Kế hoạch của Thiên Chúa
Nếu missio Dei là sự biểu hiện tình yêu tỏa sáng của Thiên Chúa, thì không cơ sở nào cần thiết đối với missio Dei nữa, ngoại trừ chính tình yêu thần thánh không cần cơ sở và có tính yếu tính này (Ad gentes, 2). Trong thực hành và suy tư truyền giáo, tình yêu tỏa sáng của missio Dei thường chỉ được trình bầy một cách quá dò dẫm. Nó thường bị che khuất bởi những kiểu nói bi quan, coi cứu chuộc như “việc sửa chữa có kế hoạch”, sửa chữa sáng thế của Thiên Chúa, do cuộc Sa Ngã tạo ra. Tuy nhiên, coi điều gọi là “kế hoạch” của Thiên Chúa theo cách vốn bắt nguồn từ missio Dei sẽ khiến ta thay đổi sự nhấn mạnh. Lúc đó, “kế hoạch” này sẽ mặc một hình thức khác: “tình yêu tỏa sáng của Thiên Chúa” được tái cấu hình với việc sai lời, tức Con cứu rỗi của Thiên Chúa, và thần khí, tức người ban và mang thứ lực năng động ta gọi là ơn thánh, đi. Chúa Thánh Thần đập bể mọi cơ cấu nhập thể của sự ác vốn đại biểu cho trận đồ kế hoạch phản loạn. Chúa Con, Đấng trở thành con người trong Chúa Giêsu thành Nadarét, mở ra các viễn ảnh mới cho kế hoạch của Thiên Chúa. Trong sự hợp nhất và liên tục với thần khí, việc nhập thể của lời đem đến một chọn lựa giữa “phản dự án” (antiproject) và “dự án”.

Suốt trong lịch sử, truyền giáo luôn cố gắng tiến gần tới “kế hoạch thần thiêng” nói trên hơn. Vatican II nói đến việc này trong tương quan với bản chất truyền giáo của giáo hội, “vì, để phù hợp với mệnh lệnh của Thiên Chúa Cha, Giáo Hội đã bắt nguồn từ việc sai Chúa Con và sai Chúa Thánh Thần đi” (Ad gentes, 2). Giáo hội biểu lộ missio Dei trong sinh hoạt truyền giáo của mình, như là “một biểu hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa và việc chu toàn mệnh lệnh này trong thế giới và trong lịch sử thế giới” (Ad gentes, 9).

Về phương diện tài liệu, tất cả những điều trên xem ra có tính kết luận, nếu không có sự kiện này là các ý niệm làm nền đã mất hết tính tươi mát nguyên thủy của chúng do việc thế giới hiện đại đã xa lìa truyền thống, và, thứ hai, các điều kiện thực dân trước thời hiện đại vẫn còn thịnh hành. Sự kiện này dẫn tới hai trận tuyến diễn ra giữa giai cấp ưu tú (élite), những người, theo kiểu hậu hiện đại, có thể lo liệu sống mà không cần bất cứ kế hoạch nào, và khối đại đa số người dân Châu Mỹ La Tinh, những người giải thích “kế hoạch của Thiên Chúa” như là một khẳng định cho rằng bất công là “ý muốn của Thiên Chúa”. Họ nghĩ rằng “kế hoạch của Thiên Chúa” diễn ra trong hai giai đoạn: giai đoạn một là thực dân hóa và “các đau khổ trần gian” được khắc phục bởi giai đoạn hai tức giai đoạn “vinh quang nước trời”. Vị bề trên tỉnh Dòng Tên, Antonio Vieira, do đó, đã có thể gọi nạn nô lệ của người Châu Phi tại Ba Tây là “phép lạ vĩ đại của ơn quan phòng và lòng thương xót từ trời”. Đến thăm một hãng làm đường ở Bahia năm 1633, ngài nói với các nô lệ:

“Ôi, ước chi các người da đen mang từ các sa mạc Êtiôpia và được đưa tới Ba Tây hiểu ra rằng họ mắc nợ Thiên Chúa và mẹ rất thánh của họ xiết bao qua điều bề ngoài xem như đầy ải, tù đầy và bất hạnh nhưng thực ra là một phép lạ, một phép lạ vĩ đại! Hãy cho tôi hay, cha mẹ anh chị em, những người sinh ra, sống và sẽ chết trong cái tăm tối của người ngoại đạo, không một chút ánh sáng đức tin và hiểu biết về Thiên Chúa, họ sẽ đi về đâu khi chết? Họ thẩy đều... xuống hoả ngục và bị thiêu đốt ở đấy ngay lúc này và sẽ bị thiêu đốt ở đó mãi mãi về sau...” (Antonio Vieira, "Sermão décimo quarto (1633)", trong: Sermões. Obras completas do Pe. Antõnio Vieria. Porto, Lello & Irmãos. 1951, vol. 4, Tomo 11, No. 6. p. 301).

Thứ rao giảng trấn an của ngày qua ấy, hiện nay, vẫn chưa chấm dứt. Ở Châu Mỹ La Tinh (và cả ở phần đông Đông Á?), người ta học được từ rất sớm cách chấp nhận sự an ủi từ bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, ngay ở nơi họ có thể cố gắng làm việc để thay đổi tình huống. Đây có thể là chiến lược để sống còn. Đấng Cứu Thế chịu đau khổ vẫn là nơi ẩn náu đối với nhiều người. Tuy nhiên, các quyền lực hiện có đã biến Kitô Giáo thành một ý thức hệ trấn lột. Kitô Giáo Thứ Sáu Tuần Thánh thiếu hẳn chiều kích “công lý phục sinh” vốn triệt tiêu các bản án tử hình do các kẻ chiến thắng áp đặt.

Dự án Giêsu

Các kinh nghiệm làm người ta thức tỉnh của thời hiện đại tạo ra nền thần học giải phóng và thực hành mục vụ đi kèm với nó trong việc tái duyệt các quan điểm cực đoan và biện minh ý thức hệ; Kitô giáo duy thực dân trước đây đã đạt được sự tự ý thức về mình lớn lao hơn. Các năng động tính của missio Dei được áp đặt quá nhanh lên một “kế hoạch thần thánh vĩnh cửu” có tính hữu thể học mà bề ngoài xem ra “một cỡ nhưng phù hợp với mọi người” (one-size-fits-all), trong đó, các giấc mơ trong ý muốn của Thiên Chúa biến thành một thời khóa biểu thông thường. Nhưng “kế hoạch thần thánh” này cũng có thể được giải thích là “dự án của Thiên Chúa”, được tiếp nối trong dự án Giêsu thành Nadarét.

Dựa vào tiền đề niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô và vào kairos (thời thuận lợi) của những bối cảnh lịch sử và văn hóa khác nhau, nhiệm vụ truyền giáo là trì chí công bố sự cứu chuộc có tính giải phóng. Trước tấm phông các vấn đề nóng bỏng của mọi thời đại, truyền giáo phải cho thấy việc cứu cuộc như một giải pháp, cả cho lịch sử lẫn cho tập thể và cho đời sống bản thân của các cá nhân.

Tin mừng Luca thách thức ta ngay ở đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu với một chọn lựa quan trọng giữa dự án của thế gian, ở đây tạm gọi là “phản dự án”, và dự án của Thiên Chúa, điều vốn tượng trưng cho sứ điệp chính yếu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Sử dụng kiểu nói “phản dự án” bao trùm được nhiều yếu tố của điều, theo qui ước, ta vẫn gọi là “tội tổ tông” trong thần học, dù có những điểm khác nhau về nền tảng. Nếu ta nói tới nhân tính của Chúa Giêsu một cách nghiêm túc, thì thực tại cám dỗ của lời nhập thể không thể bị hạ giá chỉ như trò đóng kịch vì các mục đích sư phạm.

Câu truyện chính Chúa Giêsu bị cám dỗ cho thấy việc có thể có một phản dự án toàn diện, nghĩa là có cả tính xã hội, chính trị lẫn tôn giáo, về nước Thiên Chúa (Lc 4:1-13). Phản dự án này theo dõi Chúa Giêsu không rời chân, không chỉ trong lời nói của các địch thủ của Người mà còn trong cả các câu hỏi của chính các môn đệ của Người về “việc tái lập vương quốc Israel”. Giấc mơ của họ hướng về dĩ vãng. Họ nghĩ tới vương quốc của Đavít như một thay thế cho Đế Quốc Rôma. Thậm chí họ còn thách thức Chúa Kitô phục sinh với khả thể này khi hỏi: “Lạy Thầy, nay có phải là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cv 1:6).

Phản dự án là dự án của các ông hoàng thế gian. Nó làm người ta hóa mù. Thánh Phaolô viết: “trong trường hợp của họ, thần của thế gian này đã làm mù tâm trí những người không tin” (2 Cr. 4:4). Phản dự án là lãnh vực cứ thế tiếp nối các thỏa hiệp phiến diện dân túy và những trao đổi tiểu qui mô khiến thế giới giữ nguyên trạng. Nó thuộc lãnh vực cung ứng những mẩu dư thừa tiện nghi nhỏ nhoi trong việc duy trì các đặc ân của mình, lãnh vực xã hội tiêu thụ, và lãnh vực quyền lực, danh tiếng và thờ thần tượng. Đối với Chúa Giêsu, các rủi ro khá cao và đây là một thay thế thực sự. Tại sao không thỏa mãn các hoài mong của người dân thường? Tại sao không nắm lấy dòng lịch sử trong bàn tay và, bằng một lời mạnh mẽ, cải thiện thế giới?

Giáo hội thừa hưởng cơn cám dỗ này và suốt trong lịch sử bị nó ám ảnh. Giáo hội tìm ra nhiều lý do để không chia tay với các nhà cai trị, và liên tục bị đánh tả tơi vì các đòi hỏi quyền lực, đặc ân và tăm tiếng. Khi các Kitô hữu Châu Mỹ La Tinh, những người từng liên minh với các quyền lực thực dân và kêu cầu ơn quan phòng của Thiên Chúa, tự dấn thân vào cuộc đấu tranh chống sự ác nhưng cũng chấp nhận các đặc ân từ giai cấp quyền thế và duy trì tăm tiếng ma qủy trên tháp nhọn các tiền đình đền thờ mạ vàng để vinh danh Thiên Chúa, họ quả mù lòa đối với sự ác ngay trong hàng ngũ của họ và từ chối, không dành công lý phục sinh cho Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Chúa Giêsu bêu riếu nền văn hóa đặc ân của thời ngài vì mọi đặc ân đều che đậy một tiếng nói đã bị bịt miệng. Đặc ân là việc đầu tư của kẻ quyền thế; trong một nền kinh tế bóc lột, họ đòi người ta phải phục tùng và giữ im lặng. Trong các tình huống chính trị và được đặc ân về kinh tế và xã hội, người ta thấy thiếu hẳn lòng nhiệt thành thiêng liêng và ơn gọi làm tông đồ. Quyền lực ban ân huệ cho công việc truyền giáo, và cung cấp cho nó tiền bạc, vinh dự và đặc ân, chính là người hủ hóa nó. Cách tốt nhất để làm im tiếng nói tiên tri của các giáo hội không phải là bách hại mà là cung cấp cho họ các đặc ân vật chất và có tính biểu tượng.

Các trói buộc chằng chịt của việc bảo trợ, chẳng hạn, đã làm hại nặng nề việc phúc âm hóa và cả giáo hội nữa. Khi các nhà truyền giáo bắt đầu vứt bỏ đồ dằn (ballast) ý thức hệ, họ trở thành người nguy hiểm đối với hệ thống thực dân. Việc tiếp tục xua đuổi các tu sĩ Dòng Tên khỏi Ba Tây cho thấy sự hiện diện và vai trò làm trung gian văn hóa của họ giữa các nhà cai trị thực dân và xã hội bản địa bỗng trở nên nguy hiểm xiết bao khi việc truyền giảng tin mừng của họ thách thức các tiền đề quan trọng của chính sách thực dân hóa. Xua đuổi, ăn cướp các trạm truyền giáo và việc tử đạo: tất cả đều là các khoảnh khắc của “ký ức nguy hiểm” của lịch sử giúp ta tái suy nghĩ toàn bộ quá khứ, hiện tại và tương lai của truyền giáo. Những dịp như thế thường dẫn ta, tuy chậm, đến trách nhiệm phải có đối với các nạn nhân của chủ nghĩa thực dân mà ngày nay chúng ta quen gọi là “ưu tiên chọn người nghèo và ‘người khác’”.

Nếu giáo hội nghèo và không được nhìn nhận, vì người của mình không được nhìn nhận, thì “những người khác” và người nghèo có cơ cùng đến với nhau trong các cơ sở của mình. Sự gần gũi người nghèo là hòn đá góc để xây lên các bài giảng có ý nghĩa và các tuyên bố mạnh bạo. Nó cũng thử nghiệm cả lời kêu gọi dấn thân cho truyền giáo, lời kêu gọi không sống nhờ các ý hướng tốt mà nhờ một nền công lý và một tình yêu lớn hơn. Ưu tiên chọn người nghèo và “người khác” như là những người chủ đạo trưởng thành đòi một nền đạo đức chuyên nghiệp trong việc truyền giáo biết bác bỏ nền văn hóa đặc ân. Việc bác bỏ này là một thứ praeambula fidei (lời nói đầu đức tin) của bất cứ cuộc công bố đức tin nào, và là một lời nói đầu nhằm thừa nhận người nghèo và “người khác” như những người đã trưởng thành và cũng nhìn nhận vai trò chủ đạo của họ trong thế giới mới và trong một giáo hội sống động. Bánh ăn trên bàn ăn của mọi hữu thể nhân bản và hoa hồng trong các thửa vườn của người hàng xóm họ không phải chỉ là thành quả của những cuộc chiến đấu lâu dài dành công lý mà còn là những cuộc cử hành Thánh Thể và Bữa Tiệc Ly của Chúa cách hữu hình nữa.

Chúa Giêsu, đầy Chúa Thánh Thần (Lc 4:1-14), đã đưa ra một đề kháng có tính chương trình chống lại cơn cám dỗ thực sự của một trật tự thế giới đặt căn bản trên việc ưu tiên có quyền có bánh ăn, quyền lực và tăm tiếng. Người nhập thể missio Dei vào dự án vương quốc Thiên Chúa, và trong ba bài diễn văn định hướng và ở bất cứ nơi nào tin mừng nói về bánh ăn, đã đánh dấu mốc cho một thứ luận lý học hoàn toàn khác. Trong bài diễn văn ở hội đường Nadarét (Lc 4:14tt), bài giảng trên núi (Lc 6:20-49, Mt 5:3-12) và việc phán xét các dân nước (Mt 25:31-46), Chúa Giêsu đã làm nổi bật những người được ngỏ lời và các người chủ đạo của vương quốc Thiên Chúa; việc nuôi ăn 5 ngàn người cho thấy nguyên tắc cơ cấu hóa của Người. Dự án của Chúa Giêsu dành cho những người nghèo, bị chà đạp, tù đầy, mù lòa, đói ăn, bị ghét bỏ, trông như ngoại nhân, người bệnh và bị loại trừ. Họ vừa là người được ngỏ lời vừa là người cổ vũ dự án này. Thiên Chúa chấp nhận sự đụng chạm nhân bản của người nghèo và thành phần cặn bã của xã hội. Họ là mạc khải và bí tích của Thiên Chúa trong thế giới. Họ là những người trình bầy missio Dei trong lịch sử.

Dĩ nhiên, ở đây, tính thông thường truyền thống đã sụp đổ. Dự án Giêsu tiền giả định một thứ luận lý hoàn toàn khác. Các nhu cầu căn bản của nhân loại không được thỏa mãn nhờ quyền ưu tiên hay các biện pháp kinh tế mà là nhờ luận lý học chia sẻ và phân phối. Bánh ăn không được thu lượm để phân phối, mà trước nhất là một nhóm nhỏ, 5 ổ bánh và 2 con cá được phân phối. Gợi ý của Chúa Giêsu “các con hãy cho họ thứ gì để họ ăn đi” trái ngược với gợi ý của các môn đệ; các ông nghĩ rằng người ta nên “đi vào vùng và làng chung quanh và mua thứ gì đó mà ăn” (Mt 14:15tt; Mc 6:36tt). Khi tất cả đã được phân phối và cho đi, còn dư đến 12 thúng (Mt 14:13-21). Không phải chuyện tích lũy, kinh tế hay đề phòng, tất cả là luận lý học thế gian, đã giải quyết được các vấn đề. Trái lại, các biện pháp này mang lại hậu quả mù quáng và tạo ra sự khốn cùng. Chỉ trong việc phân phối và bẻ bánh, đôi mắt các môn đệ mới mở ra và việc nhìn nhận sau đó mới trở thành một hình thức yêu thương, như thưở khởi nguyên của sáng thế (Lc 24:13-35: St 4:1).

Vấn đề hiện nay là không biết những người chủ đạo mới của dự án Giêsu có ý loại bỏ mọi người chúng ta trong giáo hội không vì chúng ta không sống nhờ các bãi rác mà là sống trong những căn nhà ấm cúng. Tin mừng trả lời câu hỏi này bằng cách trình bầy với ta 2 con người, những người, có lẽ giống chúng ta, cũng muốn leo vào dự án Giêsu, nghĩa là vương quốc Thiên Chúa. Hai người bắt đầu trễ này là thầy thông luật và chàng thanh niên giầu có. Họ tin mọi điều, tuân giữ truyền thống và các giới răn. Người thì biết hết mọi điều còn người kia thì có mọi thứ. Họ lo lắng về việc liệu có thuộc về vương quốc Thiên Chúa hay không. Cả hai hỏi Chúa Giêsu cùng một câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để thừa hưởng sự sống đời đời?” (Lc 10:25; 18:18).

Cả hai người đàn ông trên đều muốn bước vào dự án Giêsu qua các ngả xưa cũ có tính vụ luật và duy luân lý. Họ muốn tham dự vào dự án này với các phương thế ưu tiên sử dụng lề luật và các giới răn vốn chỉ dành cho những người có học và giầu có. Có lẽ họ sẵn lòng chấp nhận một ít qui định hay lề luật nữa, lẽ dĩ nhiên không phải để tháo bỏ các bức tường đền thờ trong lòng họ. Nhưng xin thầy đừng lìa xa hệ thống! Đừng thay đổi lối suy nghĩ của tôi! Và xin thầy làm ơn, đừng để mọi người tham gia! Nhưng của cải của thế giới này sẽ không đủ cho mọi người nếu các đặc ân của người giầu không bị bãi bỏ.

Chúa Giêsu không áp đặt bất cứ qui luật nào thêm lên con người. Thay vì nẻo đường nghĩa địa mà họ đang du hành, Người đề nghị với họ một quĩ đạo mới để đạt tới các tầng trời qua ngả diakonia, nghĩa là phục vụ những ai rơi vào tay trộm cướp hay, ngay lập tức, bán sạch mọi của cải tích lũy được. Đã đến lúc các giáo hội cũng nên quét sạch hết các đồng nát giấy vụn (junk) của họ. Các vấn đề của các giáo hội về sự thật chỉ có thể thông đạt được nhờ một sự hiện diện tích cực của người nghèo trong đời sống giáo hội. Khi giáo hội hiểu rằng không phải là vấn đề sự thật chỉ có thể hiểu bằng loại suy, nhưng người nghèo và người bị loại bỏ thành biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong định chế tan nát của mình, và khi người nghèo không phải chỉ là những người lãnh nhận tin mừng mà là những người được ủy nhiệm làm người mang nó, thì lúc ấy giáo hội mới có khả năng đòi cho mình vinh dự đã đem missio Dei vào lòng và thực sự là một giáo hội truyền giáo.

Sứ vụ Thiên Chúa, một sứ vụ từng xuất hiện nơi Chúa Giêsu thành Nadarét và tiếp tục sống mãi trong Chúa Thánh Thần có thể được tóm tắt đơn giản như sau: việc suy niệm về sự hiện diện của Thiên Chúa dẫn chúng ta tới những người bị đóng đinh của lịch sử. Missio Dei luôn dẫn ta bằng con đường Gôngôtha, con đường đau khổ. Nhưng missio Dei , hiểu như việc sai Thần Khí đi, cũng có nghĩa là cắt đứt với các viễn ảnh nô lệ phũ phàng và khuất phục tàn bạo. Missio Dei không phải là cuộc hành trình bước tới những cánh đồng giết chóc (killing fields). Nó là lễ khai tâm nhằm biến tình yêu lớn hơn kia thành công lý lớn hơn. Nó có nghĩa được dự phần vào thời khắc yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không chỉ ghi sổ người bị thương và người chết, như một máy ảnh, nhưng thổi vào họ Thần Khí của Người để họ có thể sống (Edk 37:14). Ánh mắt nhìn của Thiên Chúa được tháp tùng bằng một bài ca mới ca ngợi nền công lý Phục Sinh: “Chúa Kitô đã chỗi dậy!” Nhờ missio Dei , ngày Phục Sinh trở thành ngày đẩu tuần và chìa khóa của lịch sử.