Thông thường, khi đến thăm một quốc gia, Đức Giáo Hoàng sẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo dân sự và ngoại giao đoàn trước khi có các cuộc gặp gỡ khác. Chương trình tông du của Đức Thánh Cha tại Peru ban đầu cũng được hoạch định như vậy. Tuy nhiên, vào giờ chót đã có những thay đổi lớn.
Sáng thứ Sáu, 19 tháng Giêng, sau thánh lễ sáng tại Tòa Sứ Thần ở thủ đô Lima, lúc 8h30, Đức Thánh Cha sẽ đáp máy bay đi Puerto Maldonado. Nơi đây, ngài sẽ có cuộc gặp gỡ với các sắc dân thiểu số vùng Amazon tại sân vận động Mẹ Thiên Chúa, gặp dân chúng địa phương ở Viện Jorge Basadre, thăm trung tâm chăm sóc trẻ em Hogar Principito, và dùng bữa trưa với các đại diện thổ dân miền Amazon ở trung tâm mục vụ Apaktone trước khi lên máy bay trở về Lima để có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo dân sự và ngoại giao đoàn vào ban chiều.
Chữ Maldonado bao gồm hai từ mal là xấu xí, và donado là “được cho”. Trong tiếng Tây Ban Nha maldonado thường được dùng để chỉ những người xấu xí hay ngu xuẩn. Puerto nghĩa là một cảng (port). Tuy nhiên, Puerto Maldonado không có ý chỉ một cảng nhìn không có cảm tình lắm. Tên Maldonado được đặt để vinh danh nhà thám hiểm Faustino Maldonado.
Amazon là rừng nhiệt đới lớn nhất thế giới. Hai khu rừng nhiệt đới tiếp theo, ở Congo và Indonesia, kết hợp lại cũng không bằng.
Lưu vực Amazon bao gồm 7 triệu cây số vuông, trong đó có 5.5 triệu cây số vuông được rừng nhiệt đới bao phủ. Khu vực này bao gồm lãnh thổ thuộc 9 quốc gia, trong đó 60% rừng Amazon nằm trong lãnh thổ Ba Tây, 13% thuộc Peru, 10% thuộc Colombia, và phần còn lại thuộc về Venezuela, Ecuador, Bolivia, Guyana, Suriname và Guiana thuộc Pháp.
Đây là một vài hình ảnh giúp ta hình dung rừng Amazon lớn đến cỡ nào: Diện tích rừng Amazon có thể bao phủ 40 tiểu bang lớn nhất của Hoa Kỳ; hay là 40% lục địa Nam Mỹ.
Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới. Nó có hơn 1,100 nhánh, trong số đó 17 nhánh dài hơn 1600 km. Những nhánh này sẻ ngang, sẻ dọc khu rừng Amazon.
Vấn nạn lớn nhất trong khu vực này là tình trạng khai thác thiên nhiên bừa bãi, gây ra những thiên tai nghiêm trọng mà chung cuộc là những người nghèo trong khu vực phải lãnh đủ. Bên cạnh đó còn có tệ nạn cướp bóc đất đai của người nghèo và bóc lột nhân công, đặc biệt là nhân công trẻ em.
Ngày 12 tháng 2 năm 2005, nữ tu Dorothy Mae Stang, người Mỹ, là một thành viên của dòng nữ Notre Dame de Namur bị sát hại tại Anapu, một thành phố thuộc bang Pará, thuộc lưu vực sông Amazon của Brazil. Sơ Dorothy đã nỗ lực đấu tranh cho người nghèo và môi trường, và trước đó đã nhận được những lời dọa giết từ những người khai thác gỗ và các chủ đất. Nhiều bộ phim đã được làm để ca ngợi chị; và án phong thánh tử vì đạo cho chị đang được tiến hành tại Bộ Tuyên Thánh của Vatican.
Puerto Maldonado là một thành phố ở đông nam Peru trong vùng rừng Amazon, cách biên giới Bolivia 55km; nằm ở hợp lưu của hai con sông Tambopata và Madre de Dios (Mẹ Thiên Chúa). Đây là thủ phủ của vùng Madre de Dios.
Gần đó là Vườn Quốc gia Manu, Khu bảo tồn Quốc gia Tambopata và Vườn Quốc gia Bahuaja-Sonene, được thành lập để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên là những cánh rừng nguyên sinh nhất trên thế giới.
Trong những thế kỷ trước, đường giao thông đến miền Madre de Dios rất khó khăn. Do đó, những cánh rừng nguyên sinh này không bị xâm phạm.
Khu vực này chỉ được khám phá trong thời kỳ bùng nổ việc khai thác cao su vào cuối thế kỷ 19. Một trong các ông trùm cao su hoạt động trong khu vực này là Carlos Fermín Fitzcarrald. Trong một chuyến thám hiểm, Fitzcarrald đã tìm được cách vận chuyển cao su dọc theo sông Madre de Dios, rồi vào một chi lưu của sông Amazon để đến cảng Atlantic và thị trường xuất khẩu. Ông cũng xác định Puerto Maldonado là một địa điểm chiến lược. Ông qua đời vào năm 1897 khi con tàu Contamana của ông bị chìm tại địa điểm nơi Puerto Maldonado sau đó được thành lập.
Năm 1901, chính phủ Peru đã thành lập một ủy ban để khám phá rừng nhiệt đới của quốc gia này. Don Juan Villalta dẫn đầu cuộc thám hiểm dọc theo con sông Tambopata, và ông đã đề nghị với chính phủ chính thức thành lập Puerto Maldonado vào ngày 10 tháng 7 năm 1902.
Ông đã đặt tên cho cảng đường sông này là Maldonado để vinh danh nhà thám hiểm Faustino Maldonado, là người đã khám phá vùng Madre de Dios vào năm 1861 và bị chết đuối trên sông Mamoré.
Thị trấn Madre de Dios được chính thức thành lập theo sắc luật ngày 26 Tháng Mười Hai năm 1912, và Puerto Maldonado được chọn là trung tâm hành chính. Năm 1985, thị trấn này được chính thức công nhận là một thành phố.
Cũng như các nơi khác trong vùng Amazon, vấn nạn lớn nhất tại Puerto Maldonado là tình khai thác thiên nhiên bừa bãi, bóc lột nhân công, đặc biệt là nhân công trẻ em; và tình trạng nhiều thiếu nữ phải hành nghề mãi dâm để nuôi sống gia đình.
Cha Xavier Arbex de Morsier là một nhà truyền giáo người Thụy Sĩ. Ngài đã cống hiến 45 năm đời mình sống ở Pêru, và là một tiếng nói mạnh mẽ tố cáo sự khai thác trẻ em và môi sinh. Cha đã dùng tiền gia tài của cha mẹ mình để thành lập Hogar Principito (nhà dành cho các hoàng tử nhỏ), một nhà chăm sóc cho khoảng 250 trẻ em từ 3 đến 25 tuổi, và cả các thiếu nữ muốn thoát khỏi nghề mãi dâm. Đó là nơi Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm ngày 19 tháng Giêng. Dịp này, cha Xavier sẽ có hân hạnh đọc một diễn từ trước Đức Thánh Cha.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ Jean-Claude Gerez, cha cho biết có nhiều người dân trong vùng sống nhờ việc khai thác mỏ không chính thức và bất hợp pháp mà mỗi năm có thể sản xuất hàng chục tấn vàng. Những người dân lành ở đây bị bóc lột thê thảm, nhất là các trẻ em. Tuy nhiên, họ lại hài lòng với việc bị bóc lột như vậy. Thậm chí, cha Xavier cho biết khi hay tin Đức Giáo Hoàng đến thăm vùng này họ sợ lắm. Ngài nói:
“Theo tôi nghĩ, thì trong thâm tâm người dân không muốn Đức Giáo Hoàng đến đây. Họ không nói lên, nhưng chúng tôi nhìn ra được. Dân chúng nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng đến để lên án sự khai thác quặng mỏ và phá rừng bất hợp pháp cùng với các hệ quả xã hội và môi sinh. Họ sợ sau chuyến đi của Đức Giáo Hoàng, chính quyền có lý do để mang quân đội đến càn quét, làm cho họ mất công ăn việc làm.”
Ngày 5 tháng Giêng năm 1900, Đức Giáo Hoàng Lêô thứ 13, ban hành sắc lệnh thành lập miền Phủ Doãn Tông Tòa San Domingo de Urubamba và cử Cha Ramón Zubieta y Les coi sóc. Ngài được tấn phong Giám Mục một năm sau đó. Đến ngày 4 tháng 7 năm 1913, Đức Giáo Hoàng Piô thứ 10, nâng miền Phủ Doãn Tông Tòa San Domingo de Urubamba lên miền Giám Quản Tông Tòa Mẹ Thiên Chúa. Ngày 10 tháng Ba năm 1949, Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 truyền đặt tên lại là miền Giám Quản Tông Tòa Puerto Maldonado.
Hiện nay, miền Giám Quản Tông Tòa Puerto Maldonado do Đức Cha David Martínez De Aguirre Guinea, dòng Đa Minh, coi sóc cùng với 55 linh mục trong đó có 29 linh mục triều và 26 linh mục dòng. Miền Giám Quản Tông Tòa Puerto Maldonado được chia thành 22 giáo xứ. Bên cạnh các linh mục còn có 32 nam tu sĩ không có chức linh mục và 35 nữ tu.
Sáng thứ Sáu, 19 tháng Giêng, sau thánh lễ sáng tại Tòa Sứ Thần ở thủ đô Lima, lúc 8h30, Đức Thánh Cha sẽ đáp máy bay đi Puerto Maldonado. Nơi đây, ngài sẽ có cuộc gặp gỡ với các sắc dân thiểu số vùng Amazon tại sân vận động Mẹ Thiên Chúa, gặp dân chúng địa phương ở Viện Jorge Basadre, thăm trung tâm chăm sóc trẻ em Hogar Principito, và dùng bữa trưa với các đại diện thổ dân miền Amazon ở trung tâm mục vụ Apaktone trước khi lên máy bay trở về Lima để có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo dân sự và ngoại giao đoàn vào ban chiều.
Chữ Maldonado bao gồm hai từ mal là xấu xí, và donado là “được cho”. Trong tiếng Tây Ban Nha maldonado thường được dùng để chỉ những người xấu xí hay ngu xuẩn. Puerto nghĩa là một cảng (port). Tuy nhiên, Puerto Maldonado không có ý chỉ một cảng nhìn không có cảm tình lắm. Tên Maldonado được đặt để vinh danh nhà thám hiểm Faustino Maldonado.
Amazon là rừng nhiệt đới lớn nhất thế giới. Hai khu rừng nhiệt đới tiếp theo, ở Congo và Indonesia, kết hợp lại cũng không bằng.
Lưu vực Amazon bao gồm 7 triệu cây số vuông, trong đó có 5.5 triệu cây số vuông được rừng nhiệt đới bao phủ. Khu vực này bao gồm lãnh thổ thuộc 9 quốc gia, trong đó 60% rừng Amazon nằm trong lãnh thổ Ba Tây, 13% thuộc Peru, 10% thuộc Colombia, và phần còn lại thuộc về Venezuela, Ecuador, Bolivia, Guyana, Suriname và Guiana thuộc Pháp.
Đây là một vài hình ảnh giúp ta hình dung rừng Amazon lớn đến cỡ nào: Diện tích rừng Amazon có thể bao phủ 40 tiểu bang lớn nhất của Hoa Kỳ; hay là 40% lục địa Nam Mỹ.
Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới. Nó có hơn 1,100 nhánh, trong số đó 17 nhánh dài hơn 1600 km. Những nhánh này sẻ ngang, sẻ dọc khu rừng Amazon.
Vấn nạn lớn nhất trong khu vực này là tình trạng khai thác thiên nhiên bừa bãi, gây ra những thiên tai nghiêm trọng mà chung cuộc là những người nghèo trong khu vực phải lãnh đủ. Bên cạnh đó còn có tệ nạn cướp bóc đất đai của người nghèo và bóc lột nhân công, đặc biệt là nhân công trẻ em.
Ngày 12 tháng 2 năm 2005, nữ tu Dorothy Mae Stang, người Mỹ, là một thành viên của dòng nữ Notre Dame de Namur bị sát hại tại Anapu, một thành phố thuộc bang Pará, thuộc lưu vực sông Amazon của Brazil. Sơ Dorothy đã nỗ lực đấu tranh cho người nghèo và môi trường, và trước đó đã nhận được những lời dọa giết từ những người khai thác gỗ và các chủ đất. Nhiều bộ phim đã được làm để ca ngợi chị; và án phong thánh tử vì đạo cho chị đang được tiến hành tại Bộ Tuyên Thánh của Vatican.
Puerto Maldonado là một thành phố ở đông nam Peru trong vùng rừng Amazon, cách biên giới Bolivia 55km; nằm ở hợp lưu của hai con sông Tambopata và Madre de Dios (Mẹ Thiên Chúa). Đây là thủ phủ của vùng Madre de Dios.
Gần đó là Vườn Quốc gia Manu, Khu bảo tồn Quốc gia Tambopata và Vườn Quốc gia Bahuaja-Sonene, được thành lập để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên là những cánh rừng nguyên sinh nhất trên thế giới.
Trong những thế kỷ trước, đường giao thông đến miền Madre de Dios rất khó khăn. Do đó, những cánh rừng nguyên sinh này không bị xâm phạm.
Khu vực này chỉ được khám phá trong thời kỳ bùng nổ việc khai thác cao su vào cuối thế kỷ 19. Một trong các ông trùm cao su hoạt động trong khu vực này là Carlos Fermín Fitzcarrald. Trong một chuyến thám hiểm, Fitzcarrald đã tìm được cách vận chuyển cao su dọc theo sông Madre de Dios, rồi vào một chi lưu của sông Amazon để đến cảng Atlantic và thị trường xuất khẩu. Ông cũng xác định Puerto Maldonado là một địa điểm chiến lược. Ông qua đời vào năm 1897 khi con tàu Contamana của ông bị chìm tại địa điểm nơi Puerto Maldonado sau đó được thành lập.
Năm 1901, chính phủ Peru đã thành lập một ủy ban để khám phá rừng nhiệt đới của quốc gia này. Don Juan Villalta dẫn đầu cuộc thám hiểm dọc theo con sông Tambopata, và ông đã đề nghị với chính phủ chính thức thành lập Puerto Maldonado vào ngày 10 tháng 7 năm 1902.
Ông đã đặt tên cho cảng đường sông này là Maldonado để vinh danh nhà thám hiểm Faustino Maldonado, là người đã khám phá vùng Madre de Dios vào năm 1861 và bị chết đuối trên sông Mamoré.
Thị trấn Madre de Dios được chính thức thành lập theo sắc luật ngày 26 Tháng Mười Hai năm 1912, và Puerto Maldonado được chọn là trung tâm hành chính. Năm 1985, thị trấn này được chính thức công nhận là một thành phố.
Cũng như các nơi khác trong vùng Amazon, vấn nạn lớn nhất tại Puerto Maldonado là tình khai thác thiên nhiên bừa bãi, bóc lột nhân công, đặc biệt là nhân công trẻ em; và tình trạng nhiều thiếu nữ phải hành nghề mãi dâm để nuôi sống gia đình.
Cha Xavier Arbex de Morsier là một nhà truyền giáo người Thụy Sĩ. Ngài đã cống hiến 45 năm đời mình sống ở Pêru, và là một tiếng nói mạnh mẽ tố cáo sự khai thác trẻ em và môi sinh. Cha đã dùng tiền gia tài của cha mẹ mình để thành lập Hogar Principito (nhà dành cho các hoàng tử nhỏ), một nhà chăm sóc cho khoảng 250 trẻ em từ 3 đến 25 tuổi, và cả các thiếu nữ muốn thoát khỏi nghề mãi dâm. Đó là nơi Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm ngày 19 tháng Giêng. Dịp này, cha Xavier sẽ có hân hạnh đọc một diễn từ trước Đức Thánh Cha.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ Jean-Claude Gerez, cha cho biết có nhiều người dân trong vùng sống nhờ việc khai thác mỏ không chính thức và bất hợp pháp mà mỗi năm có thể sản xuất hàng chục tấn vàng. Những người dân lành ở đây bị bóc lột thê thảm, nhất là các trẻ em. Tuy nhiên, họ lại hài lòng với việc bị bóc lột như vậy. Thậm chí, cha Xavier cho biết khi hay tin Đức Giáo Hoàng đến thăm vùng này họ sợ lắm. Ngài nói:
“Theo tôi nghĩ, thì trong thâm tâm người dân không muốn Đức Giáo Hoàng đến đây. Họ không nói lên, nhưng chúng tôi nhìn ra được. Dân chúng nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng đến để lên án sự khai thác quặng mỏ và phá rừng bất hợp pháp cùng với các hệ quả xã hội và môi sinh. Họ sợ sau chuyến đi của Đức Giáo Hoàng, chính quyền có lý do để mang quân đội đến càn quét, làm cho họ mất công ăn việc làm.”
Ngày 5 tháng Giêng năm 1900, Đức Giáo Hoàng Lêô thứ 13, ban hành sắc lệnh thành lập miền Phủ Doãn Tông Tòa San Domingo de Urubamba và cử Cha Ramón Zubieta y Les coi sóc. Ngài được tấn phong Giám Mục một năm sau đó. Đến ngày 4 tháng 7 năm 1913, Đức Giáo Hoàng Piô thứ 10, nâng miền Phủ Doãn Tông Tòa San Domingo de Urubamba lên miền Giám Quản Tông Tòa Mẹ Thiên Chúa. Ngày 10 tháng Ba năm 1949, Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 truyền đặt tên lại là miền Giám Quản Tông Tòa Puerto Maldonado.
Hiện nay, miền Giám Quản Tông Tòa Puerto Maldonado do Đức Cha David Martínez De Aguirre Guinea, dòng Đa Minh, coi sóc cùng với 55 linh mục trong đó có 29 linh mục triều và 26 linh mục dòng. Miền Giám Quản Tông Tòa Puerto Maldonado được chia thành 22 giáo xứ. Bên cạnh các linh mục còn có 32 nam tu sĩ không có chức linh mục và 35 nữ tu.