CHƯƠNG V

VÀI NHẬN XÉT KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH THỂ

1. NƠI CỬ HÀNH THÁNH LỄ

108. “Phải cử hành Bí tích Thánh Thể tại một nơi thánh, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, tình thế cấp thiết đòi làm cách khác; trong trường hợp này, phải cử hành tại một nơi tử tế”197. Thông thường việc đánh giá tình thế cấp thiết thuộc quyền Giám mục cho từng trường hợp riêng biệt trong giáo phận của ngài.

109. Không bao giờ cho phép linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể trong một đền thờ hoặc một nơi thánh của một tôn giáo ngoài Kitô giáo.

2. VÀI QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH LỄ

110. “Ước gì các linh mục cử hành thường xuyên, vì luôn luôn nhớ rằng công trình cứu chuộc được thực hiện liên tục trong mầu nhiệm Hy Tế Thánh Thể. Hơn nữa, rất khuyên họ nên cử hành hàng ngày, vì đó là hành động của Chúa Kitô và của Hội Thánh, dù không có hiện diện của tín hữu, và vì đó là nhiệm vụ chính của linh mục198.

111. Một linh mục, “dù xa lạ với vị giám quản thánh đường”, phải được cho cử hành hoặc đồng tế Bí tích Thánh Thể, “miễn là ngài trình giấy giới thiệu (hoặc celebret ) của Tông Toà, hoặc của Đấng Bản Quyền của ngài, hoặc của Bề Trên của ngài, được cấp trong năm, “hoặc vị giám quản xét là không có gì ngăn trở linh mục ấy cử hành”199. Các Giám mục phải để ý bãi bỏ những thói tục ngược lại.

112. Thánh Lễ được cử hành bằng tiếng la tinh hoặc trong một ngôn ngữ khác, với điều kiện là sử dụng những sách phụng vụ được phê chuẩn theo luật. Ngoài những Thánh Lễ phải được cử hành với tiếng nói của dân chúng, theo đúng giờ và thời gian được giáo quyền ấn định, các linh mục được phép cử hành Thánh Lễ bằng tiếng la tinh, ở bất cứ đâu và vào bất cứ lúc nào200.

113. Khi có nhiều linh mục đồng tế Thánh Lễ, Kinh Nguyện Thánh Thể phải được đọc theo ngôn ngữ được tất cả các linh mục và dân chúng hiện diện trong buổi cử hành biết. Nếu trong số các linh mục hiện diện, vài người không biết ngôn ngữ dùng trong buổi cử hành và như vậy họ không thể đọc các phần của Kinh Nguyện Thánh Thể, mà họ phải đọc, thì họ không nên đồng tế nhưng tốt hơn họ nên dự buổi cử hành với áo surplis, theo đúng luật201.

114. “Trong các Thánh Lễ Chúa nhật của giáo xứ, với tính cách là “cộng đoàn Thánh Thể”, các nhóm, các phong trào, các hiệp hội và các cộng đoàn tu sĩ nhỏ ở trong giáo xứ nên có mặt”202. Dù được phép cử hành Thánh Lễ cho những nhóm riêng theo luật203, các nhóm này không hề được chuẩn miễn tuân giữ trung thành các qui luật phụng vụ.

115. Phải mạnh mẽ lên án việc làm sai trái tự tiện ngưng cử hành Thánh Lễ cho dân chúng, trái với những quy luật của Sách Lễ Rôma và truyền thống tốt lành của Nghi Thức Rôma, viện lẽ là khuyến khích “niềm khao khát Bí tích Thánh Thể”.

116. Không được tăng số các Thánh Lễ, cách trái luật. Về các lễ vật của Thánh Lễ, phải tuân giữ những quy định của luật đang có hiệu lực204.

3. CÁC BÌNH THÁNH

117. Các bình thánh, dùng vào việc đựng Mình và Máu Chúa, phải được chế tạo theo đúng các quy định của truyền thống và các sách phụng vụ205. Theo sự phán đoán của các Hội Đồng Giám Mục, có được năng quyền này và được Toà Thánh xác nhận, có thể nên làm các bình thánh bằng những chất liệu khác, miễn là những chất liệu này bền chắc. Tuy nhiên, trong mọi miền, buộc phải chọn những chất liệu mà mọi người cho là cao quý206, để tỏ lòng tôn kính đối với Chúa, và để hoàn toàn loại trừ, trước mắt tín hữu, mọi nguy cơ làm suy yếu giáo lý Chúa Kitô hiện diện thật sự dưới các hình Thánh Thể. Vậy, sự kiện cử hành Thánh Lễ với bất cứ bình quen dùng hằng ngày hoặc thông dụng, phải bị lên án mạnh mẽ, đặc biệt nếu đấy là những vật dụng không có chút gì nghệ thuật, hoặc chỉ là những giỏ, hoặc những bình bằng thuỷ tinh, bằng đất sét, đất nung hoặc những chất liệu khác dễ vỡ. Điều trên cũng áp dụng cho mọi bình bằng kim loại hoặc bằng những chất liệu hư hỏng dễ dàng207.

118. Trước khi sử dụng, các bình thánh phải được linh mục làm phép, theo các nghi thức ghi trong các sách phụng vụ208. Nếu Giám Mục làm phép thì thật đáng khen, vì như thế ngài có thể đánh giá các bình thánh có phù hợp với mục đích của chúng hay không.

119. Khi cho rước lễ xong, linh mục, đứng tại bàn thờ hoặc nơi bàn phụ, lau sạch đĩa thánh hoặc bình bánh thánh trên chén thánh, theo các quy định của Sách Lễ, rồi lau chén thánh với khăn lau. Nếu có thầy phó tế, thì thầy trở lại bàn thờ với linh mục, rồi lau sạch các bình thánh. Tuy nhiên, được phép để các bình phải lau trên khăn thánh, tại bàn thờ hoặc bàn phụ, nhất là khi chúng nhiều, và đậy chúng lại; trong trường hợp này, linh mục hoặc phó tế lau sạch chúng ngay sau Thánh Lễ, khi dân chúng đã ra về. Cũng thế, thầy có chức giúp lễ giúp linh mục hoặc phó tế lau sạch các bình thánh, hoặc tại bàn thờ, hoặc tại bàn phụ, rồi xếp chúng vào chỗ. Nếu không có phó tế, thầy có chức giúp lễ mang các bình thánh về bàn phụ và tại nơi đây thầy lau sạch theo cách thông thường, trước khi xếp gọn chúng lại209.

120. Các mục tử phải quan tâm sao cho các khăn thánh của bàn thờ luôn luôn sạch sẽ, đặc biệt là những khăn tiếp xúc với Mình Máu Thánh. Vậy phải giặt các khăn thánh thường xuyên, theo những tập tục được truyền lại trung thành. Do đó, thật là đáng khen sau khi giặt bằng tay nước đầu tiên, thì đổ nước đã dùng trong hồ nơi phòng thánh của thánh đường hoặc trực tiếp trên đất ở một chỗ thích hợp. Rồi, giặt nước mới theo cách thông thường.

4. Y PHỤC PHỤNG VỤ

121. “Việc dùng các màu khác nhau cho các y phục phụng vụ nhằm diễn tả cách hữu hiệu và có thể thấy được nét đặc trưng của các mầu nhiệm đức tin được cử hành và, do đó, ý nghĩa của đời sống Kitô đang tiến tới theo dòng diễn tiến của năm phụng vụ”210. Mặt khác, sự khác biệt “của các phận vụ trong buổi cử hành Bí tích Thánh Thể được biểu lộ ra bên ngoài nơi sự khác biệt của các y phục phụng vụ”. Sau nữa, các y phục này cũng góp phần làm tăng vẻ đẹp của hành động phụng vụ”211.

122. “Ao alba được siết nơi thắt lưng bằng dây, trừ khi áo được may sát thân mình nên không cần dây. Phải mang khăn vai trước khi mặc áo alba, nếu áo này không che kín áo thường nơi cổ”212.

123. Ao riêng của linh mục chủ tế khi cử hành Thánh Lễ và làm những hành động thánh khác có liên hệ trực tiếp với Thánh Lễ, là casula, trừ trường hợp có trù liệu một áo khác mặc trên áo alba và dây stola ”213. Cũng thế, khi, phù hợp với các luật chữ đỏ, linh mục mặc áo casula, thì ngài đừng quên mang dây stola. Mọi Đấng Bản Quyền phải quan tâm loại bỏ cách làm trái với điều trên.

124. Ngoại trừ vị chủ tế phải luôn luôn mặc áo casula theo màu quy định, Sách Lễ Rôma cho phép các linh mục đồng tế Thánh Lễ “không mặc áo casula, mà chỉ mang dây stola trên áo alba ”214, khi có lý do chính đáng, như chẳng hạn số quá đông các vị đồng tế và thiếu áo lễ. Tuy nhiên, nếu người ta có thể thấy trước một tình trạng như thế, thì phải hết sức có thể đừng để thiếu áo lễ. Ngoại trừ vị chủ tế, các vị đồng tế có thể mặc, khi cấp thiết, áo casula màu trắng. Về những gì khác, phải tuân giữ các quy luật của các sách phụng vụ.

125. Y phục phụng vụ riêng của thầy phó tế là áo dalmatica mặc ngoài áo alba và dây stola. Để tôn trọng một truyền thống cao quý của Hội Thánh, không nên bỏ áo dalmatica, dù luật cho phép có thể bỏ215.

126. Phải mạnh mẽ lên án lạm dụng sau đây, đi ngược với các quy định của các sách phụng vụ: dù chỉ có một người giúp tham dự, các thừa tác viên thánh không được phép cử hành Thánh Lễ mà không mặc các y phục phụng vụ, hoặc chỉ mang dây stola trên áo dòng, hoặc tệ hơn trên áo thường216. Các Đấng Bản Quyền phải sửa chữa trong thời hạn nhanh nhất những lạm dụng thuộc loại này, và phải quan tâm cung cấp cho mọi nhà thờ và mọi nguyện đường nằm dưới quyền tài thẩm của mình, đủ số y phục phụng vụ, được làm đúng theo luật.

127. Trong các sách phụng vụ, có ban một năng quyền đặc biệt cho sử dụng, vào những ngày long trọng, những y phục phụng vụ sang và đặc biệt đẹp hơn, dù không trùng màu của ngày217. Tuy nhiên, năng quyền này, liên quan cách đặc biệt đến các y phục phụng vụ rất cổ, nhằm mục đích bảo tồn di sản của Hội Thánh, đã được áp dụng cách sai trái vào những y phục phụng vụ mới. Vì vậy người ta không đếm xỉa gì đến tập tục truyền thống, nên đã chế ra những hình dáng và màu sắc, theo các tiêu chuẩn chủ quan, như vậy là làm suy yếu ý nghĩa của năng quyền ấy và làm tổn hại đến truyền thống. Vào những ngày lễ, các y phục thánh màu vàng hoặc bạc có thể thay thế, nếu thấy thích hợp, các màu phụng vụ khác, trừ màu tím và màu đen.

128. Thánh lễ và các cử hành phụng vụ khác là hành động của Chúa Kitô và của dân Chúa có tổ chức theo phẩm trật, được quy định sao cho các thừa tác viên thánh và giáo dân tham gia cách rõ ràng, theo địa vị riêng của họ. Vậy, “các linh mục hiện diện trong buổi cử hành Bí tích Thánh Thể nên thi hành thừa tác vụ của Chức Thánh của mình, ngoại trừ nếu có một lý do chính đáng miễn cho họ làm thế, và do đó họ nên mặc y phục phụng vụ mà đồng tế. Nếu không, họ mang áo surplis trên áo soutane ”218. Ngoại trừ những trường hợp rất đặc biệt khi có lý do chính đáng, không cho phép họ tham dự Thánh Lễ, mà vẻ bề ngoài như giáo dân.

Bản dịch của

Lm. FX. NGUYỄN CHÍ CẦN

Giáo sư Phụng Vụ

Đại Chủng Viện SAO-BIỂN NHATRANG



197 Bộ Giáo Luật, can. 932 § 1; cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 9: AAS 62 (1970) p. 701.

198 Bộ Giáo Luật, can. 904; cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 3; Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục; CÔNG ĐỒNG CHUNG Trente, Khoá XXII, 17/9/1562, Giáo lý về Hy Lể cực thánh Thánh lễ, chap. 6: DS 1747; Paul VI, Thông điệp Mysterium fidei, 3/9/1965: AAS 57 (1965) pp. 753-774, ici pp. 761-762; cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 11: AAS 95 (2003) pp. 440-441; T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 44: AAS 59 (1967) p. 564; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 19.

199 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 903; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 200.

200 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n.. 36 § 1; Code de Droit Canonique, can. 928.

201 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 114.

202 Jean-Paul II, Tông thư Dies Domini, n. 36: AAS 90 (1998) p. 735; cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 27: AAS 59 (1967) p. 556.

203 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Dies Domini, surtout n. 36: AAS 90 (1998) p. 735-736; T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Actio pastoralis : AAS 61 (1969) pp. 806-811.

204 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 905, 945-958; cf. Bộ giáo sĩ. Dcret Mos iugiter, 22 fvrier 1991: AAS 83 (1991) pp. 443-446.

205 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 327-333.

206 Cf. ibidem, n. 332.

207 Cf. ibidem, n. 332; T. BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 16: AAS 72 (1980) p. 338.

208 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 333; Appendix IV. Ordo benedictionis calicis et patenae intra Missam adhibendus, pp. 1255-1257; Pontificale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli Pp. VI promulgatum, Ordo Dedicationis ecclesiae et altaris, editio typica, diei 29 maii 1977, Typis Polyglottis Vaticanis, 1977, cap. VII, pp. 125-132.

209 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis , nn. 163, 183, 192.

210 Ibidem, n. 345.

211 Ibidem, n. 335.

212 Cf. ibidem, n. 336.

213 Cf. ibidem, n. 337.

214 Cf. ibidem, n. 209.

215 Cf. ibidem, n. 338.

216 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 8c: AAS 62 (1970) p. 701.

217 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, m. 346g.

218 Ibidem, n. 114; cf. nn. 16-17.