Tuyên bố của Hiệp hội Y khoa Công giáo
WASHINGTON, D.C (Zenit.org).- Hiệp hội Y khoa Công giáo đã cập nhật hóa bản tuyên bố của mình về sự đồng tính luyến ái. Nguyên bản, gồm có tiểu sử và những ghi chú, có thể lấy được qua http://www.cathmed.org/index.html
* * *
Đồng tính luyến ái và Hy vọng Tuyên bố của Hiệp hội Y khoa Công giáo
Phần 1 Những nhận xét
DẪN NHẬP
Hiệp hội Y khoa Công giáo tự nguyện nêu lên những nguyên lý Đức tin Công giáo liên hệ với việc thực hành y khoa và với việc cổ võ nền đạo đức học y khoa Công giáo cho nghề thầy thuốc, kể cả những người chuyên về sức khỏe tâm thần, hàng giáo sĩ, và công chúng nói chung. Không vấn đề nào đã gây nhiều quan tâm hơn trong thập niên qua cho bằng sự đồng tính luyến ái và do đó, CMA cống hiến bản tóm lượt và duyệt lại sau đây về tình trạng vấn đề. Bản tóm lượt này dựa cách bao quát trên những kết luận của các cuộc nghiên cứu khác nhau và chỉ rõ tính nhất quán của các huấn giáo Giáo hội với những nghiên cứu này. Hy vọng rằng sự duyệt xét này cũng sẽ giúp ích như một dụng cụ giáo dục vá qui chiếu cho hành giáo sĩ Công giáo, cho các thầy thuốc, các nhà chuyên Sức khoẻ tâm thần, các nhà giáo dục, các cha mẹ và công chúng nói chung.
CMA ủng hộ những huấn giáo của Giáo hội Công giáo như được trình bày trong bản tu sửa của Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, cách riêng đến những huấn giáo về tình dục. "Mọi tín hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh" (GLGHCG, no. 2348); "Người có gia đình được mời giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng, người độc thân giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục" (SGLGHCG, no 2349); "truyền thống Giáo hội luôn tuyên bố rằng các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn... Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào" (GLHTCG,no 2357).) Với ân sủng của Thiên Chúa, mọi người đều có khả năng sống một đời sống khiết tịnh, kể cả những người mắc phải sự hấp dẫn đồng phái tính, như Hồng Y George Tổng Giám mục Chicago đã tuyên bố mạnh mẽ khi ngài phát biểu trước Hiệp hội Quốc gia của những Thừa tác vụ Giáo phận về người Nữ và Nam Đồng tính luyến ái: "Phủ nhận quyền lực của ân sủng Chúa có khả năng giúp những người bị hấp dẫn đồng tính luyến ái sống đức khiết tịnh, trên thực tế đó là phủ nhận Ðức Giêsu đã sống lại từ kẻ chết."
Chắc chắn có những tình huống, như những rối loạn tâm lý và những kinh nghiệm đau buồn, mà đôi khi làm cho đức khiết tịnh khó giữ hơn, và có những tình huống có thể làm giảm thiểu nghiêm trọng đến trách nhiệm cá nhân vì những sa ngã trong đức khiết tịnh. Dầu sao đi nữa, những tình huống và những điều kiện này không phủ nhận sự tự do hay loại trừ quyền lực ân sủng. Khi nhiều người nam và nữ mắc phải những hấp dẫn đồng phái, khi nói rằng sự ham muốn tình dục của họ đối với những kẻ đồng phái với mình được cảm giác như là một "điều được cống hiến", điều này không hoàn toàn ngụ ý cho một sự tiền định về mặt di truyền học hay là một điều kiện không thể sửa đổi. Một số người đầu hàng đối với sự hấp dẫn đồng phái bởi vì họ được cho biết họ sinh ra với sự hấp dẫn này và không thể thay đổi bản chất tình dục của họ. Những người như vậy có thể cảm thấy là điều vô ích và tuyệt vọng nếu chống lại những ý muốn đồng phái, và chấp nhận một "căn tính đồng tính luyến ái." Cũng những người này có thể cảm thấy bị đè nén bởi sư kiện là xã hội và tôn giáo, nhất là Giáo hội Công giáo, không chấp nhận sự biểu lộ những ý muốn này trong những hành vi đồng tính luyến ái.
Sự nghiên cứu được qui chiếu trong tường thuật này đi ngược lại huyền thoại nói sự hấp dẫn đồng phái được ấn định trước do di truyền và không thể thay đổi, và cung cấp hy vọng ngăn ngừa và chửa trị.
1) Không được sinh ra kểu này
Một số nhà nghiên cứu đã cố tìm một nguyên nhân thuộc sinh vật học cho sự hấp dẫn đồng phái. Các phương tiện truyền thông đã cổ võ ý niệm là đã khám phá một "gen đồng tính luyến ái", nhưng dầu qua nhiều cuộc nỗ lực, không có cái nào trong những cuộc nguyên cứu phổ biến nhất đã được chứng minh theo khoa học. Một số tác giả đã cẩn thận duyệt xét những nguyên cứu này và đã nhận thấy không những các cuộc nghiên cứu không chứng minh một nền tảng nào cho sự hấp dẫn đồng phái, mà những báo cáo cũng không hứa đựng những yêu sách đó.
Nếu sự hấp dẫn đồng phái được ấn định trước do di truyền, lúc đó người ta phải chờ đợi những cặp đôi giống nhau sẽ giống nhau trong những sự hấp dẫn tình dục của họ. Dầu vậy, nhiều báo cáo về những cặp giống nhau không giống nhau trong những hấp dẫn tình dục của họ. Những hồ sơ bệnh lý thường tiết lộ những nhân tố môi trường giải thích sự phát triển của những mẫu hấp dẫn tình dục khác nhau trong những đứa nhỏ giống nhau về mặt di truyền, bằng cách ủng hộ lý thuyết cho rằng xu hướng đồng phái là một sản phẩm phát sinh do sự tương tác của nhiều yếu tố môi trường.
Dầu sao, có những nỗ lực đang tiến hành để thuyết phục công chúng rằng sự hấp dẫn đồng phái có cơ sở di truyền. Những nỗ lực đó có thể vì lý do chính trị, bởi vì dân chúng dường như sẵn sàng đáp ứng tích cực cho những đòi hỏi thay đổi trong luật pháp và huấn giáo tôn giáo khi ho tin sự hấp dẫn tình dục được ấn định do di truyền và không thể thay đổi. Những người khác tìm cách chứng minh một nền tảng di truyền cho sự hấp dẫn đồng phái đến nỗi họ có thể kêu tới các toà án cho những quyền dựa trên "tính cố định."
Người Công giáo tin rằng tính dục được Thiên Chúa ấn định như một dấu tình yêu của Chúa Kitô, phu quân đối với Nàng Dâu là Giáo hội, và do đó sinh hoạt tình dục chỉ thích hợp trong hôn nhân. Huấn giáo Công giáo chủ trương rằng: "Theo ý định của Thiên Chúa phái tính hướng về tình yêu vợ chồng. Trong hôn nhân ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần" (GLGHCG, No 1360). Sự phát triển tâm lý-tình dục lành mạnh tư nhiên đưa tới sự hấp dẫn trong những nhân vị của mổi phái tính đối với phái tính khác. Vết thương lòng, sự giáo dục sai lầm, và tội lỗi có thể gây ra sự lệch lạc cho kiểu mẫu này. Những con người không thể đồng hóa với những vụ xung đột tình cảm hay phát triển của mình, dường như sự đó là bản tính căn tính của họ.
Trong sự tranh luận giữa thuyết thiết yếu và thuyết xây dựng xã hội, người tin vào luật thiên nhiên sẽ chủ trương rằng những con người có một bản tính thiết yếu --hoặc nam hoặc nữ và những xu hướng tội lỗi (như sự ước muốn dấn thân vào những hành vi đồng tính luyến ái) được xây dựng và do đo có thể bị phá vỡ.
Do đó, điều khôn ngoan là tránh tất cả việc xử dụng những tiếng "đồng tính luyến ái" và "tình dục khác phái" như những danh từ, bởi vì việc xử dụng như thế ám chỉ một tình trạng cố định và một sự tương đương giữa tình trạng tự nhiên của người nam và người nữ như đước Thiên Chúa tạo dựng và những con người mắc phải những hấp dẫn hay những cách cư xử đồng phái.
2) Sự hấp dẫn đồng phái như là một triệu chứng
Các cá nhân mắc phải những sự hấp dẫn đồng phái vì nhiều lý do. Dầu có những sự giống nhau trong các kiểu phát triển, mỗi một cá nhân có một lịch sử độc đáo, cá nhân. Trong lịch sử của những người mắc phải sự hấp dẫn đồng phái, người ta thường gặp một hay nhiều hơn trong những sự kiện sau đây:
- sự tha hóa đối với người cha trong thời ấu thơ, bởi vì người cha bị coi như kẻ thù hay xa lạ, bạo tàn hay là nghiện rượu. -người mẹ được bảo vệ quá mức cần thiết (con trai) -người mẹ nghèo đói và hay đòi hỏi (con trai) -người mẹ nghèo về mặt tình cảm(con gái) -cha mẹ không biết khuyến khích sự nhận dang đồng phái -sự thiếu trò chơi gay go và hỗn loạn (con trai) -thiếu sự nhận dạng với các bạn đồng lứa -sự không thích những thể dục theo nhóm (con trai) -sự thiếu phối hợp tay/mắt và sự trêu chọc tiếp sau của bạn đồng lứa (con trai) -lạm dụng tình dục hay cưỡng hiếp -sự ám ảnh sợ xã hội hay tính nhát sợ quá lẽ -mất cha mẹ vì chết hay ly dị -cách ly cha me trong những giai đoạn phát triển khủng hoảng Trong một số trường hợp, sự hấp dẫn hay sinh hoạt đồng phái xảy ra trong một bệnh nhân với chẩn đoán tâm lý khác như -sự buồn nản lớn -có ý nghĩ tự tử -rối loạn do âu lo tổng quát -lạm dụng tiền của -rối loạn hành xử trong những kẻ truởng thành -rối loạn ranh giới cá tính -bịnh tâm thần phân liệt -tính tự yêu mình bịnh hoạn.
Trong một ít trường hợp, sự ứng xử đồng tính luyến ái xuất hiện về sau trong sự sống, như là một đáp ứng với một chấn thương như sự phá thai, hay là sự cô độc thâm sâu
3/ Sự hấp dẫn đồng phái có thể phòng ngừa
Nếu những nhu cầu tình cảm và phát triển của mỗi đứa nhỏ được cha mẹ và bè bạn đáp ứng cách thích hợp, thì sự hấp dẫn đồng phái không chắc phát triển.Trẻ con cần tình âu yếm, sự khen lao và sự tin tưởng bởi mỗi cha mẹ, anh chị em khác cha mẹ và những bạn bè. Những hoàn cảnh xã hội và gia đình như thế, dầu sao, không dễ gi có được và những nhu cầu của trẻ con không luôn luôn nhận diện cách dễ dàng.
Một số cha mẹ có thể tranh đấu với những thử thách riêng của mình và không có khả năng chú ý và nâng đỡ như con cái mình đòi hỏi.Thỉnh thoảng cha mẹ làm việc rất cực nhọc, nhưng cá tính riêng của đứa con làm cho sự nâng đỡ và nuôi dưỡng trở nên khó khăn hơn. Một số cha mẹ thấy những dấu khởi đầu, tìm kiếm sự trợ giúp và lời khuyên nghề nghiệp, và nhận lời khuyên không thích hợp, và trong vài trường hợp nhận những lời khuyên sai lầm. Khoa chẩn đoán và Quyển thứ IV Thống kê của Hiệp hội Nghiên cứu và Điều trị bịnh tâm thần America đã định nghĩa sự Rối loạn Căn tính Giống (GID) trong đứa bé như là môt sự đồng hóa về giống ngược, dai dẳng, mạnh, một sự khó chịu với chính phái tính của mình, và một sự thích thú đối với những vai trò phái tính ngược trong trò chơi hay những sở thích. Một số nhà nghiên cúu đã nhận diện một dấu hiệu khác ít mạnh hơn đối với con trai là những cảm giác kinh niên không có tính đàn ông. Những trẻ trai này, dầu khi không dấn thân trong một trò chơi hay những sở thích phái tính nào, cảm thấy không thích hợp chút nào trong tính nam của mình và có một phản ứng hầu như sợ trò chơi thô bạo và xáo trộn trong tuổi bé, thường đi kèm theo sự không thích những nhóm thể thao. Nhiều sự nghiên cứu đã cho thấy trẻ nhỏ bị Rối loạn Căn tính Giống và những trẻ trai không có tính đàn ông kinh niên lúc nhỏ, có nguy cơ bị hấp dẫn đồng phái trong tuổi trưởng thành.
Sự nhận dạng sớm và sự can thiệp chuyên nghiệp thích hợp, nếu được cha mẹ nâng đỡ, thường có thể thắng sự rối loạn căn tính về giống. Vô phúc thay, nhiều cha mẹ thuật lại những lo âu này với bác sĩ khoa nhi thì được nói đừng quan tâm về những sự đó. Trong một vài trường hợp những triệu chứng và những quan tâm của cha mẹ có thể xem ra giảm thiểu khi đứa con đi vào gai doạn hai hay ba, nhưng nếu không được xử lý đúng, những triệu chứng có thể tái xuất hiện tới tuổi dậy thì như là một sự hấp dẫn đồng phái mạnh. Sự hấp dẫn này xem ra là hậu quả của sự thiếu nhận dạng cách tích cực với phái tính riêng của mình. Điều quan trọng là những kẻ chăm lo và giáo dục trẻ nhỏ phải biết những dấu chỉ của sự rối loạn căn tính về giống và của sự vô tính đàn ông kinh niên lúc bé, và chạy tới những nguồn mạch có khả năng tìm ra sự giúp đỡ thích hợp cho những trẻ này. Một khi xác tín rằng sự hấp dẫn đồng phái không phải là một sự rối loạn được ấn định do di truyền, người ta có khả năng hy vọng về sự ngăn ngừa và về kiểu trị bịnh để làm dịu nhiều, nếu không loại trừ, những hấp dẫn đồng phái.
4) Có nguy cơ, tiền định
Đang khi một số nghiên cứu chứng tỏ rằng những trẻ con nào bị lạm dụng tình dục, những trẻ con có dấu chứng GID, và những trẻ trai không có nam tính kinh niên lúc bé, có nguy cơ bị hấp dẫn đồng phái trong tuổi thanh niên và trưởng thành, điều quan trọng là lưu ý một phàn trăm có ý nghĩa của những trẻ này không biến thành kẻ ham thích đồng tính luyến ái khi trưởng thành.
Đối với một số trẻ, những kinh nghiệm tiêu cực tuổi trẻ được chiến thắng bởi những tương tác tích cực sau này. Một số quyết tâm xa lánh cơn cám dỗ. Sự hiện diện và quyền lực của ân sủng Chúa, tuy không thề đo lường được luôn, không thể bị lờ đi như một nhân tố trong việc giúp một cá nhân lâm nguy xa lánh sự hấp dẫn đồng phái.
Sự phân loại một kẻ trưởng thành, hay tệ hơn một em bé, như là một kẻ "đồng tính luyến ái bất biến" làm cho cá nhân đó mắc một hại lớn. Những kẻ trưởng thành hay con nít như thế có thể, với sự can thiệp thích hợp, tích cực, được hướng dẫn đúng cách để xử lý với những chấn thương tình cảm sớm.
5) Trị liệu
Những người ủng hộ ý niệm rằng xu hướng tình dục là không thay đổi, thường trích dẫn từ một cuộc tranh cải phổ biến giữa Bác Sĩ C.C. Tripp và Bác Sĩ Lawrence Hatterer, trong đó Bác Sĩ Tripp tuyên bố: "không có lấy một trường hợp ghi nhận về sự thay đổi trong xu hướng đồng tính luyến ái được chứng minh bởi những thẩm phán hay bởi chứng từ bên ngoài. Kinsey không có khả năng tìm được lấy một bệnh nhân. Và cả Bác Sĩ Pomeroy cũng như tôi không có khả năng tìm ra một bệnh nhân như vậy. Chúng tôi sẽ vui mừng nếu có được một bệnh nhân từ Bác Sĩ Hatterer." (Tripp &Hatterer,1971). Họ bỏ qua qui chiếu đến câu trả lời của Bác Sĩ Hatterer. “Tôi đã ‘chửa trị’ nhiều người đồng tính luyến ái, Bác Sĩ Tripp. Bác Sĩ Pomeroy hay bất cứ nhà nghiên cứu nào khác có thể xem xét công việc tôi làm, bởi vì công việc đó được chứng minh tất cả bằng tài liệu trong 10 năm ghi băng. Nhiều người trong số những bịnh nhân ‘được chửa lành’ (tôi thích dùng tiếng ‘thay đổi’) đã kết hôn, có gia đình và sống những đời sống hạnh phúc. Đây là một huyền thoại phá hoại khi nói ‘ đã là một người đồng tính luyến ái, thì luôn luôn là một người đồng tính luyến ái." Huyền thoại đó đã làm và sẽ làm nên hàng triệu người đồng tính luyến ái dấn thân hơn. Điều hơn nữa, không những tôi mà nhiều nhà chữa trị thần kinh danh tiếng khác (Bác Sĩ Samuel B. Hadden, Bác Sĩ Lionel Oversey, Bác Sĩ Charles Socarides, Bác Sĩ Harold Lief, Bác Sĩ Irving Bieber, và những người khác) đã báo cáo những chửa trị hiệu nghiệm của họ cho người đồng tính luyến ái mà có thể chửa trị được." (Tripp & Hatterer 1971) Một số nhà chữa trị bịnh đã viết nhiều về những kết quả tích cực của việc chữa trị sự hấp dẫn đồng phái. Tripp đã chọn làm ngơ một nhiều phổ biến văn từ về sự chữa trị và về những khảo sát của các nhà chữa trị bịnh tâm thần. Những sự xem xét lại về việc điều trị những hấp dẫn bất ưng đồng phái, chứng tỏ rằng việc điều trị đó cũng hiệu nghiệm như sự điều trị những vấn đề tâm lý khác: lối 30% cảm thấy tư do khỏi những triệu chứng và 30% khác cảm thấy khá hơn. Những báo cáo từ các nhà chữa trị tâm thần cá nhân cũng có tính tích cực.
Cũng có nhiều báo cáo tự thuật từ những người nam và người nữ mà một thời đã tin chính mình bị ràn buộc không thể thay đổi bởi những hấp dẫn và những cách ứng xử đồng phái. Nhiều người nam và nữ này, bây giờ tự chính họ bày tỏ như được tự do khỏi sự hấp dẫn, sự mơ tưởng ảo huyền và cách ứng xử đồng phái. Hầu hết những cá nhân này tìm được sự tự do nhờ tham gia trong những nhóm nâng đỡ có nền tảng-tôn giáo, mặc dầu một số còn phải chạy tới các nhà chữa trị tâm thần. Vô phúc thay, một số người có ảnh hưởng và những nhóm người chuyên nghiệp không đếm xỉa đến sự hiển nhiên này và xem ra như có mộtcố gắng được sắp xếp phối hợp về phía những "người biện hộ đồng tính luyến ái" phủ nhận tính hiệu năng của việc chữa trị sự hấp dẫn đồng phái, hay là đổ thừa một sự chữa trị như thế là có hại. Barnhouse bày tỏ sự ngạc nhiên đối với những cố gắng này: "Sự bóp méo về thực tế do những nhà biện hộ đồng tính luyến ái phủ nhận điều kiện có thể chạy chữa được, (sự bóp mép đó) quá lớn đến nỗi người ta ngạc nhiên động cơ nào thúc đẩy."
Bác Sĩ Robert Spitzer,M.D., nhà nghiên cứu chữa trị tâm thần Đại học danh tiếng Columbia, con người đã trực tiếp dấn thân trong quyết định 1973 loại trừ tính đồng tính luyến ái khỏi danh sách của Hiệp hội Chữa trị Tâm Thần America về những rối loạn tâm thần, mới đây đã dấn thân trong việc tìm ra khả năng của sự thay đổi.
Bác Sĩ Spitzer tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn : " Tôi xác tín rằng nhiều người đã có những thay đổi cơ bản để trở thành người theo tình dục khác phái... Tôi tưởng đó là tin tức... Tôi hồ nghi về cuộc nghiên cứu này. Bây giờ tôi tuyên bố rằng những thay đổi đó có thể chấp nhận được."
6) Những mục đích chữa trị
Những người khẳng định rằng sự thay đổi xu hướng phái tính là không thể được, thường định nghĩa sự thay đổi như là sự tự do hoàn toàn và thường xuyên khỏi mọi hành xử, mơ mộng hay hấp dẫn đồng tính luyền ái trong một con người trước kia đã là đồng tính luyến ái qua cách hành xử và hấp dẫn. Dầu khi sự thay đổi được định nghĩa cách quá khích này, lời khẳng định không đúng sự thật. Nhiều cuộc nghiên cứu báo cáo những trường hợp thay đổi hoàn toàn.
Những người phủ nhận khả năng thay đổi hoàn toàn, công nhận rằng sự thay đổi cách hành xử là có thể được và những người đã liên hệ tình dục với cả hai phái xem ra có khả năng thay đổi. Đọc kỹ những bài chống đối việc chữa trị để có sự thay đổi, thì thấy rằng, những tác giả thấy việc chữa trị để có sự thay đổi là trái với đạo đức, là vì họ thấy sự chữa trị đó như chống lại những kẻ không muốn thay đổi và thấy những người mê theo tình dục đồng phái mà lại tỏ ý muốn thay đổi như là những nạn nhân của sự ức chế xã hội hay tôn giáo.
Phải ghi chú rằng hầu hết không có trường hợp ngoại lệ, những người nào xem việc chữa trị là vô đạo đức, thì cũng loại trừ việc kiêng cử khỏi sinh hoạt tình dục không -hôn nhân như là một mục đích rất nhỏ, và giữa những thầy thuốc chữa trị nào chấp nhận những hành vi đồng tính luyến ái là bình thường, có nhiều kẻ không cho gì là sai trái với sự bất tín trong những quan hệ đã cam kết, trong những cuộc gặp gỡ tình dục vô danh, trong sự trà trộn chung, tình tự dâm đãng, tính bạo dâm và thông dâm, và nhiều thứ tình yêu khác. Cũng có một số người ủng hộ việc bớt hạn chế tình dục giữa những kẻ trưởng thành và trẻ nhỏ hay là phủ nhận ảnh hưởng tâm lý tiêu cực của sự lạm dụng tình dục trẻ nhỏ. Một số những người xem việc chữa trị là vô đạo đức, thì cũng thách đố những lý thuyết đã được thiết lập về sự phát triển trẻ con. Những người này nhằm trách cứ về những vấn đề không thể chối cãi do những thanh niên và kẻ trưởng thành đồng tính luyến ái phải chịu đựng do sức ép xã hội. Tấtcả những kết luận nghiên cứu phải được đánh giá trong ánh sáng những thống kê sai lệch mà các nhà nghiên cứu mang lại cho dự án. Khi sự nghiên cứu được truyền cho chương trình nghi sự chính trị hữu ý, thì giá trị của nó giảm đi cách nghiêm trọng. Phải nói rõ người Công giáo không thể ủng hộ những hình thức chữa trị nào khuyến khích các người bịnh thay thế một hình thức tội tình dục bằng một hình thức khác.Ví dụ, một số nhà chữa trị không coi một bịnh nhân "được chữa lành" cho tới khi bệnh nhân có thể dấn thân thoải mái tình dục với người khác phái, cho dầu bệnh nhân không có kết hôn. Những nhà chữa trị khác khuyên những bệnh nhân thủ dâm bằng cách xử dụng hình ảnh của người khác phái. Đối với một người Công giáo bị hấp dẫn đồng phái, mục đích chữa trị phải được sự tự do sống đức khiết tịnh theo hoàn cảnh đời sống của mình. Một số những người đã tranh đấu với những hấp dẫn đồng phái tưởng mình được kêu gọi sống độc thân. Không nên làm cho họ cảm giác rằng họ đã không hoàn thành sự tự do bởi vì họ không có kinh nghiệm ý muốn với người khác phái. Có những người ước muốn kết hôn và sinh con.
Có mọi lý do để hy vọng rằng nhiều người sẽ có khả năng, đúng lúc, hoàn thành mục tiêu này. Dầu sao, không nên khuyên họ hấp tấp kết hôn vì hiển nhiên hôn nhân không phải là một sự chữa trị những hấp dẫn đồng phái. Với quyền lực ân sủng của các bí tích, sự nâng đỡ của cộng đồng, và với một nhà chữa trị dày kinh nghiệm, một cá nhân cương quyết sẽ có khả năng hoàn thành sự tự do nội tâm mà Chúa Kitô hứa ban.
Những nhà chữa trị giàu kinh nghiệm có thể giúp các cá nhân khám phá và hiểu những nguyên nhân căn cội của sư chấn thương tình cảm làm nổi dậy trong họ những hấp dẫn đồng phái và sau đó hành động chữa trị để giải quyết sự đau đớn này, Những người kinh nghiệm các hấp dẫn đồng phái, thường khám phá căn tính nam của mình bị ảnh hưởng cách tiêu cực bởi những cảm giác bị loại trừ bởi người cha hay bạn đồng lứa hay bởi một hình ảnh thân xác nghèo nàn đưa tới sự sự buồn bực, tức giận và bất ổn. Khi sự đau đớn tình cảm này được chữa lành, căn tính nam được tăng cường và những hấp dẫn đồng phái giảm bớt.
Những người nữ mắc những hấp dẫn đồng phái có thể thấy được những xung đột với những người cha và/hay là với những người nam đáng quan tâm khác, làm cho họ bất tín nhiệm tình yêu người nam, hay là sự thiếu tình thương mẫu tử làm cho họ ao ước thâm sâu tình yêu người nữ. Sự nhìn thẳng vào những nguyên nhân giận dữ và buồn bực sẽ đưa tới, cách hy vọng, sự tha thứ và tự do.Tất cả những thứ đó cần thời gian. Về phương diện này những cá nhân đau khổ do sự hấp dẫn đồng phái thì không khác chi nhiều người nam và nữ khác bị đau đớn tình cảm và cần học phải tha thứ làm sao.
Các nhà chữa trị Công giáo làm việc với những cá nhân Công giáo sẽ cảm thấy tự do xử dụng kho tàng của linh đạo Công giáo trong quá trình chữa trị này. Những kẻ mang vết thương do người cha có thể được khuyến khích phát triển những tương quan của mình với Chúa như một người cha giàu yêu thương. Những kẻ bị loại trừ hay chế giễu do những bạn đồng lứa coi minh như những bé con, có thể suy gẫm về Chúa Giêsu như người anh, bạn và người bảo hộ. Những kẻ cảm thấy mình thiếu tình mẹ, có thể quay về với Đức Maria để tìm an ủi.
Có tất cả lý do để hy vọng rằng với thời gian, những kẻ tìm kiếm tự do sẽ gặp tự do. Dầu sao, đang khi chúng ta có thể khuyến khích niềm hy vọng, chúng ta phải công nhận rằng có một số người sẽ không hoàn thành mục đích của mình. Chúng ta có thể thấy mình ở trong một vị trí như người chữa trị ung bướu trẻ con, người đó nói khi mình khỉ sự lần đầu nghề này hầu như không có hy vọng đối với trẻ con bị ung thư và nhiệm vụ người thầy thuốc là giúp cha mẹ chấp nhận điều không thể tránh được, và đừng có phí tiền của để theo đuổi một "sự chữa trị"
Ngày nay hầu như 70% trẻ con phục hồi, nhưng mỗi một cái chết để lại cho đội y khoa một cảm giác kinh khủng về thất bại. Tuy việc đề phòng và chữa trị sự hấp dẫn đồng phái được cải tiến, các cá nhân còn tranh đấu sẽ, hơn bao giờ hết, cần sự nâng đỡ thương cảm và nhạy cảm.
WASHINGTON, D.C (Zenit.org).- Hiệp hội Y khoa Công giáo đã cập nhật hóa bản tuyên bố của mình về sự đồng tính luyến ái. Nguyên bản, gồm có tiểu sử và những ghi chú, có thể lấy được qua http://www.cathmed.org/index.html
* * *
Đồng tính luyến ái và Hy vọng Tuyên bố của Hiệp hội Y khoa Công giáo
Phần 1 Những nhận xét
DẪN NHẬP
Hiệp hội Y khoa Công giáo tự nguyện nêu lên những nguyên lý Đức tin Công giáo liên hệ với việc thực hành y khoa và với việc cổ võ nền đạo đức học y khoa Công giáo cho nghề thầy thuốc, kể cả những người chuyên về sức khỏe tâm thần, hàng giáo sĩ, và công chúng nói chung. Không vấn đề nào đã gây nhiều quan tâm hơn trong thập niên qua cho bằng sự đồng tính luyến ái và do đó, CMA cống hiến bản tóm lượt và duyệt lại sau đây về tình trạng vấn đề. Bản tóm lượt này dựa cách bao quát trên những kết luận của các cuộc nghiên cứu khác nhau và chỉ rõ tính nhất quán của các huấn giáo Giáo hội với những nghiên cứu này. Hy vọng rằng sự duyệt xét này cũng sẽ giúp ích như một dụng cụ giáo dục vá qui chiếu cho hành giáo sĩ Công giáo, cho các thầy thuốc, các nhà chuyên Sức khoẻ tâm thần, các nhà giáo dục, các cha mẹ và công chúng nói chung.
CMA ủng hộ những huấn giáo của Giáo hội Công giáo như được trình bày trong bản tu sửa của Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, cách riêng đến những huấn giáo về tình dục. "Mọi tín hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh" (GLGHCG, no. 2348); "Người có gia đình được mời giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng, người độc thân giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục" (SGLGHCG, no 2349); "truyền thống Giáo hội luôn tuyên bố rằng các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn... Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào" (GLHTCG,no 2357).) Với ân sủng của Thiên Chúa, mọi người đều có khả năng sống một đời sống khiết tịnh, kể cả những người mắc phải sự hấp dẫn đồng phái tính, như Hồng Y George Tổng Giám mục Chicago đã tuyên bố mạnh mẽ khi ngài phát biểu trước Hiệp hội Quốc gia của những Thừa tác vụ Giáo phận về người Nữ và Nam Đồng tính luyến ái: "Phủ nhận quyền lực của ân sủng Chúa có khả năng giúp những người bị hấp dẫn đồng tính luyến ái sống đức khiết tịnh, trên thực tế đó là phủ nhận Ðức Giêsu đã sống lại từ kẻ chết."
Chắc chắn có những tình huống, như những rối loạn tâm lý và những kinh nghiệm đau buồn, mà đôi khi làm cho đức khiết tịnh khó giữ hơn, và có những tình huống có thể làm giảm thiểu nghiêm trọng đến trách nhiệm cá nhân vì những sa ngã trong đức khiết tịnh. Dầu sao đi nữa, những tình huống và những điều kiện này không phủ nhận sự tự do hay loại trừ quyền lực ân sủng. Khi nhiều người nam và nữ mắc phải những hấp dẫn đồng phái, khi nói rằng sự ham muốn tình dục của họ đối với những kẻ đồng phái với mình được cảm giác như là một "điều được cống hiến", điều này không hoàn toàn ngụ ý cho một sự tiền định về mặt di truyền học hay là một điều kiện không thể sửa đổi. Một số người đầu hàng đối với sự hấp dẫn đồng phái bởi vì họ được cho biết họ sinh ra với sự hấp dẫn này và không thể thay đổi bản chất tình dục của họ. Những người như vậy có thể cảm thấy là điều vô ích và tuyệt vọng nếu chống lại những ý muốn đồng phái, và chấp nhận một "căn tính đồng tính luyến ái." Cũng những người này có thể cảm thấy bị đè nén bởi sư kiện là xã hội và tôn giáo, nhất là Giáo hội Công giáo, không chấp nhận sự biểu lộ những ý muốn này trong những hành vi đồng tính luyến ái.
Sự nghiên cứu được qui chiếu trong tường thuật này đi ngược lại huyền thoại nói sự hấp dẫn đồng phái được ấn định trước do di truyền và không thể thay đổi, và cung cấp hy vọng ngăn ngừa và chửa trị.
1) Không được sinh ra kểu này
Một số nhà nghiên cứu đã cố tìm một nguyên nhân thuộc sinh vật học cho sự hấp dẫn đồng phái. Các phương tiện truyền thông đã cổ võ ý niệm là đã khám phá một "gen đồng tính luyến ái", nhưng dầu qua nhiều cuộc nỗ lực, không có cái nào trong những cuộc nguyên cứu phổ biến nhất đã được chứng minh theo khoa học. Một số tác giả đã cẩn thận duyệt xét những nguyên cứu này và đã nhận thấy không những các cuộc nghiên cứu không chứng minh một nền tảng nào cho sự hấp dẫn đồng phái, mà những báo cáo cũng không hứa đựng những yêu sách đó.
Nếu sự hấp dẫn đồng phái được ấn định trước do di truyền, lúc đó người ta phải chờ đợi những cặp đôi giống nhau sẽ giống nhau trong những sự hấp dẫn tình dục của họ. Dầu vậy, nhiều báo cáo về những cặp giống nhau không giống nhau trong những hấp dẫn tình dục của họ. Những hồ sơ bệnh lý thường tiết lộ những nhân tố môi trường giải thích sự phát triển của những mẫu hấp dẫn tình dục khác nhau trong những đứa nhỏ giống nhau về mặt di truyền, bằng cách ủng hộ lý thuyết cho rằng xu hướng đồng phái là một sản phẩm phát sinh do sự tương tác của nhiều yếu tố môi trường.
Dầu sao, có những nỗ lực đang tiến hành để thuyết phục công chúng rằng sự hấp dẫn đồng phái có cơ sở di truyền. Những nỗ lực đó có thể vì lý do chính trị, bởi vì dân chúng dường như sẵn sàng đáp ứng tích cực cho những đòi hỏi thay đổi trong luật pháp và huấn giáo tôn giáo khi ho tin sự hấp dẫn tình dục được ấn định do di truyền và không thể thay đổi. Những người khác tìm cách chứng minh một nền tảng di truyền cho sự hấp dẫn đồng phái đến nỗi họ có thể kêu tới các toà án cho những quyền dựa trên "tính cố định."
Người Công giáo tin rằng tính dục được Thiên Chúa ấn định như một dấu tình yêu của Chúa Kitô, phu quân đối với Nàng Dâu là Giáo hội, và do đó sinh hoạt tình dục chỉ thích hợp trong hôn nhân. Huấn giáo Công giáo chủ trương rằng: "Theo ý định của Thiên Chúa phái tính hướng về tình yêu vợ chồng. Trong hôn nhân ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần" (GLGHCG, No 1360). Sự phát triển tâm lý-tình dục lành mạnh tư nhiên đưa tới sự hấp dẫn trong những nhân vị của mổi phái tính đối với phái tính khác. Vết thương lòng, sự giáo dục sai lầm, và tội lỗi có thể gây ra sự lệch lạc cho kiểu mẫu này. Những con người không thể đồng hóa với những vụ xung đột tình cảm hay phát triển của mình, dường như sự đó là bản tính căn tính của họ.
Trong sự tranh luận giữa thuyết thiết yếu và thuyết xây dựng xã hội, người tin vào luật thiên nhiên sẽ chủ trương rằng những con người có một bản tính thiết yếu --hoặc nam hoặc nữ và những xu hướng tội lỗi (như sự ước muốn dấn thân vào những hành vi đồng tính luyến ái) được xây dựng và do đo có thể bị phá vỡ.
Do đó, điều khôn ngoan là tránh tất cả việc xử dụng những tiếng "đồng tính luyến ái" và "tình dục khác phái" như những danh từ, bởi vì việc xử dụng như thế ám chỉ một tình trạng cố định và một sự tương đương giữa tình trạng tự nhiên của người nam và người nữ như đước Thiên Chúa tạo dựng và những con người mắc phải những hấp dẫn hay những cách cư xử đồng phái.
2) Sự hấp dẫn đồng phái như là một triệu chứng
Các cá nhân mắc phải những sự hấp dẫn đồng phái vì nhiều lý do. Dầu có những sự giống nhau trong các kiểu phát triển, mỗi một cá nhân có một lịch sử độc đáo, cá nhân. Trong lịch sử của những người mắc phải sự hấp dẫn đồng phái, người ta thường gặp một hay nhiều hơn trong những sự kiện sau đây:
- sự tha hóa đối với người cha trong thời ấu thơ, bởi vì người cha bị coi như kẻ thù hay xa lạ, bạo tàn hay là nghiện rượu. -người mẹ được bảo vệ quá mức cần thiết (con trai) -người mẹ nghèo đói và hay đòi hỏi (con trai) -người mẹ nghèo về mặt tình cảm(con gái) -cha mẹ không biết khuyến khích sự nhận dang đồng phái -sự thiếu trò chơi gay go và hỗn loạn (con trai) -thiếu sự nhận dạng với các bạn đồng lứa -sự không thích những thể dục theo nhóm (con trai) -sự thiếu phối hợp tay/mắt và sự trêu chọc tiếp sau của bạn đồng lứa (con trai) -lạm dụng tình dục hay cưỡng hiếp -sự ám ảnh sợ xã hội hay tính nhát sợ quá lẽ -mất cha mẹ vì chết hay ly dị -cách ly cha me trong những giai đoạn phát triển khủng hoảng Trong một số trường hợp, sự hấp dẫn hay sinh hoạt đồng phái xảy ra trong một bệnh nhân với chẩn đoán tâm lý khác như -sự buồn nản lớn -có ý nghĩ tự tử -rối loạn do âu lo tổng quát -lạm dụng tiền của -rối loạn hành xử trong những kẻ truởng thành -rối loạn ranh giới cá tính -bịnh tâm thần phân liệt -tính tự yêu mình bịnh hoạn.
Trong một ít trường hợp, sự ứng xử đồng tính luyến ái xuất hiện về sau trong sự sống, như là một đáp ứng với một chấn thương như sự phá thai, hay là sự cô độc thâm sâu
3/ Sự hấp dẫn đồng phái có thể phòng ngừa
Nếu những nhu cầu tình cảm và phát triển của mỗi đứa nhỏ được cha mẹ và bè bạn đáp ứng cách thích hợp, thì sự hấp dẫn đồng phái không chắc phát triển.Trẻ con cần tình âu yếm, sự khen lao và sự tin tưởng bởi mỗi cha mẹ, anh chị em khác cha mẹ và những bạn bè. Những hoàn cảnh xã hội và gia đình như thế, dầu sao, không dễ gi có được và những nhu cầu của trẻ con không luôn luôn nhận diện cách dễ dàng.
Một số cha mẹ có thể tranh đấu với những thử thách riêng của mình và không có khả năng chú ý và nâng đỡ như con cái mình đòi hỏi.Thỉnh thoảng cha mẹ làm việc rất cực nhọc, nhưng cá tính riêng của đứa con làm cho sự nâng đỡ và nuôi dưỡng trở nên khó khăn hơn. Một số cha mẹ thấy những dấu khởi đầu, tìm kiếm sự trợ giúp và lời khuyên nghề nghiệp, và nhận lời khuyên không thích hợp, và trong vài trường hợp nhận những lời khuyên sai lầm. Khoa chẩn đoán và Quyển thứ IV Thống kê của Hiệp hội Nghiên cứu và Điều trị bịnh tâm thần America đã định nghĩa sự Rối loạn Căn tính Giống (GID) trong đứa bé như là môt sự đồng hóa về giống ngược, dai dẳng, mạnh, một sự khó chịu với chính phái tính của mình, và một sự thích thú đối với những vai trò phái tính ngược trong trò chơi hay những sở thích. Một số nhà nghiên cúu đã nhận diện một dấu hiệu khác ít mạnh hơn đối với con trai là những cảm giác kinh niên không có tính đàn ông. Những trẻ trai này, dầu khi không dấn thân trong một trò chơi hay những sở thích phái tính nào, cảm thấy không thích hợp chút nào trong tính nam của mình và có một phản ứng hầu như sợ trò chơi thô bạo và xáo trộn trong tuổi bé, thường đi kèm theo sự không thích những nhóm thể thao. Nhiều sự nghiên cứu đã cho thấy trẻ nhỏ bị Rối loạn Căn tính Giống và những trẻ trai không có tính đàn ông kinh niên lúc nhỏ, có nguy cơ bị hấp dẫn đồng phái trong tuổi trưởng thành.
Sự nhận dạng sớm và sự can thiệp chuyên nghiệp thích hợp, nếu được cha mẹ nâng đỡ, thường có thể thắng sự rối loạn căn tính về giống. Vô phúc thay, nhiều cha mẹ thuật lại những lo âu này với bác sĩ khoa nhi thì được nói đừng quan tâm về những sự đó. Trong một vài trường hợp những triệu chứng và những quan tâm của cha mẹ có thể xem ra giảm thiểu khi đứa con đi vào gai doạn hai hay ba, nhưng nếu không được xử lý đúng, những triệu chứng có thể tái xuất hiện tới tuổi dậy thì như là một sự hấp dẫn đồng phái mạnh. Sự hấp dẫn này xem ra là hậu quả của sự thiếu nhận dạng cách tích cực với phái tính riêng của mình. Điều quan trọng là những kẻ chăm lo và giáo dục trẻ nhỏ phải biết những dấu chỉ của sự rối loạn căn tính về giống và của sự vô tính đàn ông kinh niên lúc bé, và chạy tới những nguồn mạch có khả năng tìm ra sự giúp đỡ thích hợp cho những trẻ này. Một khi xác tín rằng sự hấp dẫn đồng phái không phải là một sự rối loạn được ấn định do di truyền, người ta có khả năng hy vọng về sự ngăn ngừa và về kiểu trị bịnh để làm dịu nhiều, nếu không loại trừ, những hấp dẫn đồng phái.
4) Có nguy cơ, tiền định
Đang khi một số nghiên cứu chứng tỏ rằng những trẻ con nào bị lạm dụng tình dục, những trẻ con có dấu chứng GID, và những trẻ trai không có nam tính kinh niên lúc bé, có nguy cơ bị hấp dẫn đồng phái trong tuổi thanh niên và trưởng thành, điều quan trọng là lưu ý một phàn trăm có ý nghĩa của những trẻ này không biến thành kẻ ham thích đồng tính luyến ái khi trưởng thành.
Đối với một số trẻ, những kinh nghiệm tiêu cực tuổi trẻ được chiến thắng bởi những tương tác tích cực sau này. Một số quyết tâm xa lánh cơn cám dỗ. Sự hiện diện và quyền lực của ân sủng Chúa, tuy không thề đo lường được luôn, không thể bị lờ đi như một nhân tố trong việc giúp một cá nhân lâm nguy xa lánh sự hấp dẫn đồng phái.
Sự phân loại một kẻ trưởng thành, hay tệ hơn một em bé, như là một kẻ "đồng tính luyến ái bất biến" làm cho cá nhân đó mắc một hại lớn. Những kẻ trưởng thành hay con nít như thế có thể, với sự can thiệp thích hợp, tích cực, được hướng dẫn đúng cách để xử lý với những chấn thương tình cảm sớm.
5) Trị liệu
Những người ủng hộ ý niệm rằng xu hướng tình dục là không thay đổi, thường trích dẫn từ một cuộc tranh cải phổ biến giữa Bác Sĩ C.C. Tripp và Bác Sĩ Lawrence Hatterer, trong đó Bác Sĩ Tripp tuyên bố: "không có lấy một trường hợp ghi nhận về sự thay đổi trong xu hướng đồng tính luyến ái được chứng minh bởi những thẩm phán hay bởi chứng từ bên ngoài. Kinsey không có khả năng tìm được lấy một bệnh nhân. Và cả Bác Sĩ Pomeroy cũng như tôi không có khả năng tìm ra một bệnh nhân như vậy. Chúng tôi sẽ vui mừng nếu có được một bệnh nhân từ Bác Sĩ Hatterer." (Tripp &Hatterer,1971). Họ bỏ qua qui chiếu đến câu trả lời của Bác Sĩ Hatterer. “Tôi đã ‘chửa trị’ nhiều người đồng tính luyến ái, Bác Sĩ Tripp. Bác Sĩ Pomeroy hay bất cứ nhà nghiên cứu nào khác có thể xem xét công việc tôi làm, bởi vì công việc đó được chứng minh tất cả bằng tài liệu trong 10 năm ghi băng. Nhiều người trong số những bịnh nhân ‘được chửa lành’ (tôi thích dùng tiếng ‘thay đổi’) đã kết hôn, có gia đình và sống những đời sống hạnh phúc. Đây là một huyền thoại phá hoại khi nói ‘ đã là một người đồng tính luyến ái, thì luôn luôn là một người đồng tính luyến ái." Huyền thoại đó đã làm và sẽ làm nên hàng triệu người đồng tính luyến ái dấn thân hơn. Điều hơn nữa, không những tôi mà nhiều nhà chữa trị thần kinh danh tiếng khác (Bác Sĩ Samuel B. Hadden, Bác Sĩ Lionel Oversey, Bác Sĩ Charles Socarides, Bác Sĩ Harold Lief, Bác Sĩ Irving Bieber, và những người khác) đã báo cáo những chửa trị hiệu nghiệm của họ cho người đồng tính luyến ái mà có thể chửa trị được." (Tripp & Hatterer 1971) Một số nhà chữa trị bịnh đã viết nhiều về những kết quả tích cực của việc chữa trị sự hấp dẫn đồng phái. Tripp đã chọn làm ngơ một nhiều phổ biến văn từ về sự chữa trị và về những khảo sát của các nhà chữa trị bịnh tâm thần. Những sự xem xét lại về việc điều trị những hấp dẫn bất ưng đồng phái, chứng tỏ rằng việc điều trị đó cũng hiệu nghiệm như sự điều trị những vấn đề tâm lý khác: lối 30% cảm thấy tư do khỏi những triệu chứng và 30% khác cảm thấy khá hơn. Những báo cáo từ các nhà chữa trị tâm thần cá nhân cũng có tính tích cực.
Cũng có nhiều báo cáo tự thuật từ những người nam và người nữ mà một thời đã tin chính mình bị ràn buộc không thể thay đổi bởi những hấp dẫn và những cách ứng xử đồng phái. Nhiều người nam và nữ này, bây giờ tự chính họ bày tỏ như được tự do khỏi sự hấp dẫn, sự mơ tưởng ảo huyền và cách ứng xử đồng phái. Hầu hết những cá nhân này tìm được sự tự do nhờ tham gia trong những nhóm nâng đỡ có nền tảng-tôn giáo, mặc dầu một số còn phải chạy tới các nhà chữa trị tâm thần. Vô phúc thay, một số người có ảnh hưởng và những nhóm người chuyên nghiệp không đếm xỉa đến sự hiển nhiên này và xem ra như có mộtcố gắng được sắp xếp phối hợp về phía những "người biện hộ đồng tính luyến ái" phủ nhận tính hiệu năng của việc chữa trị sự hấp dẫn đồng phái, hay là đổ thừa một sự chữa trị như thế là có hại. Barnhouse bày tỏ sự ngạc nhiên đối với những cố gắng này: "Sự bóp méo về thực tế do những nhà biện hộ đồng tính luyến ái phủ nhận điều kiện có thể chạy chữa được, (sự bóp mép đó) quá lớn đến nỗi người ta ngạc nhiên động cơ nào thúc đẩy."
Bác Sĩ Robert Spitzer,M.D., nhà nghiên cứu chữa trị tâm thần Đại học danh tiếng Columbia, con người đã trực tiếp dấn thân trong quyết định 1973 loại trừ tính đồng tính luyến ái khỏi danh sách của Hiệp hội Chữa trị Tâm Thần America về những rối loạn tâm thần, mới đây đã dấn thân trong việc tìm ra khả năng của sự thay đổi.
Bác Sĩ Spitzer tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn : " Tôi xác tín rằng nhiều người đã có những thay đổi cơ bản để trở thành người theo tình dục khác phái... Tôi tưởng đó là tin tức... Tôi hồ nghi về cuộc nghiên cứu này. Bây giờ tôi tuyên bố rằng những thay đổi đó có thể chấp nhận được."
6) Những mục đích chữa trị
Những người khẳng định rằng sự thay đổi xu hướng phái tính là không thể được, thường định nghĩa sự thay đổi như là sự tự do hoàn toàn và thường xuyên khỏi mọi hành xử, mơ mộng hay hấp dẫn đồng tính luyền ái trong một con người trước kia đã là đồng tính luyến ái qua cách hành xử và hấp dẫn. Dầu khi sự thay đổi được định nghĩa cách quá khích này, lời khẳng định không đúng sự thật. Nhiều cuộc nghiên cứu báo cáo những trường hợp thay đổi hoàn toàn.
Những người phủ nhận khả năng thay đổi hoàn toàn, công nhận rằng sự thay đổi cách hành xử là có thể được và những người đã liên hệ tình dục với cả hai phái xem ra có khả năng thay đổi. Đọc kỹ những bài chống đối việc chữa trị để có sự thay đổi, thì thấy rằng, những tác giả thấy việc chữa trị để có sự thay đổi là trái với đạo đức, là vì họ thấy sự chữa trị đó như chống lại những kẻ không muốn thay đổi và thấy những người mê theo tình dục đồng phái mà lại tỏ ý muốn thay đổi như là những nạn nhân của sự ức chế xã hội hay tôn giáo.
Phải ghi chú rằng hầu hết không có trường hợp ngoại lệ, những người nào xem việc chữa trị là vô đạo đức, thì cũng loại trừ việc kiêng cử khỏi sinh hoạt tình dục không -hôn nhân như là một mục đích rất nhỏ, và giữa những thầy thuốc chữa trị nào chấp nhận những hành vi đồng tính luyến ái là bình thường, có nhiều kẻ không cho gì là sai trái với sự bất tín trong những quan hệ đã cam kết, trong những cuộc gặp gỡ tình dục vô danh, trong sự trà trộn chung, tình tự dâm đãng, tính bạo dâm và thông dâm, và nhiều thứ tình yêu khác. Cũng có một số người ủng hộ việc bớt hạn chế tình dục giữa những kẻ trưởng thành và trẻ nhỏ hay là phủ nhận ảnh hưởng tâm lý tiêu cực của sự lạm dụng tình dục trẻ nhỏ. Một số những người xem việc chữa trị là vô đạo đức, thì cũng thách đố những lý thuyết đã được thiết lập về sự phát triển trẻ con. Những người này nhằm trách cứ về những vấn đề không thể chối cãi do những thanh niên và kẻ trưởng thành đồng tính luyến ái phải chịu đựng do sức ép xã hội. Tấtcả những kết luận nghiên cứu phải được đánh giá trong ánh sáng những thống kê sai lệch mà các nhà nghiên cứu mang lại cho dự án. Khi sự nghiên cứu được truyền cho chương trình nghi sự chính trị hữu ý, thì giá trị của nó giảm đi cách nghiêm trọng. Phải nói rõ người Công giáo không thể ủng hộ những hình thức chữa trị nào khuyến khích các người bịnh thay thế một hình thức tội tình dục bằng một hình thức khác.Ví dụ, một số nhà chữa trị không coi một bịnh nhân "được chữa lành" cho tới khi bệnh nhân có thể dấn thân thoải mái tình dục với người khác phái, cho dầu bệnh nhân không có kết hôn. Những nhà chữa trị khác khuyên những bệnh nhân thủ dâm bằng cách xử dụng hình ảnh của người khác phái. Đối với một người Công giáo bị hấp dẫn đồng phái, mục đích chữa trị phải được sự tự do sống đức khiết tịnh theo hoàn cảnh đời sống của mình. Một số những người đã tranh đấu với những hấp dẫn đồng phái tưởng mình được kêu gọi sống độc thân. Không nên làm cho họ cảm giác rằng họ đã không hoàn thành sự tự do bởi vì họ không có kinh nghiệm ý muốn với người khác phái. Có những người ước muốn kết hôn và sinh con.
Có mọi lý do để hy vọng rằng nhiều người sẽ có khả năng, đúng lúc, hoàn thành mục tiêu này. Dầu sao, không nên khuyên họ hấp tấp kết hôn vì hiển nhiên hôn nhân không phải là một sự chữa trị những hấp dẫn đồng phái. Với quyền lực ân sủng của các bí tích, sự nâng đỡ của cộng đồng, và với một nhà chữa trị dày kinh nghiệm, một cá nhân cương quyết sẽ có khả năng hoàn thành sự tự do nội tâm mà Chúa Kitô hứa ban.
Những nhà chữa trị giàu kinh nghiệm có thể giúp các cá nhân khám phá và hiểu những nguyên nhân căn cội của sư chấn thương tình cảm làm nổi dậy trong họ những hấp dẫn đồng phái và sau đó hành động chữa trị để giải quyết sự đau đớn này, Những người kinh nghiệm các hấp dẫn đồng phái, thường khám phá căn tính nam của mình bị ảnh hưởng cách tiêu cực bởi những cảm giác bị loại trừ bởi người cha hay bạn đồng lứa hay bởi một hình ảnh thân xác nghèo nàn đưa tới sự sự buồn bực, tức giận và bất ổn. Khi sự đau đớn tình cảm này được chữa lành, căn tính nam được tăng cường và những hấp dẫn đồng phái giảm bớt.
Những người nữ mắc những hấp dẫn đồng phái có thể thấy được những xung đột với những người cha và/hay là với những người nam đáng quan tâm khác, làm cho họ bất tín nhiệm tình yêu người nam, hay là sự thiếu tình thương mẫu tử làm cho họ ao ước thâm sâu tình yêu người nữ. Sự nhìn thẳng vào những nguyên nhân giận dữ và buồn bực sẽ đưa tới, cách hy vọng, sự tha thứ và tự do.Tất cả những thứ đó cần thời gian. Về phương diện này những cá nhân đau khổ do sự hấp dẫn đồng phái thì không khác chi nhiều người nam và nữ khác bị đau đớn tình cảm và cần học phải tha thứ làm sao.
Các nhà chữa trị Công giáo làm việc với những cá nhân Công giáo sẽ cảm thấy tự do xử dụng kho tàng của linh đạo Công giáo trong quá trình chữa trị này. Những kẻ mang vết thương do người cha có thể được khuyến khích phát triển những tương quan của mình với Chúa như một người cha giàu yêu thương. Những kẻ bị loại trừ hay chế giễu do những bạn đồng lứa coi minh như những bé con, có thể suy gẫm về Chúa Giêsu như người anh, bạn và người bảo hộ. Những kẻ cảm thấy mình thiếu tình mẹ, có thể quay về với Đức Maria để tìm an ủi.
Có tất cả lý do để hy vọng rằng với thời gian, những kẻ tìm kiếm tự do sẽ gặp tự do. Dầu sao, đang khi chúng ta có thể khuyến khích niềm hy vọng, chúng ta phải công nhận rằng có một số người sẽ không hoàn thành mục đích của mình. Chúng ta có thể thấy mình ở trong một vị trí như người chữa trị ung bướu trẻ con, người đó nói khi mình khỉ sự lần đầu nghề này hầu như không có hy vọng đối với trẻ con bị ung thư và nhiệm vụ người thầy thuốc là giúp cha mẹ chấp nhận điều không thể tránh được, và đừng có phí tiền của để theo đuổi một "sự chữa trị"
Ngày nay hầu như 70% trẻ con phục hồi, nhưng mỗi một cái chết để lại cho đội y khoa một cảm giác kinh khủng về thất bại. Tuy việc đề phòng và chữa trị sự hấp dẫn đồng phái được cải tiến, các cá nhân còn tranh đấu sẽ, hơn bao giờ hết, cần sự nâng đỡ thương cảm và nhạy cảm.