ĐỨC GIÊSU LÀ GIÊRÊMIA MỚI

“Người ta bảo Thầy là ai?” là câu hỏi quan trọng nhất của Kitô học. Trong trình thuật của Mátthêu 16, 13-20, tác giả đề cập đến ngôn sứ Giêrêmia. Dân chúng xem Chúa Giêsu là ngôn sứ Giêrêmia. Đây là một sự đồng hóa thật thú vị chỉ gặp thấy trong Tin Mừng Mátthêu. Chúng ta biết Giêrêmia có một vị trí kỳ lạ trong niềm mong đợi Đấng Mêsia của dân Ítrael. Trong sách II Esdras 2,18 đề cập đến lời hứa của Chúa: “Vì ta sẽ sai các đầy tới của ta là Giêrêmia và Isaia đến giúp các ngươi”.( William Barclay, Tin Mừng theo thánh Mátthêu, NXB Tôn giáo 2008, tr 113).

Hơn nữa, càng so sánh cuộc đời của ngôn sứ Giêrêmia và cuộc đời của Đức Giêsu, nhất là trong những thử thách và gian nan của các Ngài, chúng ta càng nhận thấy Đức Giêsu chính là Giêrêmia mới hay Giêrêmia là tiền ảnh của Đức Giêsu. Người viết muốn trở về với các Sách Tin Mừng và cuộc đời của Giêgiêmia trong Cựu Ước để tìm hiểu đề tài “Đức Giêsu là Giêrêmia mới”, nhằm làm sáng tỏ mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô, nhất là mầu nhiệm Tình yêu Thập giá của Ngài.

1.SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI CỦA NGÔN SỨ GIÊRÊMIA

Nhìn chung cuộc đời của các ngôn sứ là rất gian nan và không thiếu những thử thách, bách hại, vì họ phải công bố những sứ điệp của Đức Chúa để cảnh tỉnh dân. Ngôn sứ Giêrêmia không phải là một ngoại lệ, nhưng hơn thế nữa, ông là một bằng chứng rõ ràng hơn về những thử thách và bách hại trong suốt cuộc đời ngôn sứ của mình. Những thử thách và bách hại ông đã chịu trong cuộc đời rao giảng hết sức bi đát, đến nỗi khi đối chiếu cuộc đời của ông và cuộc đời của Đức Giêsu, người ta cho rằng Đức Giêsu là Giêrêmia mới.

Giêrêmia sinh vào khoảng năm 650-645 TCN, tại Anathốt, là chứng nhân của một thời đại quyết liệt của lịch sử nước Giuđa. Đời sống của ông gắn liền một cách đau thương với lịch sử 40 năm sau cùng của nước Giuđa (627-587). Nước này ngày càng đi sâu vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, và mặc dầu cố gắng vươn lên nhờ cuộc cải tổ chính trị và tôn giáo của vua Giô-si-gia (640-09), nhưng rồi cũng thất bại dưới các triều vua kế tiếp, để rồi bị tiêu diệt do những đạo binh của Nabucôđônoxo, vua Babylon (năm 587). (x. Nguyễn Ngọc Rao, Các sách ngôn sứ, Lưu hành nội bộ, năm 2006, trang 194)

Tên gọi Giêrêmia nghĩa là Được Gia-vê tôn trọng, được nâng lên. Ông là người nhạy cảm, tính tình hiền lành, nhút nhát, thích sống cuộc sống đơn sơ, âm thầm. Trong khi đó thì nhiệm vụ sứ mệnh ngôn sứ lại đòi hỏi ông phải can đảm lớn tiếng can thiệp vào đời sống chính trị và tôn giáo của dân để cảnh cáo những lầm lỗi của dân và đe dọa hình phạt do Chúa gởi đến. Chính vì thấy mình không mấy thích hợp với sứ mệnh đó nên khi được Chúa gọi làm ngôn sứ năm 626 (Gr l,2), ông đã tìm hết cách từ chối, trước hết dựa vào tuổi đời còn trẻ của mình ( Gr l,6), sau nại đến những khó khăn do thù địch gây ra cho ông. Sau này, khi gặp những khó khăn và đau khổ vì thi hành sứ mệnh ngôn sứ. ông đã đổ thừa cho Chúa là đã dụ dỗ ông (Gr 20,7). Ông sống đời độc thân và chịu nhiều điều trái ngang sỉ nhục ngay từ trong thân quyến của ông (12, 6).( Xem. Tập bài giảng của cha Nguyễn Tiến Dũng, Ofm.)

So sánh cuộc đời và sứ mạng của vị ngôn sứ này với cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu, chúng ta sẽ nhận ra những sự tương đồng rất đặc biệt.

2. ĐỨC GIÊSU LÀ GIÊRÊMIA MỚI

Có thể nói, sự đau khổ, chống báng, bách hại, cô đơn và buồn tủi đã hằn sâu lên định mệnh của cả cuộc đời ngôn sứ Giêrêmia. Và như thế, cùng với những lời tiên báo về Đấng Mê-si-a, những thử thách và bách hại ngôn sứ Giêrêmia đã gánh chịu, chúng ta có thể nhìn ra ngài như là một hình ảnh báo trước cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu, Đấng xuất hiện sau ông.

2.1.Lời tiên báo của Giêrêmia về “Chồi non nhà Đavít”

Ngôn sứ Giêrêmia loan báo sự cứu thoát sẽ được thực hiện thời Vua Mục Tử thuộc Nhà Đavít và nhắc lại tổng quát những điều đã nói thêm về viễn vọng cứu thế. (x. Gr 23, 1-8). Ở đây ông cũng tiên báo về “Vua tương lai” sẽ xuất hiện trong nhà Đavít: “Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đavít một chồi non chính trực. Vị “Vua” lên ngôi trị vì sẽ làngười khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh” (Gr 23, 5). Chúng ta nhận thấy vị vua mà Giêrêmia tiên báo hội đủ các đức tính của Đấng Emmanuen trong Isaia 9,6-7; 11,1-5, Ngài là Đấng công minh, chính trực. Về sau Mátthêu đã đồng hoá Đấng Emmanuen này với Chúa Giêsu: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt 1, 23). Với lời sấm này, Giêrêmia đã đề cập đến một vị Vua sẽ xuất hiện để tái thiết Ítraen sau lưu đày. Người ta nhận thấy ở thời này xuất hiện các nhân vật như: Dơrúpbaven, Giôsuê, Nơkhemia,v.v… cũng có thể hiểu là “Chồi non Davít”, nhưng các vị này không hội đủ các đức tính như Giêrêmia đã tiên báo. Vì vậy, vị vua công minh, chính trực phải là Đức Giêsu, dẫu cho Giêrêmia không minh nhiên nói đến Ngài (x. Nguyễn Ngọc Rao, Sđd, trang 212). Hơn nữa, lời tiên báo của Giêrêmia về Đức Giêsu còn được thể hiện bằng chính cuộc đời của ông.

2.2.Cuộc đời độc thân vì sứ mạng của Giêrêmia.

Khác với những ngôn sứ khác trong thời Cựu Ước, Giêrêmia là người duy nhất sống cuộc đời độc thân đơn côi giữa một xã hội liên hoan tưng bừng: “Ngươi đừng cưới vợ; đừng có con trai, con gái ở nơi này” (Gr 16,2). Sự độc thân của ngôn sứ mang nhiều giá trị tiểu tượng cho đời sống ngôn sứ của chúng ta.

Về sau, Đức Giêsu xuất hiện, Ngài cũng đã chọn một cuộc đời độc thân vì Nước Thiên Chúa. Ngài đã sống độc thân không phải vì “hoạn” hay vì “bất lực”, nhưng vì vâng theo thánh ý Đức Chúa để thực hiện sứ mạng của mình. Và ý nghĩa của lối sống này, Chúa giêsu có lần nói: “Chúa cho ai hiểu mới hiếu”, và như thế, Ngài thở thành mẫu gương cho người thánh hiến noi theo. Chúng ta thấy người thánh hiến hôm nay có vai trò ngôn sứ rất đặc biệt. Điều làm nổi bật vai trò này nhất là đời sống độc thân vì Nước Thiên Chúa và tha nhân của họ.

Sự độc thân của Giêrêmia không chỉ có giá trị biểu tượng mà còn cần thiết trong cuộc đời rao giảng di động của ông. Nhờ cuộc đời thánh thiện, lời rao giảng của ông có được “sự nặng kí” khi kêu gọi người dân sám hối. Hơn nữa nó cũng diễn tả được tình yêu của ngôn sứ với Đức Chúa bằng một con tim không chia sẻ. Đức Giêsu cũng đã đi con đường mà Giêrêmia đã đa qua.

2.3. Giêrêmia cảnh tỉnh dân và kêu gọi sám hối

Giêrêmia có một tâm hồn nhạy cảm và hiền lành, nên ông có một ý niệm sâu xa về tội lỗi mà dân đã xúc phạm đến Đức Chúa (Gr 2, 20-28), và kêu gọi họ sám hối để được tha thứ. Hơn nữa ông đã thống thiết kêu xin Đức Chúa tha thứ cho dân, cứu nguy họ (Gr 14,1-15; 15, 11; 18,20). Có lẽ ông đã quá thương những người đồng bào của mình nên đã có những tâm tình cảm động như thế: “Nếu các người ngạo nghễ không chịu nghe theo điều này, tôi sẽ âm thầm chan hòa nước mắt; mắt tôi sẽ khóc thương đàn chiên của Chúa bị dẫn đi lưu đầy” (Gr 13,17).

Chúng ta cũng nhận thấy điều này nơi Đức Giêsu. Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng của mình bằng việc kêu gọi người ta ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Vì thương yêu mọi người, người bệnh tật, người đói khổ, người tội lỗi…Chúa Giêsu đã cầu xin Thiên Chúa ban ơn Cho họ. Thậm chí Ngài thương cả những người đã hại mình và đã cầu xin Chúa Cha tha cho chúng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).

Qua đó, chúng ta thấy việc làm của Giêrêmia năm xưa rất giống với Đức Giêsu trong cuộc đời của Ngài. Vậy, Đức Giêsu là ngôn sứ Giêrêmia mới như lời tiên báo của Giêrêmia qua các hoạt động của Ngài. Điều này được thể hiện rõ hơn trong mầu nhiệm Thập giá của Ngài.

2.4. Đức Giêsu là Giêrêmia mới trong mầu nhiệm đau khổ và tử nạn

Kể từ khi được mời gọi làm ngôn sứ, Giêrêmia đã khoác vào mình những đau khổ thử thách ngày càng khắc nhiệt hơn. Nhưng ông vẫn cam chịu và vượt qua được nhờ sức mạnh của Đức Chúa. Nhưng điều nổi bật nhất làm cho ông đứng vững là sự vâng phục Ý Chúa: “Ông cảm thấy có nhiệm vụ phải bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa, Đấng đã làm tất cả cho dân Người” (Gr 2, 6-7)( Nguyễn Ngọc Rao, Sđd, trang 203). Lần dở các sách Tin Mừng, chúng ta tìm gặp một Đức Giêsu ngôn sứ, luôn gặp phải những thử thách khó khăn trong cuộc sống. Ngài luôn bị dân và lãnh đạo Do-thái giáo chống đối, bắt bớ (x. Mc 14: 43 -50; Lc 22: 47 -53; Ga 18: 3-11 ).

Nếu sáu thế kỷ trước, Giêrêmia rảo bước khắp nước It-ra-en để công bố sứ điệp của Đức Chúa, thì sang thời Tân Ước, Đức Giêsu cũng làm như thế. Ngài đã đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi; sống một cuộc sống lữ hành, rày đây mai đó không có một chổ để trú chân: “Con chồn có hang, Con Người không có chổ gối đấu” (Mt 8,20 )

Trong khi loan báo lời Đức Chúa, ngôn sứ Giêrêmia bị người ta chống đối và tìm cánh hãm hại. Có nhiều lần ông như tuyệt vọng và có cảm giác cái chết gần kề: “Sau khi ông Giêrêmia đã nói mọi điều Đức Chúa truyền cho ông phải công bố cho toàn dân, thì các tư tế, các ngôn sứ và toàn dân túm lấy ông mà bảo: "Thế nào ông cũng phải chết”(Gr 26, 8-9). Đức Giêsu cũng đã bước qua con đường đó. Ngài bị bắt, bị đánh đập và bị nộp và hơn nữa là cái chết đang đến gần với Ngài. Đau khổ của Đức Giê-su tại vườn Ghếtsêmani phần nào diễn tả được cõi lòng tan nát của Ngài khi phải giằng co giữa thánh ý Cha và sứ mạng của mình (x. Mt 26: 36 -46; Lc 22: 39 -46 ). Giêrêmia cũng từng trãi qua kinh nghiệm đau khổ này.

Kế đến, Chúng ta nhận thấy, Giêrêmia đã bị chính những người thân của mình từ chối và xua đuổi. Đức Giê-su bị cũng bắt bằng nụ hôn phản bội của chính người môn đệ thân tín của mình. Đức Giê-su không chỉ chịu đau đớn nơi thân xác mà còn chịu đau khổ trong tâm hồn khi bị Giuđa phản bội, Phêrô chối từ, môn đệ bỏ trốn, dân chúng sỉ nhục, bị nhổ vào mặt. (x.Mt 26: 47 -56; Lc 22: 47 -53; Ga 18: 3-11 ). Ở đây, thánh sử Mátthêu xem sự phản bội của Giuđa đã ứng nghiệm lời tiên báo của Giêrêmia về Đức Giêsu: “Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: "Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người” (Mt 27,9).

Như ngôn sứ Giêrêmia xưa khi rời vào tình trạng cơ đơn và giằng co trong sứ mạng của mình đã cầu xin Đức Chúa trợ giúp, Đức Giê-su cũng kêu xin Thiên Chúa như thế: “"Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." (Mc 14,36).

Sau đó là những nỗi thống khổ mà Ngài phải liên tiếp hứng chịu từ sự giả man của quân lính, trên đường lên Núi sọ để chịu chết (x. Mt 27: 27 -31; Ga 19: 2-3; Mt 27: 32 -33; Lc 23: 26. 33; Ga 19: 16 b-17). Có thể nói cái chết nhục nhã của Đức Giê-su trên thập giá, cái chết của một người công chính giống như cái chết của một tội nhân thật là đau đớn và nhục nhã (x. Mt 27: 34 -38; Lc 23: 33 -34. 38; Ga 19: 18 -24 ). Và như thế, đau khổ của Đức Giêsu mới có những giá trị trổi vượt hơn đau khổ của Giêrêmia, đó là cái chết mang ơn cứu độ: “Thiên Chúa đã dùng các vết thương của Đức Giêsu Kitô mà chữa lành các vết thương của chúng ta (x. 1Pr 2:24), và nhờ chính những gian khổ của Người, Thiên Chúa đã đưa dẫn loài người tới nguồn ơn cứu độ (x. Dt 2:10)”.

Tóm lại, trong mầu nhiệm đau khổ và thập giá, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu là một Giêrêmia mới, Ngài đã thể hiện trọn vẹn tất cả những gì Giêrêmia đã tiên báo và đã sống làm dấu chỉ về Ngài. Hơn nữa, chân dung của Đức Kitô trỗi vượt và cao cả hơn ngôn sứ Giêrêmia. Điều này làm nên sự trỗi vược của Giêrêmi mới trong mầu nhiệm thập giá: “Điên rồ của thập giá chính là khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa (x. 1Cr 1:23tt); bởi lẽ sự kiện lịch sử ấy chính là yếu tố cấu tạo nên mầu nhiệm Đức Kitô và kế hoạch cứu độ (x. Pl 2:8). Hơn nữa, Thập giá cho thấy Thiên Chúa dùng một vật ô uế nhất là xác chết (x. Lv 21:11), làm nguyên nhân thanh luyện loài người. Vật bị nguyền rủa đối với Luật (x. Đnl 21:22-23), thì Thiên Chúa đã dùng để mà chuộc lấy con người cho khỏi bị nguyền rủa (x. Gl 3:13). Lòng ghen tương thù hận đã giết chết Đức Kitô, thì Thiên Chúa đã dùng để phá hủy sự thù ghét (x. Ep 2:14.16) và để mạc khải tình thương vô biên của Người đối với thế gian (x. Ga 3:16)”( Đức Giêsu chịu chết, biến cố lịch sử ý nghĩa, HTTH số 29 &30, năm 2001, tr 417).

3. KẾT LUẬN

Chiêm ngắm những gì Đức Giê-su đã trải qua trong sứ mạng ngôn sứ của Ngài, chúng ta thấy đâu đó bóng dáng của một Giêrêmia năm xưa, vì vâng phục Đức Chúa và vì lợi ích của con người, Ngài đã chấp nhận chịu thiệt thân.

So sánh cuộc đời và sứ mạng của các Ngài, chúng ta nhận thấy ngôn sứ Giêrêmia là tiền thân của một Đức Giêsu đau khổ và chịu đóng đinh trên phương diện thực hiện sứ mạng ngôn sứ. Cả hai vị đều thất bại dưới con mắt của người đương thời: một Giêrêmia phải chết biệt xứ nơi đày ải, một Giêsu phải chết nhục nhã trên thập hình. Nhưng trên phương diện ngôn sứ thì các Ngài đã thành công vì đều thực hiện được thánh ý Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người.

Từ phía sau nhìn lại, chúng ta thấy những gì Đức Giêsu đã chịu trong mầu nhiệm Đau Khổ của ngài lại vượt xa và mang một giá trị lớn lao hơn rất nhiều so ngôn sứ Giêrêmia. Sự bách hại và thử thách của Đức Giêsu khốc liệt hơn biết mấy: “Lạy Cha nếu có thể xin cho con khỏi uống chén này”; thái độ vâng phục của Ngài cũng thẳm sâu dường bao: “Xin vâng ý Cha, nhưng đừang theo ý con”; tình yêu của Đức Giêsu cao cả hơn gấp bội: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì người mình yêu” và sự tha thứ của ngài mới là tột đỉnh của mọi tình yêu: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Qua mầu nhiệm thập giá, Đức Giêsu đã mạc khải trọn vẹn cho con người về tình yêu thương của Thiên Chúa. Người yêu thương chúng ta đến nỗi đã nộp Con Một vì chúng ta (x.Ga 3, 16, 1Ga 4,10, Rm 8,32,v.v…).

Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy tùy theo góc độ tiếp cận chúng ta chỉ làm rõ được phần nào mầu nhiệm của Đức Giêsu. Chúng ta không thể nắm bắt được hết mầu nhiện khôn dò ấy: “Chúng ta không đặt đến được điểm đặc thù của Đức Giêsu, sự mới mẽ của Người”( Joseph Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazaréth, bản dịch của Nguyễn Văn Trinh, Lưu hành nội bộ, năm 2007, tr 225.)

. Việc so sánh Đức Giêsu và Giêrêmia chỉ là “cách chú giải Người (Đức Giêsu) từ quá khứ hay từ nét chung chung hay khả thể, nhưng không xuất phát từ chính Người, từ sự độc đáo của Người không theo bất cứ phạm trù nào”. (Joseph Ratzinger, Sđd, tr 225). Vì vậy, Con người Đức Giêsu Kitô vẫn mãi là một mầu nhiệm, Kitô học vẫn phải không ngừng tìm hiểu về Ngài và những người tin vào Ngài vẫn còn một “lộ hổng thần thiêng” để “trám vào đó” cảm nghiệm riêng tư của mình trong đời sống đức tin.

Qua việc tìm hiểu đề tài này, người viết học được nhiều bài học từ cuộc đời và sứ mạng của Giêrêmia một tiền ảnh của Đức Giêsu, nhất là học được nhiều bài học từ chính Đức Giêsu một ngôn sứ tuyệt hảo đã hiến thần yêu thương con người, nhằm làm phong phú hành trang của cá nhân trong hành trình trở thành một ngôn sứ của Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.

Quang Huyền, OFM