RIO AMAZON - Cuộc thám hiểm Amazon gồm sông và lưu vực rừng già mưa nhiệt đới rông lớn có tầm mức quan trọng, vì đây là khu vực có thể nói còn nguyên sơ nhất thế giới, trong đó có tới 10% trăm tất cả các loài động vật và thực vật được biết đến trên thế giới sinh sống ở đây. Từ những con báo đốm để vẹt đuôi dài và cá heo màu hồng đến những con ếch trong suốt như thủy tinh… Amazon là một khu vực đa dạng sinh học đáng kinh ngạc và độc đáo mà chúng tôi đã bắt đầu từ cửa sông bên bờ Đại Tây Dương ngược dòng tiến lên thượng nguồn vào sâu khoảng 1000 cây số. Cửa sông chúng tôi tiến vào có bề rộng tới 10 cây số, nếu tính cửa sông Amazon gồm tất cả các nhánh đổ ra biển thì toàn thể chiều rộng là trên 100 cây số. Như vậy bạn có tưởng tượng được con sông này hùng vĩ và to lớn như thế nào.
Chúng tôi sẽ thăm các nhà thờ thời thuộc địa ở Santarém, Macapa, Manaaus và các thí điểm truyền giáo khác. Đặc biệt sẽ ngủ đêm tại một làng dân bản địa Amazon để cảm nghiệm được tiếng gọi của rừng gìa, chạm tay vào sinh vật và những giống cây cổ thụ ngàn năm. Ở một làng nhỏ khác chỉ có 100 người chúng tôi sẽ sinh sống và tìm hiểu về cuộc sống của họ.
Trên đường theo ngược dòng sông về nguồn sẽ được nhìn tận mắt khu vực hai dòng sông lớn giao nhau mà nước vẫn chảy song hành trong khoảng 7 cây số đó là đoạn sông Amazon giao hợp với sông Negro. Nước phù sa mầu nâu của Amazon vẫn song hành với nước mầu xanh đen của dòng sông Negro.
Với 209.000 mét khối (55 triệu gallon) nước chảy vào Thái Bình Dương mỗi thứ giây tức là năm lần so với kích thước của sông Congo con sông sớn thứ 2 bên Phi châu. Toàn vùng lưu vực Amazon để nước thoát vào rộng khoảng 7 triệu km vuông (2,7 triệu dặm vuông) đó là lưu vực thoát nước lớn nhất trên thế giới. (Khi so sánh ta sẽ thấy nó lớn gần bằng diện tích cả Hoa Kỳ (8.000.000 km vuông hay 3.1 triệu dặm vuông.)
Cuộc thám hiểm vùng Amazon không chỉ cho chúng tôi thấy được sự giàu có văn hóa và thiên nhiên của khu vực và kinh nghiệm nhìn thấy những rừng mưa kéo dài trong mọi hướng, nhưng khi đi dọc theo chiều dài của dòng sông Amazon, chúng tôi sẽ không chỉ thăm một số làng mạc xa xôi về địa lý, nhưng còn là nhận thức và cảm nghiệm thấy những nếp sống và trình độ dân chúng ở đây thực là ở xa vời so với văn hóa đương đại của chúng ta.
Các nhà khóa học khi khám phá vùng Amazon đã cho biết có đến khoảng 400 bộ lạc người dân bản địa khác nhau sống ở vùng Amazon qua nhiều thế kỷ, và ngay cả những bộ lạc mà còn chưa được biết đến… vẫn còn sống trong thanh bình và trong khung cảnh thiên nhiên chưa bị khuấy động từ 10.000 năm về trước.
Cùng đồng hành trên tầu du lịch với chúng tôi có các chuyên gia và các nhà khảo cứu chuyên về vùng sinh thái Amazon sẽ trình bầy những đề tài hấp dẫn như Tiến sĩ Valerie Mock nói về “Thế giới cổ và Thế giới mới: Cuộc trao đổi Colombo”, hay đề tài “Những khai thác thương mại dẫn đến việc tàn phá rừng mưa Amazon thế nào”. Chuyên gia Tommie Sue Montgomery trình bày về “Amazonia và Môi trường”, v.v…
Lịch sử việc thám hiểm Sông Amazon
Amazon ở Nam Mỹ là con sông lớn nhất xả nước trên thế giới và, theo một số tác giả là sông dài nhất thế giới.
Các thượng nguồn của sông Apurimac tại Nevado Mismi gần một thế kỷ qua được coi như là nguồn xa nhất của Amazon, nhưng một nghiên cứu năm 2014 thấy thượng nguồn ở Cordillera Rumi Cruz của sông Mantaro ở Peru mới là nguồn xa nhất.
Hai sông Mantaro và Apurimac hợp lưu, và với các nhánh sông khác tạo thành sông Ucayali và rồi lại giao lưu với sông Marañón thượng nguồn của Iquitos, Peru, để hình thành thân chính của Amazon mà Brazil gọi phần này là sông Solimões trên phần hợp lưu với sông Rio Negro ở Manaus mà Hội nghị về nuớc tại Bồ Đào Nha gọi là “Encontro das Águas”. Manaus là thành phố lớn nhất trên con sông Amazon.
Trung bình mỗi giây sông Amazon xả nước khoảng 209.000 mét khối (7.400.000 cu ft, hay 209.000.000 Lít, hay 55.000.000 US gallons ) nghĩa là chừng 6.591 km khối mỗi năm (1.581 cu mi) (lớn hơn tổng số bảy lần các sông lớn kế tiếp khác trên thế giới cộng lại). Cũng có nghĩa là sông Amazon xả nước 20% tổng số của việc xả vào đại dương toàn cầu. Lưu vực Amazon là lưu vực thoát nước lớn nhất thế giới, với diện tích khoảng 7.050.000 km vuông (2.720.000 dặm vuông).
Lịch sử thời tiền nhà thám hiểm Columbo tới Mỹ châu
Nhiều nhà khảo cổ học gọi giai đoản trước khi Columbô tới Mỹ là giai đoạn hình thành, các xã hội người sống trong vùng thuộc hệ thống nông nghiệp vùng cao của Nam Mỹ. Việc buồn bán với dân tộc thuộc cá nền văn minh sống gần rặng núi Andes địa hình của đầu nguồn của sông ở Andes, hình thành và đóng góp quan trọng cho sự phát triển xã hội và tôn giáo của các nền văn minh sống vùng cao nguyên bao gồm những bộ lạc người Muisca và Inca.
Khu định cư của con người đầu tiên được tìm thấy thường dựa trên những ngọn đồi thấp hay gò. Năm loại gò được khảo cổ học ghi nhận trong khu vực Amazon: gò nhân tạo, nền tảng đất nhân tạo cho toàn bộ ngôi làng, gò đất và rặng núi để tu luyện, đường và các kênh rạch, và gò hình tượng, cả hình học.
Có bằng chứng cho thấy các khu vực xung quanh sông Amazon đã có những khu định cư có quy mô lớn của người bản địa, chủ yếu là do những tộc trưởng đã phát triển nên.
Các nhà khảo cổ ước tính rằng vào thời điểm ông De Orellana người Tây Ban Nha thám hiểm Amazon vào năm 1541, đã có hơn 3 triệu người dân bản địa sống xung quanh Amazon. Những khu định cư thời tiền Columbo này đã có nền văn minh phát triển cao độ. Ví dụ, người dân bản địa thời tiền Columbo trên đảo Marajó đã có cộng đồng phân tầng xã hội và có thể hỗ trợ dân số khoảng độ 100.000 người.
Để đạt được mức độ phát triển như vậy, cư dân bản địa của rừng nhiệt đới Amazon biết thay đổi hệ sinh thái rừng bằng cách trồng trọt chọn lọc và sử dụng lửa. Các nhà khoa học cho rằng bằng cách đốt khu vực rừng liện tục, người dân bản địa làm cho đất để trở nên giàu chất dinh dưỡng. Điều này tạo ra vùng đất tối được gọi là ‘terra preta de indio’ (đất đen người indio).
Bởi vì có đất đen tốt, các cộng đồng bản địa đã có thể làm cho đất màu mỡ và do đó bảo đảm cho nông nghiệp quy mô lớn cần thiết để hỗ trợ các quần thể cư trú lớn và các cấu trúc xã hội phức tạp của họ. Cuộc nghiên cứu khác đã đưa ra giả thuyết rằng việc thực hành canh tác đất thay phiền này bắt đầu vào khoảng 11.000 năm trước đây. Một số nghiên cứu cho rằng ảnh hưởng của nó lên hệ sinh thái rừng và khí hậu khu vực ảnh hưởng về lượng mưa thấp hơn tại các lưu vực sông Amazon.
Nhiều bộ tộc bản địa tham gia vào chiến tranh triền miên, nhà thám hiểm James Stuart Olson đã viết: "Việc bộ tộc Munduruku bành trướng đả phá vỡ và di dời bộ tộc Kawahíb, các bộ lạc đã phân tán thành các nhóm nhỏ hơn nhiều ... Người dân Munduruku được người châu Âu chú ý đến đầu tiên vào năm 1770 khi họ bắt đầu một loạt các cuộc tấn công trên bình diện rộng các khu định cư của người Brazil cùng trên bờ sông Amazon. "
Những người Âu châu tiền phong khám phá ra Amazon
Theo tài liệu còn ghi lại thì tháng ba năm 1500, nhà thám hiểm Tây Ban Nha là Vicente Yáñez Pinzón là người châu Âu đầu tiên đi thuyền lên sông Amazon.
Pinzón đặt tên là sông Río Santa María del Mar Dulce (Sông Thánh Maria Biển Khơi Dịu Hiền), sau đó rút ngắn Mar Dulce (Sông Biển Dịu Hiền), theo nghĩa đen là biển ngọt ngào, vì nước sông ngọt của nó chảy ra ngoài đại dương.
Gonzalo Pizarro lên đường vào năm 1541 để khám phá phía đông của Quito bên nội địa Nam Mỹ muốn tìm kiếm "thành phố vàng El Dorado, " và "thung lũng của quế La Canela ". [14] Có nhà thám hiểm Francisco de Orellana làm phụ tá. Sau khi di chuyển được 170 km (110 dặm), sông Coca hợp giao với sông Napo (tại một điểm mà nay được biết đến là cảng Puerto Francisco de Orellana), đoàn dừng lại một vài tuần để xây dựng một chiếc thuyền hầu đi lên thượng nguồn từ ngã ba này. Họ tiếp tục đi về phía hạ lưu sông qua một khu vực không có người ở, nơi mà họ không thể tìm ra thức ăn. Vì thế Ông Orellana được lệnh đi theo sông Napo, sau đó được gọi là Río de la Canela (sông Quế) và trở về có đầy đủ thực phẩm cho đoàn thám hiểm. Dựa trên thông tin tình báo nhận được từ một tù trưởng bản địa có tên là Delicola, họ mong sẽ có thức ăn trong vòng một vài ngày ở phía hạ lưu một dòng sông khác ở phía bắc.
De Orellana cùng với khoảng 57 người, một chiếc thuyền, và một số ca nô rồi rời nhóm Pizarro vào ngày 26 Tháng 12 1541. Tuy nhiên, Ông De Orellana dường như bỏ không để ý tới ngã ba (có lẽ ở Aguarico) và lạc lối, nơi mà ông đã muốn tìm kiếm nguồn cung cấp thực phẩm cho đoàn của mình. Vào thời điểm khi ông và đoàn tùy tùng đến một làng khác, nhiều người trong số họ đã bị bệnh do bị đói và ăn phải "câh có độc" nên gần chết. Bảy người đàn ông chết tại ngôi làng đó. Những người còn lại đe dọa bạo loạn nếu ông Orellana không quay trở lại để tham gia cùng đoàn thám hiểm với ông Pizarro. Ông chấp nhận thay đổi mục đích của cuộc thám hiểm để khám phá vùng đất mới nhân danh vua Tây Ban Nha, và họ xây dựng một chiếc thuyền lớn hơn mục đích đi về hướng hạ lưu.
Sau một cuộc hành trình chừng 600 km xuống hạ lưu sông Napo họ đạt đến một ngã ba lớn hơn nữa, tại một điểm gần Iquitos hiện đại, và sau đó đi về phía thượng lưu Amazon, nay gọi là Solimões, đi cho thêm 1.200 km (750 dặm) ở hợp lưu của nó với sông Rio Negro (gần với thành phố Manaus hiện đại). Họ tới địa điểm này vào ngày 3 tháng 6 năm 1542.
Trên sông Nhamundá, một nhánh của Amazon hạ lưu từ thành Manaus, đoàn thám hiểm Orellana đã có một trận chiến khốc liệt với các chiến binh người được lãnh đạo bởi những nữ chiến binh ác liệt. Những nữ chiến binh này không ngại dùng dùi cui đánh đàn ông của họ nếu họ rút lui.
Những người của đoàn Orellana bắt đầu đề cập đến những người phụ nữ này như là chiến binh Amazon như trong thần thoại Hy Lạp. Con sông ban đầu được biết đến với tên là sông Marañón hoặc sông Rio de Orellana (phần sông này về phía Peru nay vẫn còn gọi là sông Marañón ). Sau này được gọi là sông Rio Amazonas, tên mà cả người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều công nhận.
Về nhiệm vụ ban đầu của việc tìm kiếm quế, Pizarro đã báo cáo với vua Bồ Đào Nha rằng họ đã tìm thấy cây quế, nhưng họ không thể thu hoạch được lợi nhuận. Trong thực tế, cây quế đúng danh (Cinnamomum verum) là không có nguồn gốc Nam Mỹ. Cây quế có liên quan và chứa chất quế (thuộc họ Lauraceae) là khá phổ biến trong lưu vực Amazon và đoàn Pizarro tìm thấy là loại quế này. Đoàn thám hiểm tới cửa sông Amazon bên bờ Đại Tây Dương vào ngày 24 tháng 8 năm 1542, chứng tỏ thực tế là của sông lớn này có thể thông thương và tầu bè đi lại dễ dàng.
Năm 1560 một nhà thám hiểm Tây Ban Nha khác là Lope de Aguirre, có thể là người thứ hai đã đã đi theo xuống hạ nguồn sông Amazon. Nhưng các nhà sử học không chắc chắn rằng sông mà ông đi theo xuống là sông Amazon hay sông Orinoco, vì sông Orinoco chạy ít nhiều song song với Amazon về phía bắc.
Nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khác là Pedro Teixeira là người châu Âu đầu tiên đi ngược dòng lên toàn bộ sông Amazon. Ông đến Quito vào năm 1637, và trở về thông qua cùng một tuyến đường. [15]
Từ năm 1648 tới 1652, đoàn thám hiểm hỗn hợp Bồ Đào Nha Ba Tây Brazil dẫn đầu bởi António Raposo Tavares đã làm cuộc thám hiểm từ São Paulo đi bộ đến miệng sông Amazon, đoàn điều tra nhiều phụ lưu của sông này, bao gồm cả sông Rio Negro, cuộc thám hiểm bao gồm một khoảng cách hơn 10.000 cây số vuông (tức 6.214 dặm).
Vào cuối thập niên 1600 Linh mục Dòng Tên Samuel Fritz người Tây Ban Nha, vị tông đồ của Omaguas, đã thành thành lập tới chừng 40 làng mục vụ truyền giáo theo dòng sông Amazon.
Những làng mạc và giáo điểm truyền giáo đó các quốc gia như Brazil, Ecuador, Bolivia, Colombia, Peru và Venezuela đều công nhân. Họ cũng gọi là các khu định cư thuộc địa, các giáo xứ tôn giáo đã được thành lập dọc theo bờ con sông chính Amazon và các nhánh , các khu thương mại, buôn bán nô lệ, và ghi nhận các khu vực với mục đích phúc âm hóa giữa các dân tộc bản địa rộng lớn rừng nhiệt đới, chẳng hạn như Urarina.
Tại sao gọi tên là Amazon?
Theo tài liệu còn ghi lại thì tháng ba năm 1500, nhà thám hiểm Tây Ban Nha là Vicente Yáñez Pinzón là người châu Âu đầu tiên đi thuyền lên sông Amazon. [13] Pinzón đặt tên là sông Río Santa María del Mar Dulce (Sông Thánh Maria Biển Khơi Dịu Hiền), sau đó rút ngắn Mar Dulce (Sông Biển Dịu Hiền), theo nghĩa đen là biển ngọt ngào, vì nước sông ngọt của nó chảy ra ngoài đại dương.
Một nhà thám hiểm Tây Ban Nha khác Francisco de Orellana, là người châu Âu đầu tiên hành trình từ nguồn gốc của các lưu vực sông thượng nguồn, nằm trong dãy núi Andes, đến cửa sông. Trong cuộc hành trình này, Orellana đặt tên sông là Amazonas và đặt tên cho một số sông thượng lưu là sông Rio Negro, dòng Napo và sông Jurua. Sở dĩ ông đặt tên sông Amazonas vì trong cuộc hành trình thám hiểm này, ông và đoàn tùy từng bị các các chiến binh bản địa tấn công mà chủ yếu họ là nữ chiến binh, ông De Orellana nhớ lại truyện tích của các nữ chiến binh Amazon từ văn hóa Hy Lạp cổ đại ở Hy Lạp.
Trước khi tìm hiểu về dòng sông Amazon, rừng già mưa nhiệt đới, lưu vực Amazon và những vấn đề như môi trường, khu vực sinh thái, dân bản địa, nguồn nước và tầm quan trọng của Amazon với toàn thể thế giới, nhân cơ hội này có lẽ đề tài về “Nữ chiến binh Amazon là ai?” cũng là dịp đề chúng ta tìm hiểu về một huyền thoại đã từng vừa là sự tích quan trọng vừa lãng mạng trong nền văn minh và lịch sử của Hy Lạp, đã từng là đề tài cho biết bao phim ảnh, và ngay cả ngày nay một trang điện toàn bán hàng lớn nhất thế giới cũng có tên là Amazon.com
Tìm hiểu về Nữ chiến binh Amazon là huyền thoại hay là thực
Trong thần thoại Hy Lạp nói đến những nữ chiến binh Amazon. Nữ hoàng nổi tiếng của Amazon là Penthesilea đã từng tham gia vào Chiến tranh Troy, và em gái là Hippolyta, có dây đai lưng huyền diệu do cha là thần Ares tặng, dây đai này là đối tượng mà thần Hercules muốn chiếm đoạt.
Trên bình diện khảo cổ, các nữ chiến binh Amazon thường được miêu tả trong các trận chiến với các chiến binh Hy Lạp trong nghệ thuật chiến tranh cổ điển như các hình vẽ trên bình gốm, tượng chiến trên các phù diêu…
Nữ chiến binh Amazon cũng từng được liên kết với các nhân vật lịch sử trong suốt thời kỳ Đế chế La Mã và thời kỳ cổ đại sau đó. Trong lịch sử La Mã, có nhiều báo cáo về các cuộc đột kích của chiến binh Amazon tại Anatolia. Tên Amazon của họ đã trở thành một thuật ngữ cho nữ chiến binh nói chung. Người ta cho rằng người Amazon đã thành lập các thành phố và đền thờ ở Smyrna, Sinope, Cyme, Gryne, Ephesus, Pitania, Magnesia, Clete, Pygela, Latoreria và Amastris ở miền Trung Đông.
Trên thực tế phụ nữ người Scythia là cơ sở về huyền thoại chiến binh Amazon. Herodotus là người đầu tiên nói về những nữ chiến binh này có liên quan đến người Scythia, một khu vực giáp biên giới của Scythia với Sarmatia (nay là lãnh thổ Ukraine).
Câu chuyện về nữ chiến binh Amazon do Herodotus kể như thế nào?
Nhiều ngàn năm trước đây, một nhóm những kẻ xâm lược Hy Lạp đã mạo hiểm đi vào miền đất mà bây giờ là miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ. Đi ngang qua thảo nguyên, họ gặp một nhóm các chiến binh phụ nữ. Những người Hy Lạp bắt cóc họ, khóa họ trong những chiếc thuyền của họ, và lên thuyền về nhà. Nhưng các chiến binh Amazon đã trốn thoát. Họ thu hồi lại được vũ khí của họ và giết những kẻ bắt cóc của họ.
Họ là những người quen đi ngựa và không biết làm thế nào để đi thuyền, các tàu thuyền này đã đi lạc quá xa. Cuối cùng, họ đã cập đất liền ở vùng Crimea. Họ lên bờ và lấy trộm được một số ngựa. Họ bắt đầu đi lang thang, tập trung vào cướp bóc và phát triển sức mạnh của họ.
Gần đó có khu định cư của người Scythia. Hầu hết người Scythia là những người du mục, người cưỡi ngựa trên thảo nguyên. Những người Scythia là những gia buôn bán giàu có đã từng định cư tại các thị trấn. Để tránh bị cướp đột nhập, lãnh đạo người Scythia đã phái các thám tử đi tuần tra bên ngoài và họ đã khám phá ra rằng kẻ cướp phá là các phụ nữ kỳ lạ có tên là Amazon.
Câu chuyện được nhà khảo cứu văn chương cổ điển tên là Adrienne Mayor hiện tại có trụ sở ở đại học Stanford, người mà tất cả là chuyên gia cho là một nghiên cứu gia hàng đầu thế giới về các chiến binh nữ cổ đại Amazon. Trong sách "The Amazons: Lives and Legends of Warrior Women Across the Ancient World – Amazon: Đời sống và Huyền sử của các Nữ Chiến binh trong Thế giới Cổ đại".
Bà tiếp nối câu chuyện như sau: Những người Scythia thấy các kẻ cướp biển nữ Amazon rất hấp dẫn. Họ đã lên kế hoạch thay vì đưa binh lính đi giết những kẻ cướp biển, họ tập hợp một nhóm thanh niên trẻ đẹp để đi chiêu dụ những phụ nữ này. Xem ra cuộc sống ở thị trấn dù sang trọng, nhưng như thiếu một điều gì đó: các phụ nữ Hoàng gia Scythia chủ yếu ở trong nhà, làm việc nhà và cảm thấy chán. Có lẽ một số phụ nữ Amazon không sợ hãi, táo bạo có thể làm cuộc sống thêm gia vị lên hương…
Thế rồi nhóm thanh niên mạo hiểm đi ra ngoài thành và họ đã tìm thấy các phụ nữ cưỡi ngựa này. Họ dựng trại và đi lang thang quanh đó chờ đợi cho đến một buổi chiều, một phụ nữ Amazon duy nhất đi bộ một mình. Adrienne Mayor viết trong "Amazon: Cuộc sống và Huyền sử " rằng: “Khỏi phải nói lên lời, một chàng thanh niên đã tiến tới ve vãn cô nàng Amazon và nàng đã đáp lại. Họ yêu nhau ngay trên bãi cỏ... Sau đó, cô nàng Amazon ra dấu hiệu rằng ngày hôm sau cũng muốn anh ta trở lại điểm này và mang một người bạn. Nàng nói rằng nàng cũng sẽ mang một người bạn nữa."
Chẳng bao lâu, người Amazon và người Scythia củng cố doanh trại của họ, và những người đàn ông trẻ tuổi đã đưa ra một đề nghị: Tại sao các nàng không trở lại và sống với họ? Họ có tiền, nhà cửa và cha mẹ - chắc chắn sẽ ổn định cuộc sống sẽ tốt hơn cuộc sống trên thảo nguyên.
Nhưng phụ nữ Amazon không tin, trại lại đã đưa ra một đề nghị: Tại sao các chàng trai không rời khỏi thị trấn phía sau và sống cuộc đời phiếu lưu như họ: cưỡi ngựa, cướp bóc, và ngủ dưới ánh sao? Thế rồi những chàng trai bỏ lại mọi sự khăn gói quả mướp lên đường…
Herodotus tường thuật rằng những người Sarmatian, là hậu duệ do sự kết hợp giữa người Amazon và Scythia đã tạo ra một xã hội đặc trưng bởi sự bình đẳng giới tính, trong đó nam và nữ đã bình đảng trong cuộc sống.
Về phần Adrienne Mayor thì nhận định rằng: “Đó là một câu chuyện, trong đó câu trả lời cho câu hỏi ai là người thống trị và ai là người bị thuần hoá là: không ai cả."
Câu hỏi tự nhiên, khi ta phải đối mặt với một câu chuyện như thế này là: Nó đúng như thế? Trong "Amazon" tác giả Adrienne Mayor lập luận rằng, mặc dù nó không phải là sự thật trong tất cả các chi tiết của nó, nó vẫn đúng đa phần. Bằng chứng, bà viết, chỉ ra thực tế rằng có thực sự là có người Amazon: trong một số các vật khảo cổ đào được Âu Á, có tới 37% ngôi mộ chứa xương và vũ khí của những phụ nữ cỡi ngựa đã chiến đấu bên cạnh đàn ông.
Bà Adrienne Mayor viết: "Các mũi tên dùng để săn bắn và chiến đấu, là những vũ khí thông dụng nhất được chôn cùng với phụ nữ, nhưng kiếm, dùi đui, dao găm, áo giáp, lá chắn và đá cuội dùng để bắn nỏ cũng được tìm thấy tại các mộ". Đây là những phụ nữ mà người Hy Lạp gặp phải trong các cuộc thám hiểm xung quanh Biển Đen; họ đã truyền cảm hứng cho những câu chuyện tương tự trong số những du khách từ Ba Tư, Ai Cập, Trung Quốc, và những nơi khác.
Ở Hy Lạp, nữ chiến binh Amazon là đối tượng cho những câu chuyện lãng mạn quyến rũ. Xã hội của họ, trong đó cả nam giới và phụ nữ đều có thể thể hiện được nhệ thuật chinh chiến và võ trang, điều này đối lập với xã hội Hy Lạp, trong đó chỉ có nam giới mới có thể dũng cảm. Bà Mayor bình luận rằng: “Các câu chuyện Hy Lạp về người Amazon, nó đã thể hiện mong muốn của người Hy Lạp cổ đại về bình đẳng giới tính.”
“Trong một thời gian dài, hầu hết mọi người đều lập luận rằng những người Amazon trên những chiếc bình Hy Lạp hoàn toàn tượng trưng – tiểu biểu cho những cô gái trẻ chưa cưới. Việc giải thích này đã bị thách thức bởi vô số những vật dụng về khảo cổ học. Những khám phá cho thấy có những phụ nữ thực đã cư xử như những người Amazon: họ mặc cùng bộ quần áo, đã sử dụng vũ khí, đã cưỡi ngựa và đã sống cùng thời với những người Hy Lạp cổ đại. Giờ đây chúng ta có thể biết một cách cụ thể là cuộc sống của Amazon như thế nào. Có thể khẳng định rõ ràng là người Amazon là những người du mục Scythia sống trên lãnh thổ phía Bắc của Biển Đen - khoảng giữa Balkans về phía tây và vùng Caucasus về phía đông.
Bà Mayor khẳng định rằng: “Họ không phải là ‘những trinh nữ ghét đàn ông’ nhưng chỉ đơn giản là thành viên của "dân tộc nổi tiếng vì có những phụ nữ mạnh mẽ và tự do". Không ai biết từ "Amazon" xuất phát từ đâu - nó không phải là tiếng Hy Lạp - nhưng có một số giải thích khả đáng, bao gồm cả một từ của Iran cổ đại có nghĩa là "chiến binh”. Nghệ thuật chiến tranh ở Hy Lạp tập trung vào bộ binh - đó là, về những người đàn ông có vỏ bọc giáp “amored”. Bà Mayor viết: "Con ngựa là bộ cân bằng tuyệt vời, trên lưng ngựa cùng với cung và mũi tên, điều đó có nghĩa là một người phụ nữ có thể vừa nhanh và vừa chết người, như một người đàn ông".
Người Hy Lạp, tất nhiên, đã bị cuốn hút bởi cuộc sống tình dục của người Amazon. Họ đã đưa ra tất cả các ý tưởng mơ hồ - rằng họ là những người đồng tính luyến ái, họ có một vú để dễ bắn cung, đã giết con cái của họ, hoặc rằng họ đã giao phối với những người lạ một lần mỗi năm để duy trì một xã hội toàn nữ, hoặc là trinh nữ Amazon phải giết một người đàn ông trước khi mất trinh. Ý tưởng là phụ nữ Amazon, theo một nghĩa nào đó, đã từ bỏ nữ tính của họ.
Thực tế cuộc sống gia đình của người Amazon rất khác. Các hay nhất để hiểu về "Tình dục người Amazon" Bà Mayor lý giải cho thấy rằng: "nó mạnh mẽ, lộn xộn, diễn ra ở ngoài trời, ngoài hôn nhân, vào mùa hè, với bất kỳ người đàn ông mà phụ nữ Amazon quan tâm giao phối với".
Phần lớn đề tài về "Amazon" được dành để khai thác và khám phá cuộc sống thực tế của người Amazon đã biến thành huyền thoại như thế nào. Ở Hy Lạp, phần lớn việc thần thoại hóa được cấu tạo xung quanh tư duy: "Điều gì sẽ xảy ra nếu các anh hùng Hy Lạp của chúng ta gặp phải một đám phụ nữ Amazon?” Bà Mayor trả lời trong một cuốn sách khác của bà có tựa đề là ‘Amazons in Love and War’ , bà nói: “Tất nhiên lửa tình sẽ dấy lên!” thực tế là như vậy vì có rất nhiều câu chuyện về tình yêu cũng nhữ những chuyện về chiến tranh. Nhưng chuyện tình yêu, trong khi đó , khác nhau một cách quan trọng.
"Trong những câu chuyện mà người Ba tư và người Ai Cập kể, họ thường bị lôi cuốn bởi những phụ nữ họ đang chiến đấu với. Động lực là của họ là chúng tôi muốn các nữ chiến binh đó ở bên cạnh, chúng tôi muốn họ như những người bạn và người yêu." Một trong những câu chuyện yêu thích của Mayor được phổ biến ở Ai Cập, Iran, và những nơi khác, "chuyện một hoàng tử chiến đấu với một nàng công chúa chiến binh; họ đấu ngang sức nhau và cuộc chiến tiếp tục diễn ra, rồi khi họ ngồi xuống nghỉ ngơi, họ rơi vào tình yêu ".
Ngược lại, người Hy Lạp thường trình bày một "kịch bản có tích cách độc nhất, huyền bí và tối tăm: tất cả các chiến binh Amazon đều phải chết, cho dù họ có sức lôi cuốn đến mấy chẳng nữa, hay cho dù anh hùng thế nào cũng vậy".
Người Hy Lạp ngưỡng mộ chiến binh Amazon. Khác với những kẻ thù khác của Hy Lạp, Người Amazon không bao giờ được trình bày trong nghệ thuật Hy Lạp như là nhữnbg kẻ chạy trốn khỏi nguy hiểm hoặc cầu xin lòng thương xót. Tuy nhiên, sự lãng mạn cuối cùng giữa một người đàn ông Hy Lạp và một phụ nữ Amazon luôn được cho là không có thể xẩy ra. Bà Mayor giải thích: "Mỗi một phụ nữ Amazon mà chúng ta nghe thấy trong huyền thoại Hy Lạp là một vị anh hùng – những anh hùng là những người bình đẳng với các anh hùng Hy Lạp vĩ đại nhất. Trong các trình bày của người Hy Lạp về phụ nữ Amazon, ta có thể nhận ra một khao khát và mong muốn dứt điểm về vấn nạn căng thẳng giữa lựa chọn là "Vâng, chúng tôi muốn họ là bạn của chúng tôi" nhưng đồng thời "Chúng tôi không thể như thế được vì chúng tôi muốn kiểm soát phụ nữ của chính tôi”.
Dầu vậy, nữ chiến binh Amazon có một vị trí đặc biệt trong đời sống của phụ nữ Hy Lạp. Người Amazon có mặt ở khắp mọi nơi, trên đồ gốm của phụ nữ, trên bình nước hoa, trên các hộp đồ trang sức, trên các thiết bị may... Đó là một điều gì bí ẩn về cuộc sống riêng tư ở Hy Lạp.
Trên đường theo ngược dòng sông về nguồn sẽ được nhìn tận mắt khu vực hai dòng sông lớn giao nhau mà nước vẫn chảy song hành trong khoảng 7 cây số đó là đoạn sông Amazon giao hợp với sông Negro. Nước phù sa mầu nâu của Amazon vẫn song hành với nước mầu xanh đen của dòng sông Negro.
Với 209.000 mét khối (55 triệu gallon) nước chảy vào Thái Bình Dương mỗi thứ giây tức là năm lần so với kích thước của sông Congo con sông sớn thứ 2 bên Phi châu. Toàn vùng lưu vực Amazon để nước thoát vào rộng khoảng 7 triệu km vuông (2,7 triệu dặm vuông) đó là lưu vực thoát nước lớn nhất trên thế giới. (Khi so sánh ta sẽ thấy nó lớn gần bằng diện tích cả Hoa Kỳ (8.000.000 km vuông hay 3.1 triệu dặm vuông.)
Cuộc thám hiểm vùng Amazon không chỉ cho chúng tôi thấy được sự giàu có văn hóa và thiên nhiên của khu vực và kinh nghiệm nhìn thấy những rừng mưa kéo dài trong mọi hướng, nhưng khi đi dọc theo chiều dài của dòng sông Amazon, chúng tôi sẽ không chỉ thăm một số làng mạc xa xôi về địa lý, nhưng còn là nhận thức và cảm nghiệm thấy những nếp sống và trình độ dân chúng ở đây thực là ở xa vời so với văn hóa đương đại của chúng ta.
Các nhà khóa học khi khám phá vùng Amazon đã cho biết có đến khoảng 400 bộ lạc người dân bản địa khác nhau sống ở vùng Amazon qua nhiều thế kỷ, và ngay cả những bộ lạc mà còn chưa được biết đến… vẫn còn sống trong thanh bình và trong khung cảnh thiên nhiên chưa bị khuấy động từ 10.000 năm về trước.
Cùng đồng hành trên tầu du lịch với chúng tôi có các chuyên gia và các nhà khảo cứu chuyên về vùng sinh thái Amazon sẽ trình bầy những đề tài hấp dẫn như Tiến sĩ Valerie Mock nói về “Thế giới cổ và Thế giới mới: Cuộc trao đổi Colombo”, hay đề tài “Những khai thác thương mại dẫn đến việc tàn phá rừng mưa Amazon thế nào”. Chuyên gia Tommie Sue Montgomery trình bày về “Amazonia và Môi trường”, v.v…
Lịch sử việc thám hiểm Sông Amazon
Amazon ở Nam Mỹ là con sông lớn nhất xả nước trên thế giới và, theo một số tác giả là sông dài nhất thế giới.
Hai sông Mantaro và Apurimac hợp lưu, và với các nhánh sông khác tạo thành sông Ucayali và rồi lại giao lưu với sông Marañón thượng nguồn của Iquitos, Peru, để hình thành thân chính của Amazon mà Brazil gọi phần này là sông Solimões trên phần hợp lưu với sông Rio Negro ở Manaus mà Hội nghị về nuớc tại Bồ Đào Nha gọi là “Encontro das Águas”. Manaus là thành phố lớn nhất trên con sông Amazon.
Trung bình mỗi giây sông Amazon xả nước khoảng 209.000 mét khối (7.400.000 cu ft, hay 209.000.000 Lít, hay 55.000.000 US gallons ) nghĩa là chừng 6.591 km khối mỗi năm (1.581 cu mi) (lớn hơn tổng số bảy lần các sông lớn kế tiếp khác trên thế giới cộng lại). Cũng có nghĩa là sông Amazon xả nước 20% tổng số của việc xả vào đại dương toàn cầu. Lưu vực Amazon là lưu vực thoát nước lớn nhất thế giới, với diện tích khoảng 7.050.000 km vuông (2.720.000 dặm vuông).
Lịch sử thời tiền nhà thám hiểm Columbo tới Mỹ châu
Khu định cư của con người đầu tiên được tìm thấy thường dựa trên những ngọn đồi thấp hay gò. Năm loại gò được khảo cổ học ghi nhận trong khu vực Amazon: gò nhân tạo, nền tảng đất nhân tạo cho toàn bộ ngôi làng, gò đất và rặng núi để tu luyện, đường và các kênh rạch, và gò hình tượng, cả hình học.
Có bằng chứng cho thấy các khu vực xung quanh sông Amazon đã có những khu định cư có quy mô lớn của người bản địa, chủ yếu là do những tộc trưởng đã phát triển nên.
Các nhà khảo cổ ước tính rằng vào thời điểm ông De Orellana người Tây Ban Nha thám hiểm Amazon vào năm 1541, đã có hơn 3 triệu người dân bản địa sống xung quanh Amazon. Những khu định cư thời tiền Columbo này đã có nền văn minh phát triển cao độ. Ví dụ, người dân bản địa thời tiền Columbo trên đảo Marajó đã có cộng đồng phân tầng xã hội và có thể hỗ trợ dân số khoảng độ 100.000 người.
Để đạt được mức độ phát triển như vậy, cư dân bản địa của rừng nhiệt đới Amazon biết thay đổi hệ sinh thái rừng bằng cách trồng trọt chọn lọc và sử dụng lửa. Các nhà khoa học cho rằng bằng cách đốt khu vực rừng liện tục, người dân bản địa làm cho đất để trở nên giàu chất dinh dưỡng. Điều này tạo ra vùng đất tối được gọi là ‘terra preta de indio’ (đất đen người indio).
Bởi vì có đất đen tốt, các cộng đồng bản địa đã có thể làm cho đất màu mỡ và do đó bảo đảm cho nông nghiệp quy mô lớn cần thiết để hỗ trợ các quần thể cư trú lớn và các cấu trúc xã hội phức tạp của họ. Cuộc nghiên cứu khác đã đưa ra giả thuyết rằng việc thực hành canh tác đất thay phiền này bắt đầu vào khoảng 11.000 năm trước đây. Một số nghiên cứu cho rằng ảnh hưởng của nó lên hệ sinh thái rừng và khí hậu khu vực ảnh hưởng về lượng mưa thấp hơn tại các lưu vực sông Amazon.
Nhiều bộ tộc bản địa tham gia vào chiến tranh triền miên, nhà thám hiểm James Stuart Olson đã viết: "Việc bộ tộc Munduruku bành trướng đả phá vỡ và di dời bộ tộc Kawahíb, các bộ lạc đã phân tán thành các nhóm nhỏ hơn nhiều ... Người dân Munduruku được người châu Âu chú ý đến đầu tiên vào năm 1770 khi họ bắt đầu một loạt các cuộc tấn công trên bình diện rộng các khu định cư của người Brazil cùng trên bờ sông Amazon. "
Những người Âu châu tiền phong khám phá ra Amazon
Theo tài liệu còn ghi lại thì tháng ba năm 1500, nhà thám hiểm Tây Ban Nha là Vicente Yáñez Pinzón là người châu Âu đầu tiên đi thuyền lên sông Amazon.
Pinzón đặt tên là sông Río Santa María del Mar Dulce (Sông Thánh Maria Biển Khơi Dịu Hiền), sau đó rút ngắn Mar Dulce (Sông Biển Dịu Hiền), theo nghĩa đen là biển ngọt ngào, vì nước sông ngọt của nó chảy ra ngoài đại dương.
Gonzalo Pizarro lên đường vào năm 1541 để khám phá phía đông của Quito bên nội địa Nam Mỹ muốn tìm kiếm "thành phố vàng El Dorado, " và "thung lũng của quế La Canela ". [14] Có nhà thám hiểm Francisco de Orellana làm phụ tá. Sau khi di chuyển được 170 km (110 dặm), sông Coca hợp giao với sông Napo (tại một điểm mà nay được biết đến là cảng Puerto Francisco de Orellana), đoàn dừng lại một vài tuần để xây dựng một chiếc thuyền hầu đi lên thượng nguồn từ ngã ba này. Họ tiếp tục đi về phía hạ lưu sông qua một khu vực không có người ở, nơi mà họ không thể tìm ra thức ăn. Vì thế Ông Orellana được lệnh đi theo sông Napo, sau đó được gọi là Río de la Canela (sông Quế) và trở về có đầy đủ thực phẩm cho đoàn thám hiểm. Dựa trên thông tin tình báo nhận được từ một tù trưởng bản địa có tên là Delicola, họ mong sẽ có thức ăn trong vòng một vài ngày ở phía hạ lưu một dòng sông khác ở phía bắc.
De Orellana cùng với khoảng 57 người, một chiếc thuyền, và một số ca nô rồi rời nhóm Pizarro vào ngày 26 Tháng 12 1541. Tuy nhiên, Ông De Orellana dường như bỏ không để ý tới ngã ba (có lẽ ở Aguarico) và lạc lối, nơi mà ông đã muốn tìm kiếm nguồn cung cấp thực phẩm cho đoàn của mình. Vào thời điểm khi ông và đoàn tùy tùng đến một làng khác, nhiều người trong số họ đã bị bệnh do bị đói và ăn phải "câh có độc" nên gần chết. Bảy người đàn ông chết tại ngôi làng đó. Những người còn lại đe dọa bạo loạn nếu ông Orellana không quay trở lại để tham gia cùng đoàn thám hiểm với ông Pizarro. Ông chấp nhận thay đổi mục đích của cuộc thám hiểm để khám phá vùng đất mới nhân danh vua Tây Ban Nha, và họ xây dựng một chiếc thuyền lớn hơn mục đích đi về hướng hạ lưu.
Sau một cuộc hành trình chừng 600 km xuống hạ lưu sông Napo họ đạt đến một ngã ba lớn hơn nữa, tại một điểm gần Iquitos hiện đại, và sau đó đi về phía thượng lưu Amazon, nay gọi là Solimões, đi cho thêm 1.200 km (750 dặm) ở hợp lưu của nó với sông Rio Negro (gần với thành phố Manaus hiện đại). Họ tới địa điểm này vào ngày 3 tháng 6 năm 1542.
Trên sông Nhamundá, một nhánh của Amazon hạ lưu từ thành Manaus, đoàn thám hiểm Orellana đã có một trận chiến khốc liệt với các chiến binh người được lãnh đạo bởi những nữ chiến binh ác liệt. Những nữ chiến binh này không ngại dùng dùi cui đánh đàn ông của họ nếu họ rút lui.
Những người của đoàn Orellana bắt đầu đề cập đến những người phụ nữ này như là chiến binh Amazon như trong thần thoại Hy Lạp. Con sông ban đầu được biết đến với tên là sông Marañón hoặc sông Rio de Orellana (phần sông này về phía Peru nay vẫn còn gọi là sông Marañón ). Sau này được gọi là sông Rio Amazonas, tên mà cả người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều công nhận.
Về nhiệm vụ ban đầu của việc tìm kiếm quế, Pizarro đã báo cáo với vua Bồ Đào Nha rằng họ đã tìm thấy cây quế, nhưng họ không thể thu hoạch được lợi nhuận. Trong thực tế, cây quế đúng danh (Cinnamomum verum) là không có nguồn gốc Nam Mỹ. Cây quế có liên quan và chứa chất quế (thuộc họ Lauraceae) là khá phổ biến trong lưu vực Amazon và đoàn Pizarro tìm thấy là loại quế này. Đoàn thám hiểm tới cửa sông Amazon bên bờ Đại Tây Dương vào ngày 24 tháng 8 năm 1542, chứng tỏ thực tế là của sông lớn này có thể thông thương và tầu bè đi lại dễ dàng.
Năm 1560 một nhà thám hiểm Tây Ban Nha khác là Lope de Aguirre, có thể là người thứ hai đã đã đi theo xuống hạ nguồn sông Amazon. Nhưng các nhà sử học không chắc chắn rằng sông mà ông đi theo xuống là sông Amazon hay sông Orinoco, vì sông Orinoco chạy ít nhiều song song với Amazon về phía bắc.
Nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khác là Pedro Teixeira là người châu Âu đầu tiên đi ngược dòng lên toàn bộ sông Amazon. Ông đến Quito vào năm 1637, và trở về thông qua cùng một tuyến đường. [15]
Từ năm 1648 tới 1652, đoàn thám hiểm hỗn hợp Bồ Đào Nha Ba Tây Brazil dẫn đầu bởi António Raposo Tavares đã làm cuộc thám hiểm từ São Paulo đi bộ đến miệng sông Amazon, đoàn điều tra nhiều phụ lưu của sông này, bao gồm cả sông Rio Negro, cuộc thám hiểm bao gồm một khoảng cách hơn 10.000 cây số vuông (tức 6.214 dặm).
Vào cuối thập niên 1600 Linh mục Dòng Tên Samuel Fritz người Tây Ban Nha, vị tông đồ của Omaguas, đã thành thành lập tới chừng 40 làng mục vụ truyền giáo theo dòng sông Amazon.
Những làng mạc và giáo điểm truyền giáo đó các quốc gia như Brazil, Ecuador, Bolivia, Colombia, Peru và Venezuela đều công nhân. Họ cũng gọi là các khu định cư thuộc địa, các giáo xứ tôn giáo đã được thành lập dọc theo bờ con sông chính Amazon và các nhánh , các khu thương mại, buôn bán nô lệ, và ghi nhận các khu vực với mục đích phúc âm hóa giữa các dân tộc bản địa rộng lớn rừng nhiệt đới, chẳng hạn như Urarina.
Tại sao gọi tên là Amazon?
Theo tài liệu còn ghi lại thì tháng ba năm 1500, nhà thám hiểm Tây Ban Nha là Vicente Yáñez Pinzón là người châu Âu đầu tiên đi thuyền lên sông Amazon. [13] Pinzón đặt tên là sông Río Santa María del Mar Dulce (Sông Thánh Maria Biển Khơi Dịu Hiền), sau đó rút ngắn Mar Dulce (Sông Biển Dịu Hiền), theo nghĩa đen là biển ngọt ngào, vì nước sông ngọt của nó chảy ra ngoài đại dương.
Trước khi tìm hiểu về dòng sông Amazon, rừng già mưa nhiệt đới, lưu vực Amazon và những vấn đề như môi trường, khu vực sinh thái, dân bản địa, nguồn nước và tầm quan trọng của Amazon với toàn thể thế giới, nhân cơ hội này có lẽ đề tài về “Nữ chiến binh Amazon là ai?” cũng là dịp đề chúng ta tìm hiểu về một huyền thoại đã từng vừa là sự tích quan trọng vừa lãng mạng trong nền văn minh và lịch sử của Hy Lạp, đã từng là đề tài cho biết bao phim ảnh, và ngay cả ngày nay một trang điện toàn bán hàng lớn nhất thế giới cũng có tên là Amazon.com
Tìm hiểu về Nữ chiến binh Amazon là huyền thoại hay là thực
Trên bình diện khảo cổ, các nữ chiến binh Amazon thường được miêu tả trong các trận chiến với các chiến binh Hy Lạp trong nghệ thuật chiến tranh cổ điển như các hình vẽ trên bình gốm, tượng chiến trên các phù diêu…
Nữ chiến binh Amazon cũng từng được liên kết với các nhân vật lịch sử trong suốt thời kỳ Đế chế La Mã và thời kỳ cổ đại sau đó. Trong lịch sử La Mã, có nhiều báo cáo về các cuộc đột kích của chiến binh Amazon tại Anatolia. Tên Amazon của họ đã trở thành một thuật ngữ cho nữ chiến binh nói chung. Người ta cho rằng người Amazon đã thành lập các thành phố và đền thờ ở Smyrna, Sinope, Cyme, Gryne, Ephesus, Pitania, Magnesia, Clete, Pygela, Latoreria và Amastris ở miền Trung Đông.
Trên thực tế phụ nữ người Scythia là cơ sở về huyền thoại chiến binh Amazon. Herodotus là người đầu tiên nói về những nữ chiến binh này có liên quan đến người Scythia, một khu vực giáp biên giới của Scythia với Sarmatia (nay là lãnh thổ Ukraine).
Câu chuyện về nữ chiến binh Amazon do Herodotus kể như thế nào?
Nhiều ngàn năm trước đây, một nhóm những kẻ xâm lược Hy Lạp đã mạo hiểm đi vào miền đất mà bây giờ là miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ. Đi ngang qua thảo nguyên, họ gặp một nhóm các chiến binh phụ nữ. Những người Hy Lạp bắt cóc họ, khóa họ trong những chiếc thuyền của họ, và lên thuyền về nhà. Nhưng các chiến binh Amazon đã trốn thoát. Họ thu hồi lại được vũ khí của họ và giết những kẻ bắt cóc của họ.
Họ là những người quen đi ngựa và không biết làm thế nào để đi thuyền, các tàu thuyền này đã đi lạc quá xa. Cuối cùng, họ đã cập đất liền ở vùng Crimea. Họ lên bờ và lấy trộm được một số ngựa. Họ bắt đầu đi lang thang, tập trung vào cướp bóc và phát triển sức mạnh của họ.
Gần đó có khu định cư của người Scythia. Hầu hết người Scythia là những người du mục, người cưỡi ngựa trên thảo nguyên. Những người Scythia là những gia buôn bán giàu có đã từng định cư tại các thị trấn. Để tránh bị cướp đột nhập, lãnh đạo người Scythia đã phái các thám tử đi tuần tra bên ngoài và họ đã khám phá ra rằng kẻ cướp phá là các phụ nữ kỳ lạ có tên là Amazon.
Câu chuyện được nhà khảo cứu văn chương cổ điển tên là Adrienne Mayor hiện tại có trụ sở ở đại học Stanford, người mà tất cả là chuyên gia cho là một nghiên cứu gia hàng đầu thế giới về các chiến binh nữ cổ đại Amazon. Trong sách "The Amazons: Lives and Legends of Warrior Women Across the Ancient World – Amazon: Đời sống và Huyền sử của các Nữ Chiến binh trong Thế giới Cổ đại".
Bà tiếp nối câu chuyện như sau: Những người Scythia thấy các kẻ cướp biển nữ Amazon rất hấp dẫn. Họ đã lên kế hoạch thay vì đưa binh lính đi giết những kẻ cướp biển, họ tập hợp một nhóm thanh niên trẻ đẹp để đi chiêu dụ những phụ nữ này. Xem ra cuộc sống ở thị trấn dù sang trọng, nhưng như thiếu một điều gì đó: các phụ nữ Hoàng gia Scythia chủ yếu ở trong nhà, làm việc nhà và cảm thấy chán. Có lẽ một số phụ nữ Amazon không sợ hãi, táo bạo có thể làm cuộc sống thêm gia vị lên hương…
Thế rồi nhóm thanh niên mạo hiểm đi ra ngoài thành và họ đã tìm thấy các phụ nữ cưỡi ngựa này. Họ dựng trại và đi lang thang quanh đó chờ đợi cho đến một buổi chiều, một phụ nữ Amazon duy nhất đi bộ một mình. Adrienne Mayor viết trong "Amazon: Cuộc sống và Huyền sử " rằng: “Khỏi phải nói lên lời, một chàng thanh niên đã tiến tới ve vãn cô nàng Amazon và nàng đã đáp lại. Họ yêu nhau ngay trên bãi cỏ... Sau đó, cô nàng Amazon ra dấu hiệu rằng ngày hôm sau cũng muốn anh ta trở lại điểm này và mang một người bạn. Nàng nói rằng nàng cũng sẽ mang một người bạn nữa."
Chẳng bao lâu, người Amazon và người Scythia củng cố doanh trại của họ, và những người đàn ông trẻ tuổi đã đưa ra một đề nghị: Tại sao các nàng không trở lại và sống với họ? Họ có tiền, nhà cửa và cha mẹ - chắc chắn sẽ ổn định cuộc sống sẽ tốt hơn cuộc sống trên thảo nguyên.
Nhưng phụ nữ Amazon không tin, trại lại đã đưa ra một đề nghị: Tại sao các chàng trai không rời khỏi thị trấn phía sau và sống cuộc đời phiếu lưu như họ: cưỡi ngựa, cướp bóc, và ngủ dưới ánh sao? Thế rồi những chàng trai bỏ lại mọi sự khăn gói quả mướp lên đường…
Herodotus tường thuật rằng những người Sarmatian, là hậu duệ do sự kết hợp giữa người Amazon và Scythia đã tạo ra một xã hội đặc trưng bởi sự bình đẳng giới tính, trong đó nam và nữ đã bình đảng trong cuộc sống.
Về phần Adrienne Mayor thì nhận định rằng: “Đó là một câu chuyện, trong đó câu trả lời cho câu hỏi ai là người thống trị và ai là người bị thuần hoá là: không ai cả."
Câu hỏi tự nhiên, khi ta phải đối mặt với một câu chuyện như thế này là: Nó đúng như thế? Trong "Amazon" tác giả Adrienne Mayor lập luận rằng, mặc dù nó không phải là sự thật trong tất cả các chi tiết của nó, nó vẫn đúng đa phần. Bằng chứng, bà viết, chỉ ra thực tế rằng có thực sự là có người Amazon: trong một số các vật khảo cổ đào được Âu Á, có tới 37% ngôi mộ chứa xương và vũ khí của những phụ nữ cỡi ngựa đã chiến đấu bên cạnh đàn ông.
Bà Adrienne Mayor viết: "Các mũi tên dùng để săn bắn và chiến đấu, là những vũ khí thông dụng nhất được chôn cùng với phụ nữ, nhưng kiếm, dùi đui, dao găm, áo giáp, lá chắn và đá cuội dùng để bắn nỏ cũng được tìm thấy tại các mộ". Đây là những phụ nữ mà người Hy Lạp gặp phải trong các cuộc thám hiểm xung quanh Biển Đen; họ đã truyền cảm hứng cho những câu chuyện tương tự trong số những du khách từ Ba Tư, Ai Cập, Trung Quốc, và những nơi khác.
Ở Hy Lạp, nữ chiến binh Amazon là đối tượng cho những câu chuyện lãng mạn quyến rũ. Xã hội của họ, trong đó cả nam giới và phụ nữ đều có thể thể hiện được nhệ thuật chinh chiến và võ trang, điều này đối lập với xã hội Hy Lạp, trong đó chỉ có nam giới mới có thể dũng cảm. Bà Mayor bình luận rằng: “Các câu chuyện Hy Lạp về người Amazon, nó đã thể hiện mong muốn của người Hy Lạp cổ đại về bình đẳng giới tính.”
“Trong một thời gian dài, hầu hết mọi người đều lập luận rằng những người Amazon trên những chiếc bình Hy Lạp hoàn toàn tượng trưng – tiểu biểu cho những cô gái trẻ chưa cưới. Việc giải thích này đã bị thách thức bởi vô số những vật dụng về khảo cổ học. Những khám phá cho thấy có những phụ nữ thực đã cư xử như những người Amazon: họ mặc cùng bộ quần áo, đã sử dụng vũ khí, đã cưỡi ngựa và đã sống cùng thời với những người Hy Lạp cổ đại. Giờ đây chúng ta có thể biết một cách cụ thể là cuộc sống của Amazon như thế nào. Có thể khẳng định rõ ràng là người Amazon là những người du mục Scythia sống trên lãnh thổ phía Bắc của Biển Đen - khoảng giữa Balkans về phía tây và vùng Caucasus về phía đông.
Bà Mayor khẳng định rằng: “Họ không phải là ‘những trinh nữ ghét đàn ông’ nhưng chỉ đơn giản là thành viên của "dân tộc nổi tiếng vì có những phụ nữ mạnh mẽ và tự do". Không ai biết từ "Amazon" xuất phát từ đâu - nó không phải là tiếng Hy Lạp - nhưng có một số giải thích khả đáng, bao gồm cả một từ của Iran cổ đại có nghĩa là "chiến binh”. Nghệ thuật chiến tranh ở Hy Lạp tập trung vào bộ binh - đó là, về những người đàn ông có vỏ bọc giáp “amored”. Bà Mayor viết: "Con ngựa là bộ cân bằng tuyệt vời, trên lưng ngựa cùng với cung và mũi tên, điều đó có nghĩa là một người phụ nữ có thể vừa nhanh và vừa chết người, như một người đàn ông".
Người Hy Lạp, tất nhiên, đã bị cuốn hút bởi cuộc sống tình dục của người Amazon. Họ đã đưa ra tất cả các ý tưởng mơ hồ - rằng họ là những người đồng tính luyến ái, họ có một vú để dễ bắn cung, đã giết con cái của họ, hoặc rằng họ đã giao phối với những người lạ một lần mỗi năm để duy trì một xã hội toàn nữ, hoặc là trinh nữ Amazon phải giết một người đàn ông trước khi mất trinh. Ý tưởng là phụ nữ Amazon, theo một nghĩa nào đó, đã từ bỏ nữ tính của họ.
Thực tế cuộc sống gia đình của người Amazon rất khác. Các hay nhất để hiểu về "Tình dục người Amazon" Bà Mayor lý giải cho thấy rằng: "nó mạnh mẽ, lộn xộn, diễn ra ở ngoài trời, ngoài hôn nhân, vào mùa hè, với bất kỳ người đàn ông mà phụ nữ Amazon quan tâm giao phối với".
Phần lớn đề tài về "Amazon" được dành để khai thác và khám phá cuộc sống thực tế của người Amazon đã biến thành huyền thoại như thế nào. Ở Hy Lạp, phần lớn việc thần thoại hóa được cấu tạo xung quanh tư duy: "Điều gì sẽ xảy ra nếu các anh hùng Hy Lạp của chúng ta gặp phải một đám phụ nữ Amazon?” Bà Mayor trả lời trong một cuốn sách khác của bà có tựa đề là ‘Amazons in Love and War’ , bà nói: “Tất nhiên lửa tình sẽ dấy lên!” thực tế là như vậy vì có rất nhiều câu chuyện về tình yêu cũng nhữ những chuyện về chiến tranh. Nhưng chuyện tình yêu, trong khi đó , khác nhau một cách quan trọng.
"Trong những câu chuyện mà người Ba tư và người Ai Cập kể, họ thường bị lôi cuốn bởi những phụ nữ họ đang chiến đấu với. Động lực là của họ là chúng tôi muốn các nữ chiến binh đó ở bên cạnh, chúng tôi muốn họ như những người bạn và người yêu." Một trong những câu chuyện yêu thích của Mayor được phổ biến ở Ai Cập, Iran, và những nơi khác, "chuyện một hoàng tử chiến đấu với một nàng công chúa chiến binh; họ đấu ngang sức nhau và cuộc chiến tiếp tục diễn ra, rồi khi họ ngồi xuống nghỉ ngơi, họ rơi vào tình yêu ".
Ngược lại, người Hy Lạp thường trình bày một "kịch bản có tích cách độc nhất, huyền bí và tối tăm: tất cả các chiến binh Amazon đều phải chết, cho dù họ có sức lôi cuốn đến mấy chẳng nữa, hay cho dù anh hùng thế nào cũng vậy".
Người Hy Lạp ngưỡng mộ chiến binh Amazon. Khác với những kẻ thù khác của Hy Lạp, Người Amazon không bao giờ được trình bày trong nghệ thuật Hy Lạp như là nhữnbg kẻ chạy trốn khỏi nguy hiểm hoặc cầu xin lòng thương xót. Tuy nhiên, sự lãng mạn cuối cùng giữa một người đàn ông Hy Lạp và một phụ nữ Amazon luôn được cho là không có thể xẩy ra. Bà Mayor giải thích: "Mỗi một phụ nữ Amazon mà chúng ta nghe thấy trong huyền thoại Hy Lạp là một vị anh hùng – những anh hùng là những người bình đẳng với các anh hùng Hy Lạp vĩ đại nhất. Trong các trình bày của người Hy Lạp về phụ nữ Amazon, ta có thể nhận ra một khao khát và mong muốn dứt điểm về vấn nạn căng thẳng giữa lựa chọn là "Vâng, chúng tôi muốn họ là bạn của chúng tôi" nhưng đồng thời "Chúng tôi không thể như thế được vì chúng tôi muốn kiểm soát phụ nữ của chính tôi”.
Dầu vậy, nữ chiến binh Amazon có một vị trí đặc biệt trong đời sống của phụ nữ Hy Lạp. Người Amazon có mặt ở khắp mọi nơi, trên đồ gốm của phụ nữ, trên bình nước hoa, trên các hộp đồ trang sức, trên các thiết bị may... Đó là một điều gì bí ẩn về cuộc sống riêng tư ở Hy Lạp.