Hướng dẫn Hành Hương Thánh Địa 2018:
Nhà thờ kính Đức Mẹ Hòm Bia Giao Ước tại Kyriat Yearim
Điểm hẹn mới cho người Việt-Nam viếng Đất Thánh
Nhân dịp Năm Thánh kỷ niệm 30 năm ngày phong thánh 117 vị Tử Đạo Việt Nam, cha Trần Công Nghị và VietCatholic đã có sáng kiến xin một nơi đặt tượng Đức Mẹ La-vang tại Thánh Địa, để các tin hữu Việt Nam từ khắp nơi trên thế giới khi đến hành hương tại quê hương của Đức Mẹ, cũng thấy hình ảnh thân thương của Mẹ Hiền đã từng thân hành đến rừng La-vang an ủi con cái trong cơn bách hại năm xưa.
Các nữ tu dòng mang danh hiệu “Thánh Giuse được thiên thần hiện ra” (Saint Joseph of Apparition), có mặt phục vụ tại Thánh Địa từ 1848 tới nay, đã vui lòng dành cho tín hữu Việt Nam một nơi đặt tượng đài Đức Mẹ La-vang, trong vườn cây bên cạnh nhà thờ kính Đức Mẹ Hòm Bia Giao Ước ở Kyriat Yearim. Nơi này gần đường xe hơi nối phi trường Tel Aviv với Giê-ru-sa-lem, chỉ cách Giê-ru-sa-lem 15 cây số, nên rất thuận tiện cho khách hành hương: trên đường từ phi trường lên Giê-ru-sa-lem, dừng chân xin Đức Mẹ dẫn đi viếng các Nơi Thánh, hoặc từ Giê-ru-sa-lem ra phi trường, ghé vào địa điểm hành hương này tạ ơn Đức Mẹ và cầu cho quê hương, cho người Việt Nam đang tản mác khắp thế giới. Cũng có thể đến đây kết thúc chuyến hành hương: dâng lễ tạ ơn, ăn trưa (nhà dòng nhận nấu bữa ăn theo khẩu vị Á-đông cho khách hành hương) và nghỉ ngơi, rồi đi thêm 30 cây số nữa tới phi trường.
Hòm Bia Giao Ước
Trước khi ban cho ông Mô-sê Hai tấm Bia Đá ghi khắc Luật của Giao Ước Xi-nai, Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê dựng một cái Lều gọi là Lều Tạm làm nơi Thiên Chúa ngự, và làm Hòm Bia Chứng Ước: “Chúng sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng. Theo như các mẫu chính Ta sẽ chỉ cho ngươi: Nhà Tạm và mọi đồ dùng, các ngươi sẽ làm như vậy. Chúng phải làm một Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, ngươi sẽ lấy vàng mà bọc cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ làm trên đó một đường viền chung quanh bằng vàng. Ngươi sẽ đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng và gắn vào bốn chân Hòm Bia: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. Ngươi sẽ xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. Đòn để xỏ vào vòng của Hòm Bia thì không được rút ra nữa. Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.
Ngươi sẽ làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các tượng ấy ở hai đầu nắp. Ngươi sẽ làm một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu. Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp. Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en. Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en.” (Xh 25, 10-22).
Sau khi dựng Lều Tạm thì sẽ đặt Hòm Bia trong nơi cực thánh có màn ngăn. Thương Tế chỉ được vào đây mỗi năm một lần trong ngày lễ Xá Tội để cử hành nghi thức Xá Tội: “ 2 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron, anh ngươi, đừng vào bất cứ lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước nắp xá tội ở trên Hòm Bia, và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra trong đám mây trên nắp xá tội… Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước nhan ĐỨC CHÚA bỏ đầy vào bình hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem vào phía sau màn trướng. Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan ĐỨC CHÚA, và khói hương như mây sẽ phủ nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không phải chết. Nó sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội, về phía đông; rồi đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.” (Lv 16, 2.12-14).
Hòm Bia Giáo Ước là nơi tột đỉnh Thiên Chúa hiện diện giữa dân của Giao Ước. Khi dân qua sông Gio-đan vào Đất Hứa thì Hòm Bia làm cho nước rẽ làm hai để họ đi qua, như khi họ vượt qua Biển Đỏ (x. Gs 3, 14-17). Họ rước Hòm Bia đi quanh thành Giê-ri-cô thì thành sụp đổ (x. Gs 6, 1-16).
Hòm Bia Giao Ước tại Kyriat Yearim
Sách Sa-mu-en, quyển thứ nhất lại cho thấy Hòm Bia ở tại Si-lô. Tại đây Sa-mu-en được Thiên Chúa gọi làm ngôn sứ (1S 3, 1-14). Trong một trận giao tranh với người Phi-li-tinh, dân It-ra-en khiêng Hòm Bia ra trận vì tin rằng Thiên Chúa sẽ chiến đấu cho họ. Nhưng vì các con trai của thượng tế Ê-li đã xúc phạm đến Thiên Chúa, nên Thiên Chúa để họ thua và mất luôn cả Hòm Bia (1S 4, 1-11) vào tay người Phi-li-tinh.
Nhưng Hòm Bia đem tai họa cho người Phi-li-tinh nên họ cho xe bò chở Hòm Bia về phía Ít-ra-en để trả lại. Dân làng Bết Sê-mét rước Hòm Bia vào, nhưng cũng bị tai họa, nên sai người lên làng Yearim trên núi đề nghị họ rước Hòm Bia về: “Người Bết Se-mét nói: "Ai có thể đứng vững trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa thánh thiện này? Khi rời chúng tôi, Người sẽ lên với ai? " Họ sai sứ giả đến với dân cư thành Kia-giát Giơ-a-rim và nói: "Người Phi-li-tinh đã trả lại Hòm Bia ĐỨC CHÚA. Hãy xuống mà đưa lên với anh em."
Người Kia-giát Giơ-a-rim đến và đưa Hòm Bia ĐỨC CHÚA lên. Họ đưa Hòm Bia vào nhà ông A-vi-na-đáp, ở trên đồi, và thánh hiến E-la-da, con ông, để giữ Hòm Bia ĐỨC CHÚA.” (1S 6, 20-7,1).
Vua Đa-vít rước Hòm Bia Giao Ước về Giê-ru-sa-lem
Khoảng chừng 70 năm sau, khi vua Đa- vít thống lĩnh các chi tộc Ít-ra-en và chiếm được Giê-ru-sa-lem làm thủ đô thống nhất cả hai miền Nam Bắc (x. 1V 5, 1-10), vua mới đi rước Hòm Bia Giao Ước từ Kyriat Yearim về Giê-ru-sa-lem.
Vua Đa-vít lại quy tụ toàn thể tinh binh Ít-ra-en: ba mươi ngàn người. Từ Ba-a-lê Giu-đa, vua Đa-vít lên đường và cùng đi với toàn dân đang ở với vua, để đưa Hòm Bia Thiên Chúa từ đó lên, Hòm Bia mang danh ĐỨC CHÚA các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá. Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới. Họ đưa xe đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Hòm Bia Thiên Chúa, còn ông Ác-giô đi trước Hòm Bia. Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan ĐỨC CHÚA, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con, chũm choẹ, thanh la.
Khi đoàn người tới sân lúa Na-khôn, thì ông Út-da giơ tay ra về phía Hòm Bia Thiên Chúa và giữ lại, vì bò trượt chân. ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với ông Út-da, và Thiên Chúa đánh phạt ông tại chỗ vì lầm lỗi đó. Ông chết tại đó, bên Hòm Bia Thiên Chúa. Vua Đa-vít buồn bực vì ĐỨC CHÚA đã đột phá hại ông Út-da. Người ta gọi nơi ấy là Pe-rét Út-da cho đến ngày nay.
Ngày hôm đó, vua Đa-vít sợ ĐỨC CHÚA, ông nói: "Hòm Bia ĐỨC CHÚA đến với tôi thế nào được? "Vua Đa-vít không muốn đưa Hòm Bia ĐỨC CHÚA về với mình trong Thành vua Đa-vít, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ô-vết Ê-đôm, người thành Gát. Hòm Bia ĐỨC CHÚA ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm người thành Gát, ba tháng, và ĐỨC CHÚA giáng phúc cho ông Ô-vết Ê-đôm cùng cả nhà ông.
Người ta báo tin cho vua Đa-vít rằng: "Vì Hòm Bia Thiên Chúa, ĐỨC CHÚA đã giáng phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông." Vua Đa-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua Đa-vít, trong niềm hân hoan. Khi những người khiêng Hòm Bia của ĐỨC CHÚA đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan ĐỨC CHÚA. Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia ĐỨC CHÚA lên giữa tiếng hò reo với tiếng tù và. … Người ta đưa Hòm Bia ĐỨC CHÚA đặt vào chỗ đã dọn giữa lều vua Đa-vít đã dựng sẵn. (2S 6, 1-16)
“Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy”
Trong Kinh Cầu Đức Bà, chúng ta tung hô Đức Mẹ: “Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy” . Lời tung hô này xuất phát từ sách Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Sau khi kể chuyện thiên sứ truyền tin cho Trinh Nữ Maria, thánh Lu-ca kể tiếp:
Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà. (Lc 1, 39-45.56)
Cách kể chuyện này gợi lên chuyện vua Đa-vít đi rước Hòm Bia, để giúp chúng ta nhận biết điều gì đã xảy ra trong lòng Đức Trinh Nữ Maria sau khi Người nộp mình vô điều kiện cho Thiên Chúa: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ xảy ra cho tôi như lời Ngài nói” . Thiên sứ đã nói: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” . Đức Trinh Nữ Maria đã được Vinh Quang Thiên Chúa bao phủ như Nhà Tạm (x. 40, 34), Thánh Thần là quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa đã ngự xuống trên Đức Trinh Nữ, và Con Thiên Chúa đã làm người trong lòng Đức Trinh Nữ, như lời Thiên Chúa hứa trong sách I-sai-a 7, 14. Đấng thiết lập Giao Ước Mới đang ngự trong lòng Đức Trinh Nữ như Bia Chứng Ước ngự trong Hòm Bia.
Đám rước hôm nay giản lược trong hai người phụ nữ mang thai. Đứa con đã được sáu tháng trong bụng bà I-sa-ve ở phía trước nhảy mừng như vua Đa-vít nhảy múa trước Hòm Bia. Bà I-sa-ve ở phía sau, như dân chúng hò reo, được đầy Thánh Thần để công bố màu nhiệm đã thành sự nơi Đức Trinh Nữ: lời bà I-sa-ve lớn tiếng kêu lên: “Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” có thể hiểu là “được chúc tụng” , cách nói quen thuộc để chỉ về Thiên Chúa. Vua Đa-vít sợ hãi trước vinh quang của Thiên Chúa nơi Hòm Bia: “Hòm Bia Thiên Chúa đến với tôi thế nào được!” Còn bà I-sa-ve thì đã được đón Hòm Bia Giao Ước Mới vào nhà, nên mừng rỡ kêu lên: “Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Cuối cùng, “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà” , gợi lại việc Hòm Bia ở lại nhà Ô-bét Ê-đôm ba tháng trước khi ngự vào lều do vua Đa-vít đã dựng cho Hòm Bia.
Nhà thờ kính Đức Bà Hòm Bia (Our Lady of the Ark)
Cuối thế kỷ 19, các nữ tu dòng thánh Giuse mua được phần đất này ở Kyriat Yearim để lập tu viện, năm 1920 các nữ tu khởi công đào móng xây nhà thờ kính “Đức Bà Hòm Bia Giao Ước” , đã trúng ngay nền ghép đá (mosaic) của một ngôi nhà thờ thuộc thế kỷ thứ năm (thời kỳ Bi-dăng-tin), và đã xây nhà thờ mới trên đó. Nhà thờ xưa đã bị người Ba-tư phá hủy cùng với tất cả các nhà thờ khác tại Thánh Địa khi họ chiếm đóng từ năm 614. (Chỉ có nhà thờ Giáng Sinh không bị phá, vì có hình ba vua mặc đồ Ba-tư đến thờ lạy). Trên đầu nhà thờ có tượng Đức Mẹ nhìn về Giê-ru-sa-lem. Ngoài nền nhà thờ cổ, có hai đầu cột bằng đá chạm trổ công phu còn lại.
Các nữ tu đã đồng ý cho dùng một đầu cột làm bệ cho tượng đài Đức Mẹ La-vang, và một đầu cột đặt bàn thờ để dâng thánh lễ bên cạnh tượng đài. Tượng đài Đức Mẹ La-vang đứng ở góc vườn, quay mặt về phía biển, nên khi nhìn lên Đức Mẹ thì thấy toàn cảnh Giê-ru-sa-lem phía sau lưng Đức Mẹ. Trong vườn này có nhiều cây ô-liu mấy trăm năm tuổi và một số cây khác che bóng cho khách hành hương, gợi lại phần nào rừng La-vang.
Tu viện và nhà tĩnh tâm cách nhà thờ một cái sân khá rộng, phía sau có một bãi cỏ lớn dành cho người tĩnh tâm và các nữ tu. Người phục vụ ở đây là các nữ giáo dân người Phi-lip-pin rất lịch sự tử tế và nấu ăn rất ngon. Các đoàn hành hương rất thích được ăn bữa từ giã Đất Thánh tại đây trước khi ra phi trường.
LM Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ
Nhà thờ kính Đức Mẹ Hòm Bia Giao Ước tại Kyriat Yearim
Điểm hẹn mới cho người Việt-Nam viếng Đất Thánh
Các nữ tu dòng mang danh hiệu “Thánh Giuse được thiên thần hiện ra” (Saint Joseph of Apparition), có mặt phục vụ tại Thánh Địa từ 1848 tới nay, đã vui lòng dành cho tín hữu Việt Nam một nơi đặt tượng đài Đức Mẹ La-vang, trong vườn cây bên cạnh nhà thờ kính Đức Mẹ Hòm Bia Giao Ước ở Kyriat Yearim. Nơi này gần đường xe hơi nối phi trường Tel Aviv với Giê-ru-sa-lem, chỉ cách Giê-ru-sa-lem 15 cây số, nên rất thuận tiện cho khách hành hương: trên đường từ phi trường lên Giê-ru-sa-lem, dừng chân xin Đức Mẹ dẫn đi viếng các Nơi Thánh, hoặc từ Giê-ru-sa-lem ra phi trường, ghé vào địa điểm hành hương này tạ ơn Đức Mẹ và cầu cho quê hương, cho người Việt Nam đang tản mác khắp thế giới. Cũng có thể đến đây kết thúc chuyến hành hương: dâng lễ tạ ơn, ăn trưa (nhà dòng nhận nấu bữa ăn theo khẩu vị Á-đông cho khách hành hương) và nghỉ ngơi, rồi đi thêm 30 cây số nữa tới phi trường.
Hòm Bia Giao Ước
Trước khi ban cho ông Mô-sê Hai tấm Bia Đá ghi khắc Luật của Giao Ước Xi-nai, Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê dựng một cái Lều gọi là Lều Tạm làm nơi Thiên Chúa ngự, và làm Hòm Bia Chứng Ước: “Chúng sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng. Theo như các mẫu chính Ta sẽ chỉ cho ngươi: Nhà Tạm và mọi đồ dùng, các ngươi sẽ làm như vậy. Chúng phải làm một Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, ngươi sẽ lấy vàng mà bọc cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ làm trên đó một đường viền chung quanh bằng vàng. Ngươi sẽ đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng và gắn vào bốn chân Hòm Bia: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. Ngươi sẽ xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. Đòn để xỏ vào vòng của Hòm Bia thì không được rút ra nữa. Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.
Ngươi sẽ làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các tượng ấy ở hai đầu nắp. Ngươi sẽ làm một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu. Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp. Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en. Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en.” (Xh 25, 10-22).
Sau khi dựng Lều Tạm thì sẽ đặt Hòm Bia trong nơi cực thánh có màn ngăn. Thương Tế chỉ được vào đây mỗi năm một lần trong ngày lễ Xá Tội để cử hành nghi thức Xá Tội: “ 2 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron, anh ngươi, đừng vào bất cứ lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước nắp xá tội ở trên Hòm Bia, và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra trong đám mây trên nắp xá tội… Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước nhan ĐỨC CHÚA bỏ đầy vào bình hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem vào phía sau màn trướng. Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan ĐỨC CHÚA, và khói hương như mây sẽ phủ nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không phải chết. Nó sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội, về phía đông; rồi đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.” (Lv 16, 2.12-14).
Hòm Bia Giáo Ước là nơi tột đỉnh Thiên Chúa hiện diện giữa dân của Giao Ước. Khi dân qua sông Gio-đan vào Đất Hứa thì Hòm Bia làm cho nước rẽ làm hai để họ đi qua, như khi họ vượt qua Biển Đỏ (x. Gs 3, 14-17). Họ rước Hòm Bia đi quanh thành Giê-ri-cô thì thành sụp đổ (x. Gs 6, 1-16).
Hòm Bia Giao Ước tại Kyriat Yearim
Sách Sa-mu-en, quyển thứ nhất lại cho thấy Hòm Bia ở tại Si-lô. Tại đây Sa-mu-en được Thiên Chúa gọi làm ngôn sứ (1S 3, 1-14). Trong một trận giao tranh với người Phi-li-tinh, dân It-ra-en khiêng Hòm Bia ra trận vì tin rằng Thiên Chúa sẽ chiến đấu cho họ. Nhưng vì các con trai của thượng tế Ê-li đã xúc phạm đến Thiên Chúa, nên Thiên Chúa để họ thua và mất luôn cả Hòm Bia (1S 4, 1-11) vào tay người Phi-li-tinh.
Nhưng Hòm Bia đem tai họa cho người Phi-li-tinh nên họ cho xe bò chở Hòm Bia về phía Ít-ra-en để trả lại. Dân làng Bết Sê-mét rước Hòm Bia vào, nhưng cũng bị tai họa, nên sai người lên làng Yearim trên núi đề nghị họ rước Hòm Bia về: “Người Bết Se-mét nói: "Ai có thể đứng vững trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa thánh thiện này? Khi rời chúng tôi, Người sẽ lên với ai? " Họ sai sứ giả đến với dân cư thành Kia-giát Giơ-a-rim và nói: "Người Phi-li-tinh đã trả lại Hòm Bia ĐỨC CHÚA. Hãy xuống mà đưa lên với anh em."
Người Kia-giát Giơ-a-rim đến và đưa Hòm Bia ĐỨC CHÚA lên. Họ đưa Hòm Bia vào nhà ông A-vi-na-đáp, ở trên đồi, và thánh hiến E-la-da, con ông, để giữ Hòm Bia ĐỨC CHÚA.” (1S 6, 20-7,1).
Vua Đa-vít rước Hòm Bia Giao Ước về Giê-ru-sa-lem
Khoảng chừng 70 năm sau, khi vua Đa- vít thống lĩnh các chi tộc Ít-ra-en và chiếm được Giê-ru-sa-lem làm thủ đô thống nhất cả hai miền Nam Bắc (x. 1V 5, 1-10), vua mới đi rước Hòm Bia Giao Ước từ Kyriat Yearim về Giê-ru-sa-lem.
Vua Đa-vít lại quy tụ toàn thể tinh binh Ít-ra-en: ba mươi ngàn người. Từ Ba-a-lê Giu-đa, vua Đa-vít lên đường và cùng đi với toàn dân đang ở với vua, để đưa Hòm Bia Thiên Chúa từ đó lên, Hòm Bia mang danh ĐỨC CHÚA các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá. Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới. Họ đưa xe đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Hòm Bia Thiên Chúa, còn ông Ác-giô đi trước Hòm Bia. Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan ĐỨC CHÚA, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con, chũm choẹ, thanh la.
Khi đoàn người tới sân lúa Na-khôn, thì ông Út-da giơ tay ra về phía Hòm Bia Thiên Chúa và giữ lại, vì bò trượt chân. ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với ông Út-da, và Thiên Chúa đánh phạt ông tại chỗ vì lầm lỗi đó. Ông chết tại đó, bên Hòm Bia Thiên Chúa. Vua Đa-vít buồn bực vì ĐỨC CHÚA đã đột phá hại ông Út-da. Người ta gọi nơi ấy là Pe-rét Út-da cho đến ngày nay.
Ngày hôm đó, vua Đa-vít sợ ĐỨC CHÚA, ông nói: "Hòm Bia ĐỨC CHÚA đến với tôi thế nào được? "Vua Đa-vít không muốn đưa Hòm Bia ĐỨC CHÚA về với mình trong Thành vua Đa-vít, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ô-vết Ê-đôm, người thành Gát. Hòm Bia ĐỨC CHÚA ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm người thành Gát, ba tháng, và ĐỨC CHÚA giáng phúc cho ông Ô-vết Ê-đôm cùng cả nhà ông.
Người ta báo tin cho vua Đa-vít rằng: "Vì Hòm Bia Thiên Chúa, ĐỨC CHÚA đã giáng phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông." Vua Đa-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua Đa-vít, trong niềm hân hoan. Khi những người khiêng Hòm Bia của ĐỨC CHÚA đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan ĐỨC CHÚA. Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia ĐỨC CHÚA lên giữa tiếng hò reo với tiếng tù và. … Người ta đưa Hòm Bia ĐỨC CHÚA đặt vào chỗ đã dọn giữa lều vua Đa-vít đã dựng sẵn. (2S 6, 1-16)
“Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy”
Trong Kinh Cầu Đức Bà, chúng ta tung hô Đức Mẹ: “Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy” . Lời tung hô này xuất phát từ sách Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Sau khi kể chuyện thiên sứ truyền tin cho Trinh Nữ Maria, thánh Lu-ca kể tiếp:
Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà. (Lc 1, 39-45.56)
Cách kể chuyện này gợi lên chuyện vua Đa-vít đi rước Hòm Bia, để giúp chúng ta nhận biết điều gì đã xảy ra trong lòng Đức Trinh Nữ Maria sau khi Người nộp mình vô điều kiện cho Thiên Chúa: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ xảy ra cho tôi như lời Ngài nói” . Thiên sứ đã nói: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” . Đức Trinh Nữ Maria đã được Vinh Quang Thiên Chúa bao phủ như Nhà Tạm (x. 40, 34), Thánh Thần là quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa đã ngự xuống trên Đức Trinh Nữ, và Con Thiên Chúa đã làm người trong lòng Đức Trinh Nữ, như lời Thiên Chúa hứa trong sách I-sai-a 7, 14. Đấng thiết lập Giao Ước Mới đang ngự trong lòng Đức Trinh Nữ như Bia Chứng Ước ngự trong Hòm Bia.
Đám rước hôm nay giản lược trong hai người phụ nữ mang thai. Đứa con đã được sáu tháng trong bụng bà I-sa-ve ở phía trước nhảy mừng như vua Đa-vít nhảy múa trước Hòm Bia. Bà I-sa-ve ở phía sau, như dân chúng hò reo, được đầy Thánh Thần để công bố màu nhiệm đã thành sự nơi Đức Trinh Nữ: lời bà I-sa-ve lớn tiếng kêu lên: “Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” có thể hiểu là “được chúc tụng” , cách nói quen thuộc để chỉ về Thiên Chúa. Vua Đa-vít sợ hãi trước vinh quang của Thiên Chúa nơi Hòm Bia: “Hòm Bia Thiên Chúa đến với tôi thế nào được!” Còn bà I-sa-ve thì đã được đón Hòm Bia Giao Ước Mới vào nhà, nên mừng rỡ kêu lên: “Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Cuối cùng, “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà” , gợi lại việc Hòm Bia ở lại nhà Ô-bét Ê-đôm ba tháng trước khi ngự vào lều do vua Đa-vít đã dựng cho Hòm Bia.
Nhà thờ kính Đức Bà Hòm Bia (Our Lady of the Ark)
Cuối thế kỷ 19, các nữ tu dòng thánh Giuse mua được phần đất này ở Kyriat Yearim để lập tu viện, năm 1920 các nữ tu khởi công đào móng xây nhà thờ kính “Đức Bà Hòm Bia Giao Ước” , đã trúng ngay nền ghép đá (mosaic) của một ngôi nhà thờ thuộc thế kỷ thứ năm (thời kỳ Bi-dăng-tin), và đã xây nhà thờ mới trên đó. Nhà thờ xưa đã bị người Ba-tư phá hủy cùng với tất cả các nhà thờ khác tại Thánh Địa khi họ chiếm đóng từ năm 614. (Chỉ có nhà thờ Giáng Sinh không bị phá, vì có hình ba vua mặc đồ Ba-tư đến thờ lạy). Trên đầu nhà thờ có tượng Đức Mẹ nhìn về Giê-ru-sa-lem. Ngoài nền nhà thờ cổ, có hai đầu cột bằng đá chạm trổ công phu còn lại.
Các nữ tu đã đồng ý cho dùng một đầu cột làm bệ cho tượng đài Đức Mẹ La-vang, và một đầu cột đặt bàn thờ để dâng thánh lễ bên cạnh tượng đài. Tượng đài Đức Mẹ La-vang đứng ở góc vườn, quay mặt về phía biển, nên khi nhìn lên Đức Mẹ thì thấy toàn cảnh Giê-ru-sa-lem phía sau lưng Đức Mẹ. Trong vườn này có nhiều cây ô-liu mấy trăm năm tuổi và một số cây khác che bóng cho khách hành hương, gợi lại phần nào rừng La-vang.
Tu viện và nhà tĩnh tâm cách nhà thờ một cái sân khá rộng, phía sau có một bãi cỏ lớn dành cho người tĩnh tâm và các nữ tu. Người phục vụ ở đây là các nữ giáo dân người Phi-lip-pin rất lịch sự tử tế và nấu ăn rất ngon. Các đoàn hành hương rất thích được ăn bữa từ giã Đất Thánh tại đây trước khi ra phi trường.
LM Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ