thông tri cho phụ nữ biết trình độ phát triển của đứa trẻ chưa sinh hay việc cho phụ nữ xem các hình ảnh siêu âm về đứa con đang phát triển của họ. Khi một phụ nữ thấy ra rằng đứa con trong dạ họ không phải là một cục tế bào vô hồn mà là một hữu thể nhân bản sống động, bà sẽ khó có thể phá thai. Cũng thế, khi một phụ nữ hiểu ra rằng sự sống đứa con của bà khởi đầu từ lúc thụ tinh, chứ không phải sau khi được cấy, bà sẽ coi các can thiệp hậu thụ tinh đơn thuần là phá thai, bất kể người ta gọi chúng là gì.
Sự sống khởi đầu từ lúc thụ thai. Ta không thể thay đổi được điều đó bằng cách từ khước không thừa nhận có thai cho tới lúc việc cấy đã xẩy ra. Cũng thế, gọi thuốc phá thai là “ngừa thai hậu thụ tinh” không thay đổi được sự kiện này là bất cứ loại thuốc hay thủ tục nào ngăn cản việc cấy kia đều hủy diệt sự sống mới bắt đầu. Sự sống này, bất luận nhỏ nhoi ra sao, vẫn là một hữu thể nhân bản đầy đủ giống hình ảnh Thiên Chúa với một phẩm giá nội tại mà không ai được quyền vi phạm. Không một lượng ăn nói lưỡng nghĩa kiểu Orwell nào có thể thay đổi được sự thật này.
Viết theo, Denise Hunnell, MD, Chuyên viên tại Human Life International, một tổ chức phò sự sống quốc tế.
Sự kiện “bất tiện” đó phần lớn bị làm ngơ bởi những người cổ vũ phá thai, dùng tế bào gốc phôi thai cho việc sinh sản vô tính, và các kỹ thuật trợ giúp sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) vốn sử dụng phôi thai người. Thay vào đó, họ sử dụng ngôn ngữ để che đậy sự thực. Lúc thụ thai, họ gọi con người mới được tạo thành đó là “chiếc trứng đã được thụ tinh” như thể việc thụ tinh chỉ là kết quả của việc thay đổi tế bào sinh dục nữ chứ không phải là việc tạo nên một con người nhân bản đầy đủ. Những người bênh vực phá thai không bao giời nói tới thai nhi hay trẻ chưa sinh. Họ gọi các em là phôi thai, bào thai, hay đơn giản chỉ là “sản phẩm của thụ thai”. Chính việc phá thai được họ mô tả là kết thúc thai nghén chứ không nhắc gì tới việc hủy diệt mạng sống sau đó. Tổ chức Planned Parenthood (chuyên phá thai) không bao giờ hỏi “Bà có muốn kết liễu mạng sống của con bà hôm nay không?”. Họ thường bảo bà: “ta hãy kết thúc việc bà mang thai đi” hay “bà có muốn thi hành quyền được chọn lựa và phá thai hôm nay không?” Nên lưu ý, họ không bao giờ nói hết câu để người đàn bà biết hết sự thật về điều bà đang chọn lựa: nghĩa là sự sống hay cái chết cho đứa con chưa sinh của bà.
Ngay định nghĩa của thai nghén cũng bị thao túng để khỏi phải nhìn nhận thụ thai như là khởi đầu của sự sống. Thụ thai thường diễn ra tại vòi Fallopian trong hệ thống sinh sản nữ. Con người nhân bản một tế bào thành hình lúc ấy lớn lên và phát triển khi di chuyển từ vòi vào tử cung. Việc này cần khoảng một tuần. Khi vào tới tử cung, nếu mọi sự diễn tiến tốt đẹp, thì sự sống mới này dính vào thành tử cung, một diễn trình thường được gọi là cấy (implantation). Hiện nay, các hội y khoa của cả Mỹ lẫn Âu Châu đều định nghĩa việc thai nghén như là khởi đầu với việc cấy này chứ không phải với việc thụ thai. Lợi dụng định nghĩa này, người ta cho phép sử dụng các phương pháp kiểm soát sinh đẻ nào không xếp việc cấy này vào loại ngừa thai mà vào loại tác nhân gây phá thai.
Ý thức rằng việc chơi chữ trên vẫn không thay đổi được thực tế là việc ngăn cản diễn trình cấy trên quả có hủy diệt sự sống, những người cổ vũ IUD, tức thuốc viên sáng hôm sau, và các thuốc ngưà thai thông thường bằng hoócmôn từng tìm cách che đậy bản chất phá thai của việc kiểm soát sinh đẻ này. Nhưng nay, đang có cố gắng nhằm dẹp bỏ sự che đậy này bằng cách công khai chấp nhận diễn trình ngăn cản việc cấy kia như là phương thức hợp pháp để kiểm soát sinh đẻ. Viết trên Journal for Family Planning and Reproductive Health Care, một nhóm do Bác Sĩ Elizabeth G. Raymond hướng dẫn đang kêu gọi cộng đồng y khoa dọn đường cho việc chấp nhận và khai triển các loại thuốc phá thai mới. Bước đầu tiên là ma thuật ngôn từ với việc áp dụng thuật ngữ “ngừa thai sau thụ tinh” (post-fertization contraception) cho các loại thuốc và thủ tục nhằm ngăn cản việc cấy kia.
Bước kế tiếp của Bác Sĩ Raymond là ngưng nhấn mạnh tới các cơ chế tiền thụ tinh của nhiều phương pháp kiểm soát sinh đẻ thông thường và nhìn nhận rằng chúng có các hiệu quả hậu thụ tinh. Bà cho rằng quá chú trọng tới việc ngăn cản thụ tinh sẽ làm cho việc ngăn cản diễn trình cấy kia thành ô nhục theo nghĩa việc trên đáng mong ước hơn việc sau. Điều đáng lưu ý là Bác Sĩ Raymond tự ý thú nhận rằng việc kinh niên sử dụng phương pháp ngừa thai bằng hoócmôn quả có thay đổi màng tử cung, khiến nó khó tiếp nhận phôi thai đang phát triển. Thay vì tối thiểu hóa ý nghĩa của các hậu quả này, Bác Sĩ Raymond thúc giục các nhà chuyên nghiệp ngành y ủng hộ các cơ chế hậu thụ tinh. Bà cho rằng chỉ cần các bác sĩ chịu nói rằng ngăn cản không cho trứng thụ tinh được cấy vào thành tử cung là một điều kỳ diệu, thì các phụ nữ sẽ tin là như thế.
Cuối cùng, bà kêu gọi phải nghiên cứu và khai triển nhiều phương pháp hậu thụ tinh hơn nữa để kiểm soát sinh đẻ. Bà dự kiến phát triển một loại thuốc có thể dùng như một thứ “ngừa thai cấp cứu” (emergency contraception) sau khi giao hợp cả 4 tuần lễ. Thêm vào đó, loại thuốc như vừa nói chỉ cần mỗi tháng dùng một lần một cách thường xuyên sẽ ngăn cản hay ngưng được việc có thai, bất kể người đàn bà làm tình bao nhiêu lần trong tháng. Bác sĩ Raymond lý luận rằng phụ nữ muốn và cần các phương thức hậu thụ tinh đó và việc phát triển loại thuốc này vốn gặp trở ngại từ các tranh cãi chính trị hơn là khoa học.
Bác sĩ Raymond trưng dẫn kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu quốc tế cho thấy phụ nữ coi phương thức dùng thuốc chấm dứt thai nghén hợp “tự nhiên” hay hợp với các quan điểm tôn giáo và đạo đức nhiều hơn, vì các quan điểm này vốn chống lại việc phá thai bằng mổ xẻ. Bà gợi ý rằng bất cứ thuốc nào “khai quang” tử cung mà không xác định thai nghén đã xẩy ra chưa dễ được chấp nhận hơn nơi các cộng đồng minh nhiên ngăn cấm phá thai.
Điều Bác Sĩ Raymond thực sự muốn nói là: nếu những người ủng hộ phá thai trong cộng đồng y khoa và các đồng minh của họ chịu giữ phụ nữ trong đêm tối, không cho họ biết những gì thực sự xẩy ra trong cơ thể họ, thì họ sẽ chấp nhận các can thiệp hậu thụ tinh. Xem ra bà muốn huấn luyện phụ nữ để họ đừng hỏi các câu hỏi liên quan tới việc thụ thai đã xẩy ra hay chưa và chỉ cần diệt màng tử cung để bất cứ đứa trẻ đang phát triển nào cũng chẩy đi theo dòng kinh nguyệt mà không cần được báo trước. Họ chỉ cần giả đò là một tuần sự sống diễn ra trước lúc được cấy chưa hề hiện hữu.
Phương thức trên rất giống với phương thức của những người cổ vũ phá thai; những người này đang chống lại việc thông tri cho phụ nữ biết trình độ phát triển của đứa trẻ chưa sinh hay việc cho phụ nữ xem các hình ảnh siêu âm về đứa con đang phát triển của họ. Khi một phụ nữ thấy ra rằng đứa con trong dạ họ không phải là một cục tế bào vô hồn mà là một hữu thể nhân bản sống động, bà sẽ khó có thể phá thai. Cũng thế, khi một phụ nữ hiểu ra rằng sự sống đứa con của bà khởi đầu từ lúc thụ tinh, chứ không phải sau khi được cấy, bà sẽ coi các can thiệp hậu thụ tinh đơn thuần là phá thai, bất kể người ta gọi chúng là gì.
Sự sống khởi đầu từ lúc thụ thai. Ta không thể thay đổi được điều đó bằng cách từ khước không thừa nhận có thai cho tới lúc việc cấy đã xẩy ra. Cũng thế, gọi thuốc phá thai là “ngừa thai hậu thụ tinh” không thay đổi được sự kiện này là bất cứ loại thuốc hay thủ tục nào ngăn cản việc cấy kia đều hủy diệt sự sống mới bắt đầu. Sự sống này, bất luận nhỏ nhoi ra sao, vẫn là một hữu thể nhân bản đầy đủ giống hình ảnh Thiên Chúa với một phẩm giá nội tại mà không ai được quyền vi phạm. Không một lượng ăn nói lưỡng nghĩa kiểu Orwell nào có thể thay đổi được sự thật này.
Viết theo, Denise Hunnell, MD, Chuyên viên tại Human Life International, một tổ chức phò sự sống quốc tế.