Dù Laudato Si không được viết riêng cho người Công Giáo, nhưng muốn hiểu nó đến ngọn nguồn, người ta buộc phải đọc nó dưới cái nhìn Công Giáo, hay ít nhất Kitô Giáo. Đó là điều linh mục James Martin của tạp chí America và các biên tập viên của Viện Acton đã làm. Linh mục Martin kể ra 10 điểm hàng đầu của Thông Điệp Laudato Si trong khi các biên tập viên của Viện Acton, một “think tank” đại kết của Hoa Kỳ, kể ra 11 điểm mà báo chí thế tục ít khi lưu ý tới và do đó, khó tới mắt người đọc.
Mười món “mang đi”
Linh mục James Martin gọi 10 điểm ngài tóm lược là 10 món “mang đi” (takeaways). Món đầu tiên: viễn ảnh tâm linh nay đã trở thành một phần của cuộc tranh luận về môi sinh. Từ trước đến nay, môi sinh chỉ chủ yếu được bàn thảo bằng ngôn ngữ chính trị, khoa học và kinh tế. Nay, ngôn ngữ đức tin đã bước vào cuộc tranh luận, một cách rõ ràng, cương quyết và có hệ thống. Điều này không có nghĩa: Đức Phanxicô muốn áp đặt các niềm tin của ngài lên những ai quan tâm tới môi sinh (xem số 62). Tuy nhiên, thông điệp đặt cơ sở vững chắc trên viễn ảnh tâm linh và mời gọi mọi người lắng nghe một quan điểm tôn giáo, nhất là cái hiểu của quan điểm này về tạo dựng như là quà phúc qúy giá của Thiên Chúa, cần được mọi người nam nữ tôn kính.
Thứ hai, người nghèo và các nước đang phát triển bị ảnh hưởng xấu một cách bất cân xứng bởi việc thay đổi khí hậu. Vấn đề này hầu như được tìm thấy rải rác khắp thông điệp. Gần ở phần đầu, Đức Phanxicô quả quyết rằng tập chú vào người nghèo là một trong các chủ đề của thông điệp và ngài cung cấp nhiều điển hình cho thấy hiệu quả tai hại của việc thay đổi khí hậu mà tệ hại hơn cả là đối với những người sống tại các nước đang phát triển. Lý do, các quyết định của kẻ quyền thế không đếm xỉa gì tới người nghèo là những người không có tài nguyên tài chánh giúp họ thích ứng với việc thay đổi khí hậu. Mặt khác, tài nguyên của các nước nghèo được dùng để “cung cấp nhiên liệu” cho việc phát triển của các nước giầu mà gây hại cho “chính hiện tại và tương lai” của mình (xem số 52).
Đức Phanxicô không ngừng nại tới Tin Mừng, tới giáo huấn xã hội của Giáo Hội và tới các tuyên bố của các vị giáo hoàng gần đây để phê phán việc loại bỏ bất cứ ai ra khỏi các phúc lợi do thiện ích tạo dựng đem lại (xem số 158).
Thứ ba, kém là hơn. Các điểm sau đây bị ngài phê phán mạnh mẽ: a) não trạng kỹ trị (technocratic) coi kỹ thuật là chìa khóa chính của nhân sinh (số 110); b) việc vô ý thức dựa vào các sức mạnh của thị trường, chỉ biết lao theo các tiến bộ kỹ thuật, khoa học hay kỹ nghệ mà không chịu đắn đo suy nghĩ xem nó tác động ra sao đối với môi sinh, nhất là đối với những con người nhân bản (số 109); c) chủ nghĩa tiêu thụ cực đoan trong đó, con người không làm sao cưỡng lại được bất cứ thứ gì thị trường đặt trước mặt họ, khiến trái đất bị bóc lột và hàng tỷ người trở thành nghèo khổ (số 203). Thành thử, đối với Đức Phanxicô, nay đã tới lúc, một số nơi phải chấp nhận một phát triển chậm đi, ngõ hầu giúp các nơi khác phát triển lành mạnh hơn (số 193). Ngược với não trạng duy tiêu thụ, linh đạo Kitô Giáo khuyến khích một sự phát triển với đặc điểm “điều độ và khả năng biết vui lòng với việc có ít” (số 222). Đây quả là cách tái định nghĩa ý niệm tiến bộ.
Thứ tư, giáo huấn xã hội Công Giáo nay bao gồm giáo huấn về môi sinh. Trái với suy nghĩ của một số người cho rằng thông điệp về môi sinh không có thế giá thực chất, Đức Phanxicô quả quyết: Laudato Si nay là một phần của giáo huấn xã hội Công Giáo (số 15). Nên nhớ: thế giá của một thông điệp giáo hoàng chỉ thua Tin Mừng và các sắc lệnh công đồng mà thôi. Laudato Si cũng có thế giá như Rerum Novarum của Đức Lêô XIII hay Pacem in Terris của Đức Gioan XXIII.
Thứ năm, các cuộc thảo luận về sinh thái có thể đặt cơ sở trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Tuy không bắt đầu thông điệp bằng một suy niệm Thánh Kinh và Thánh Truyền, có thể gây phản ứng tiêu cực nơi người vô tín ngưỡng, nhưng ngay ở chương hai, Đức Phanxicô đã dẫn ta tới “Tin Mừng Tạo Thế”, trong đó, từng bước, ngài cho thấy lời kêu gọi chăm sóc tạo dựng đã khởi đầu ngay từ Sách Sáng Thế qua đó con người được kêu gọi “cày cấy và gìn giữ” trái đất. Nhưng theo ngài, ta quá cày cấy mà coi nhẹ gìn giữ. Ngài còn đi xa hơn bằng cách dạy rằng Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu Kitô, không những trở nên con người, mà còn trở thành một phần của thế giới tự nhiên. Ngài nhắc tới việc Chúa Giêsu ca ngợi tạo thế, các thánh, nhất là thánh Phanxicô Assisi, hết lời tán dương.
Thứ sáu, mọi sự đều liên hệ với nhau, kể cả kinh tế. Đóng góp lớn nhất của Laudato Si là nó đưa ra một cách tiếp cận có tính hệ thống cho vấn đề môi sinh. Trước nhất, nó nối kết ta với tạo thế: “ta là thành phần của thiên nhiên, bao hàm trong nó, và do đó, không ngừng tương tác với nó” (số 139). Nhưng các quyết định của ta, nhất là trong lãnh vực sản xuất và tiêu thụ, có những hậu qua không thể tránh đối với môi sinh. Đức Phanxicô liên kết “quan niệm ảo thuật về thị trường” với việc lạm dụng môi sinh, một quan niệm ưu đãi lợi nhuận hơn tác động đối với người nghèo (số 190). Ngài nhắc lại quan điểm của Thánh Phanxicô Assisi cho rằng có một sự nối kết chặt chẽ giữa việc quan tâm tới thiên nhiên, công lý cho người nghèo, dấn thân cho xã hội và hòa bình nội tâm” (số 10). Ngài bảo: “Lợi nhuận không thể là tiêu chuẩn độc nhất” của các quyết định của ta (số 187).
Thứ bẩy, khảo cứu khoa học về môi sinh đáng được ca ngợi và sử dụng. Trong văn kiện này, Đức Phanxicô không ráng chứng minh bất cứ điều gì về việc thay đổi khí hậu. Ngài thành thực thú nhận rằng Giáo Hội không “có cao vọng giải quyết các vấn nạn khoa học” (số 188). Và dù minh nhiên tuyên bố rằng hiện đang có nhiều tranh luận về khoa khí hậu học, thông điệp của ngài vẫn chấp nhận “cuộc nghiên cứu khoa học tốt đẹp nhất hiện có ngày nay” và xây dựng trên nó, hơn là đi vào cuộc tranh luận của nhà chuyên môn (số 15). Giống mọi thông điệp vĩ đại khác, Laudato Si dựa vào cả giáo huấn của Giáo Hội lẫn các khám phá của các lãnh vực khác, nhất là khoa học, trong trường hợp này, để giúp người thời đại dễ dàng suy nghĩ về các vấn đề này.
Thứ tám, sự dửng dưng và vị kỷ phổ quát đang làm cho các vấn đề môi sinh trầm trọng thêm. Đức Phanxicô dành các phê phán mạnh mẽ nhất cho các người giầu, chuyên làm ngơ vấn nạn do thay đổi khí hậu tạo ra, nhất là hậu quả của nó đối với người nghèo. Họ tìm cách che giấu các triệu chứng… (số 26); các quyết định của họ không hề đếm xỉa tới người nghèo, không bao giờ tiếp xúc với anh chị em mình (các số 90, 49).
Thứ chín, cần có cuộc đối thoại và tình liên đới hoàn cầu. Không phải chỉ bên trong Giáo Hội Công Giáo (các số 14, 16). Thượng phụ đại kết Bartholomew của Chính Thống Giáo cũng góp phần vào thông điệp và cả một thi sĩ của phái Sufi Hồi Giáo nữa. Ngài kêu gọi mọi người bước vào cuộc đối thoại về “tổ ấm chung” (các số 62, 155).
Thứ mười, đòi hỏi thay đổi cõi lòng. Để nhìn sự vật cách mới mẻ, một cuộc “cách mạng văn hóa mạnh dạn” (các số 3, 114). Dù cho rằng trái đất đang càng ngày càng trở nên “đống rác rưởi mênh mông”, tài liệu vẫn đầy hy vọng, nhắc ta nhớ rằng vì Thiên Chúa ở với chúng ta, nên ta vẫn có thể thay đổi đường đi. Ta có thể đánh thức tâm trí ta để chúng hướng về một “cuộc hồi tâm sinh thái” trong đó, ta tìm ra mối liên kết thân thiết giữa Thiên Chúa và mọi hữu thể, và sẵn sàng hơn để lắng nghe “tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của người nghèo” (số 49).
Mười một điều ít được truyền thông lưu ý
Viện Acton thì trích dẫn chính thông điệp để chỉ ra 11 điều ít được truyền thông nhắc đến vì phần lớn họ chỉ chú ý tới vấn đề thay đổi khí hậu và hâm nóng địa cầu.
Trước nhất là các đoạn 75 và 77 cho thấy tạo thế có một Đấng Tạo Hóa, và không hề chỉ là một thiên nhiên cộng với biến hóa. Một linh đạo quên mất Thiên Chúa, Đấng toàn năng và tạo dựng, là điều không thể chấp nhận được. Vì chính vì thế mà kết cục ta đi thờ phượng các quyền lực trần thế, tiếm đoạt chỗ đứng của Thiên Chúa, đến độ tự cho mình quyền hành vô hạn trong việc dầy đạp tạo dựng.
Tạo thế do một quyết định tự do của Thiên Chúa, không phải do hỗn mang hay may rủi, một quyết định của yêu thương. Sách Khôn Ngoan (11:24): “vì Ngài yêu thương mọi vật hiện hữu, và không ghét bỏ bất cứ vật nào do Ngài tạo dựng; vì Ngài sẽ không dựng nên vật nào nếu Ngài ghét nó”. Thánh Basilêô Cả mô tả Đấng Tạo Hóa là “lòng tốt khôn lường” còn Dante nói tới “tình yêu chuyển mặt trời và tinh tú”. Nhờ thế, ta có thể từ các vật được tạo thành vươn tới “sự cao cả của Thiên Chúa và lòng từ nhân đầy yêu thương của Người”.
Thứ hai, họ trích dẫn đoạn 15 để nhận định rằng sinh thái nhân bản có nghĩa là thừa nhận và đánh giá cao sự khác biệt giữa nam tính và nữ tính vì đó là quà tặng tự nhiên của Thiên Chúa, mà ta “phải kính trọng chứ không tùy tiện thao túng” như lời dạy của Đức Bênêđíctô XVI.
Thứ ba, với đoạn 98, theo viện Acton, Laudato Si cho rằng Chúa Giêsu thánh hóa lao công con người: Người làm việc bằng đôi tay trong tư cách “thợ mộc, con trai bà Maria” (Mc 6:3).
Thứ bốn, đoạn 47 cho thấy: hãy rời bỏ điện thoại để gặp gỡ nhau. Vì các phương tiện truyền thông và thế giới kỹ thuật số đang trở thành toàn diện (omnipresent), ngăn cản con người không học cách sống khôn ngoan, suy nghĩ sâu sắc và yêu thương đại lượng.
Thứ năm, các đoạn 120, 136 và 91 dạy ta phải cứu trẻ thơ: bảo vệ thiên nhiên không thể biện minh cho việc phá thai, dùng phôi thai người để nghiên cứu, nạn buôn bán người...
Thứ sáu, đoạn 128 khuyến khích ta giúp người nghèo đòi hỏi nhiều hơn phát chẩn. Giúp họ về tài chánh chỉ là 1 giải pháp tạm, giải pháp lâu dài là giúp họ có việc làm. Việc làm đem lại ý nghĩa cho cuộc sống, mở đường cho tiến bộ, phát triển nhân bản và thành toàn bản thân. Phải giúp họ 1 đời sống xứng đáng qua việc làm.
Thứ bẩy, đoạn 50 cho thấy thặng dư dân số không phải là vấn đề. Vấn đề là chủ nghĩa duy tiêu thụ cực đoan và có tính lựa lọc của một số người. Tăng dân số hoàn toàn tương hợp với một chính sách phát triển toàn bộ và biết chia sẻ.
Thứ tám, các đoạn 118 và 65 dạy: sinh thái chân thực đòi một nền nhân học đích thực và lòng tôn trọng nhân phẩm. Không thể trông mong con người nhân bản chịu trách nhiệm về môi sinh nếu đồng thời các khả năng độc đáo của họ như trí hiểu, ý chí, tự do và trách nhiệm không được thừa nhận và đánh giá cao.
Thiên Chúa ban cho mỗi con người một phẩm giá độc đáo: họ có khả năng tự nhận thức, tự chiếm hữu mình, tự do cho mình đi và bước vào hiệp thông với người khác. Người nào cũng được ước muốn, được yêu thương, và cần thiết cả.
Thứ chín, các đoạn 123, 211 cho thấy: thay đổi thực sự phải là thay đổi văn hóa, chứ không phải thay đổi chính trị. Vì khi văn hóa sa đoạ và chân lý khách quan và các nguyên tắc có giá trị phổ quát không còn được tuân giữ, thì luật lệ chỉ là những áp đặt tùy tiện hay các trở ngại cần phải tránh.
Thứ mười, các đoạn 60 và 188 cho thấy Giáo Hội không có cao vọng giải quyết các vấn đề khoa học và ta cần một cuộc tranh luận trung thực và cởi mở. Hiện đang có hai phương thức cực đoan: “huyền thoại tiến bộ” cho rằng chỉ cần áp dụng kỹ thuật mới là giải quyết tức khắc mọi vấn đề sinh thái, chẳng cần gì tới đạo đức hay thay đổi sâu xa; phía kia coi con người đơn thuần là một đe dọa phá nát hệ sinh thái hoàn cầu, nên cần giảm thiểu sự hiện diện của họ. Cả hai không giải quyết được gì, cần mọi người bước vào đối thoại nhằm đưa ra các giải pháp toàn bộ. Giáo Hội khích lệ cuộc đối thoại trung thực và cởi mở để các quyền lợi đặc thù hay các ý thức hệ không phá hoại ích chung.
Thứ mười một, Viện Acton trích dẫn đoạn 229 là đoạn dạy phải chấm dứt các chủ nghĩa khuyển nho (cynicism), duy tục và vô luân: ta cần nhau, ta có trách nhiệm chung đối với nhau và đối với thế giới và sống tốt lành và tao nhã là điều đáng làm, hiện có quá nhiều nhạo báng đối với đạo đức, sự thiện, niềm tin và lòng trung thực. Khi những nền tảng này không còn, thì việc chăm sóc môi sinh cũng chấm dứt.
Trước sau, giải pháp chính yếu của Laudato Si vẫn không hẳn là giải pháp kỹ thuật. Kiên nhẫn đọc cho tới phần kết, ta thấy nó nở ra cả một chân trời cánh chung tươi đẹp. Số 244 cho rằng: “mọi điều tốt lành đang hiện hữu nơi đây sẽ được đem vào bàn tiệc nước trời. Hợp nhất với mọi loài thụ tạo, ta hành trình xuyên qua mảnh đất này để đi tìm Thiên Chúa, vì ‘nếu thế giới có một khởi đầu và nếu nó được dựng nên, ta phải tìm hiểu xem ai đã ban cái khởi đầu này cho nó, và ai là Đấng tạo ra nó?’. Ta hãy hoan ca trên đường hành trình. Ước chi các tranh đấu và quan tâm của ta cho hành tinh này không bao giờ lấy mất niềm vui trong lòng hy vọng của ta”.
Vì dù có thế nào, Thiên Chúa “cũng không bỏ rơi ta, không bao giờ Người để ta một mình, vì Người đã dứt khoát kết hợp chính Người với trái đất của ta, và tình yêu của Người không ngừng thúc đẩy ta tìm ra đường để tiến tới. Ngợi ca Người!” (số 245)
Mười món “mang đi”
Linh mục James Martin gọi 10 điểm ngài tóm lược là 10 món “mang đi” (takeaways). Món đầu tiên: viễn ảnh tâm linh nay đã trở thành một phần của cuộc tranh luận về môi sinh. Từ trước đến nay, môi sinh chỉ chủ yếu được bàn thảo bằng ngôn ngữ chính trị, khoa học và kinh tế. Nay, ngôn ngữ đức tin đã bước vào cuộc tranh luận, một cách rõ ràng, cương quyết và có hệ thống. Điều này không có nghĩa: Đức Phanxicô muốn áp đặt các niềm tin của ngài lên những ai quan tâm tới môi sinh (xem số 62). Tuy nhiên, thông điệp đặt cơ sở vững chắc trên viễn ảnh tâm linh và mời gọi mọi người lắng nghe một quan điểm tôn giáo, nhất là cái hiểu của quan điểm này về tạo dựng như là quà phúc qúy giá của Thiên Chúa, cần được mọi người nam nữ tôn kính.
Thứ hai, người nghèo và các nước đang phát triển bị ảnh hưởng xấu một cách bất cân xứng bởi việc thay đổi khí hậu. Vấn đề này hầu như được tìm thấy rải rác khắp thông điệp. Gần ở phần đầu, Đức Phanxicô quả quyết rằng tập chú vào người nghèo là một trong các chủ đề của thông điệp và ngài cung cấp nhiều điển hình cho thấy hiệu quả tai hại của việc thay đổi khí hậu mà tệ hại hơn cả là đối với những người sống tại các nước đang phát triển. Lý do, các quyết định của kẻ quyền thế không đếm xỉa gì tới người nghèo là những người không có tài nguyên tài chánh giúp họ thích ứng với việc thay đổi khí hậu. Mặt khác, tài nguyên của các nước nghèo được dùng để “cung cấp nhiên liệu” cho việc phát triển của các nước giầu mà gây hại cho “chính hiện tại và tương lai” của mình (xem số 52).
Đức Phanxicô không ngừng nại tới Tin Mừng, tới giáo huấn xã hội của Giáo Hội và tới các tuyên bố của các vị giáo hoàng gần đây để phê phán việc loại bỏ bất cứ ai ra khỏi các phúc lợi do thiện ích tạo dựng đem lại (xem số 158).
Thứ ba, kém là hơn. Các điểm sau đây bị ngài phê phán mạnh mẽ: a) não trạng kỹ trị (technocratic) coi kỹ thuật là chìa khóa chính của nhân sinh (số 110); b) việc vô ý thức dựa vào các sức mạnh của thị trường, chỉ biết lao theo các tiến bộ kỹ thuật, khoa học hay kỹ nghệ mà không chịu đắn đo suy nghĩ xem nó tác động ra sao đối với môi sinh, nhất là đối với những con người nhân bản (số 109); c) chủ nghĩa tiêu thụ cực đoan trong đó, con người không làm sao cưỡng lại được bất cứ thứ gì thị trường đặt trước mặt họ, khiến trái đất bị bóc lột và hàng tỷ người trở thành nghèo khổ (số 203). Thành thử, đối với Đức Phanxicô, nay đã tới lúc, một số nơi phải chấp nhận một phát triển chậm đi, ngõ hầu giúp các nơi khác phát triển lành mạnh hơn (số 193). Ngược với não trạng duy tiêu thụ, linh đạo Kitô Giáo khuyến khích một sự phát triển với đặc điểm “điều độ và khả năng biết vui lòng với việc có ít” (số 222). Đây quả là cách tái định nghĩa ý niệm tiến bộ.
Thứ tư, giáo huấn xã hội Công Giáo nay bao gồm giáo huấn về môi sinh. Trái với suy nghĩ của một số người cho rằng thông điệp về môi sinh không có thế giá thực chất, Đức Phanxicô quả quyết: Laudato Si nay là một phần của giáo huấn xã hội Công Giáo (số 15). Nên nhớ: thế giá của một thông điệp giáo hoàng chỉ thua Tin Mừng và các sắc lệnh công đồng mà thôi. Laudato Si cũng có thế giá như Rerum Novarum của Đức Lêô XIII hay Pacem in Terris của Đức Gioan XXIII.
Thứ năm, các cuộc thảo luận về sinh thái có thể đặt cơ sở trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Tuy không bắt đầu thông điệp bằng một suy niệm Thánh Kinh và Thánh Truyền, có thể gây phản ứng tiêu cực nơi người vô tín ngưỡng, nhưng ngay ở chương hai, Đức Phanxicô đã dẫn ta tới “Tin Mừng Tạo Thế”, trong đó, từng bước, ngài cho thấy lời kêu gọi chăm sóc tạo dựng đã khởi đầu ngay từ Sách Sáng Thế qua đó con người được kêu gọi “cày cấy và gìn giữ” trái đất. Nhưng theo ngài, ta quá cày cấy mà coi nhẹ gìn giữ. Ngài còn đi xa hơn bằng cách dạy rằng Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu Kitô, không những trở nên con người, mà còn trở thành một phần của thế giới tự nhiên. Ngài nhắc tới việc Chúa Giêsu ca ngợi tạo thế, các thánh, nhất là thánh Phanxicô Assisi, hết lời tán dương.
Thứ sáu, mọi sự đều liên hệ với nhau, kể cả kinh tế. Đóng góp lớn nhất của Laudato Si là nó đưa ra một cách tiếp cận có tính hệ thống cho vấn đề môi sinh. Trước nhất, nó nối kết ta với tạo thế: “ta là thành phần của thiên nhiên, bao hàm trong nó, và do đó, không ngừng tương tác với nó” (số 139). Nhưng các quyết định của ta, nhất là trong lãnh vực sản xuất và tiêu thụ, có những hậu qua không thể tránh đối với môi sinh. Đức Phanxicô liên kết “quan niệm ảo thuật về thị trường” với việc lạm dụng môi sinh, một quan niệm ưu đãi lợi nhuận hơn tác động đối với người nghèo (số 190). Ngài nhắc lại quan điểm của Thánh Phanxicô Assisi cho rằng có một sự nối kết chặt chẽ giữa việc quan tâm tới thiên nhiên, công lý cho người nghèo, dấn thân cho xã hội và hòa bình nội tâm” (số 10). Ngài bảo: “Lợi nhuận không thể là tiêu chuẩn độc nhất” của các quyết định của ta (số 187).
Thứ bẩy, khảo cứu khoa học về môi sinh đáng được ca ngợi và sử dụng. Trong văn kiện này, Đức Phanxicô không ráng chứng minh bất cứ điều gì về việc thay đổi khí hậu. Ngài thành thực thú nhận rằng Giáo Hội không “có cao vọng giải quyết các vấn nạn khoa học” (số 188). Và dù minh nhiên tuyên bố rằng hiện đang có nhiều tranh luận về khoa khí hậu học, thông điệp của ngài vẫn chấp nhận “cuộc nghiên cứu khoa học tốt đẹp nhất hiện có ngày nay” và xây dựng trên nó, hơn là đi vào cuộc tranh luận của nhà chuyên môn (số 15). Giống mọi thông điệp vĩ đại khác, Laudato Si dựa vào cả giáo huấn của Giáo Hội lẫn các khám phá của các lãnh vực khác, nhất là khoa học, trong trường hợp này, để giúp người thời đại dễ dàng suy nghĩ về các vấn đề này.
Thứ tám, sự dửng dưng và vị kỷ phổ quát đang làm cho các vấn đề môi sinh trầm trọng thêm. Đức Phanxicô dành các phê phán mạnh mẽ nhất cho các người giầu, chuyên làm ngơ vấn nạn do thay đổi khí hậu tạo ra, nhất là hậu quả của nó đối với người nghèo. Họ tìm cách che giấu các triệu chứng… (số 26); các quyết định của họ không hề đếm xỉa tới người nghèo, không bao giờ tiếp xúc với anh chị em mình (các số 90, 49).
Thứ chín, cần có cuộc đối thoại và tình liên đới hoàn cầu. Không phải chỉ bên trong Giáo Hội Công Giáo (các số 14, 16). Thượng phụ đại kết Bartholomew của Chính Thống Giáo cũng góp phần vào thông điệp và cả một thi sĩ của phái Sufi Hồi Giáo nữa. Ngài kêu gọi mọi người bước vào cuộc đối thoại về “tổ ấm chung” (các số 62, 155).
Thứ mười, đòi hỏi thay đổi cõi lòng. Để nhìn sự vật cách mới mẻ, một cuộc “cách mạng văn hóa mạnh dạn” (các số 3, 114). Dù cho rằng trái đất đang càng ngày càng trở nên “đống rác rưởi mênh mông”, tài liệu vẫn đầy hy vọng, nhắc ta nhớ rằng vì Thiên Chúa ở với chúng ta, nên ta vẫn có thể thay đổi đường đi. Ta có thể đánh thức tâm trí ta để chúng hướng về một “cuộc hồi tâm sinh thái” trong đó, ta tìm ra mối liên kết thân thiết giữa Thiên Chúa và mọi hữu thể, và sẵn sàng hơn để lắng nghe “tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của người nghèo” (số 49).
Mười một điều ít được truyền thông lưu ý
Viện Acton thì trích dẫn chính thông điệp để chỉ ra 11 điều ít được truyền thông nhắc đến vì phần lớn họ chỉ chú ý tới vấn đề thay đổi khí hậu và hâm nóng địa cầu.
Trước nhất là các đoạn 75 và 77 cho thấy tạo thế có một Đấng Tạo Hóa, và không hề chỉ là một thiên nhiên cộng với biến hóa. Một linh đạo quên mất Thiên Chúa, Đấng toàn năng và tạo dựng, là điều không thể chấp nhận được. Vì chính vì thế mà kết cục ta đi thờ phượng các quyền lực trần thế, tiếm đoạt chỗ đứng của Thiên Chúa, đến độ tự cho mình quyền hành vô hạn trong việc dầy đạp tạo dựng.
Tạo thế do một quyết định tự do của Thiên Chúa, không phải do hỗn mang hay may rủi, một quyết định của yêu thương. Sách Khôn Ngoan (11:24): “vì Ngài yêu thương mọi vật hiện hữu, và không ghét bỏ bất cứ vật nào do Ngài tạo dựng; vì Ngài sẽ không dựng nên vật nào nếu Ngài ghét nó”. Thánh Basilêô Cả mô tả Đấng Tạo Hóa là “lòng tốt khôn lường” còn Dante nói tới “tình yêu chuyển mặt trời và tinh tú”. Nhờ thế, ta có thể từ các vật được tạo thành vươn tới “sự cao cả của Thiên Chúa và lòng từ nhân đầy yêu thương của Người”.
Thứ hai, họ trích dẫn đoạn 15 để nhận định rằng sinh thái nhân bản có nghĩa là thừa nhận và đánh giá cao sự khác biệt giữa nam tính và nữ tính vì đó là quà tặng tự nhiên của Thiên Chúa, mà ta “phải kính trọng chứ không tùy tiện thao túng” như lời dạy của Đức Bênêđíctô XVI.
Thứ ba, với đoạn 98, theo viện Acton, Laudato Si cho rằng Chúa Giêsu thánh hóa lao công con người: Người làm việc bằng đôi tay trong tư cách “thợ mộc, con trai bà Maria” (Mc 6:3).
Thứ bốn, đoạn 47 cho thấy: hãy rời bỏ điện thoại để gặp gỡ nhau. Vì các phương tiện truyền thông và thế giới kỹ thuật số đang trở thành toàn diện (omnipresent), ngăn cản con người không học cách sống khôn ngoan, suy nghĩ sâu sắc và yêu thương đại lượng.
Thứ năm, các đoạn 120, 136 và 91 dạy ta phải cứu trẻ thơ: bảo vệ thiên nhiên không thể biện minh cho việc phá thai, dùng phôi thai người để nghiên cứu, nạn buôn bán người...
Thứ sáu, đoạn 128 khuyến khích ta giúp người nghèo đòi hỏi nhiều hơn phát chẩn. Giúp họ về tài chánh chỉ là 1 giải pháp tạm, giải pháp lâu dài là giúp họ có việc làm. Việc làm đem lại ý nghĩa cho cuộc sống, mở đường cho tiến bộ, phát triển nhân bản và thành toàn bản thân. Phải giúp họ 1 đời sống xứng đáng qua việc làm.
Thứ bẩy, đoạn 50 cho thấy thặng dư dân số không phải là vấn đề. Vấn đề là chủ nghĩa duy tiêu thụ cực đoan và có tính lựa lọc của một số người. Tăng dân số hoàn toàn tương hợp với một chính sách phát triển toàn bộ và biết chia sẻ.
Thứ tám, các đoạn 118 và 65 dạy: sinh thái chân thực đòi một nền nhân học đích thực và lòng tôn trọng nhân phẩm. Không thể trông mong con người nhân bản chịu trách nhiệm về môi sinh nếu đồng thời các khả năng độc đáo của họ như trí hiểu, ý chí, tự do và trách nhiệm không được thừa nhận và đánh giá cao.
Thiên Chúa ban cho mỗi con người một phẩm giá độc đáo: họ có khả năng tự nhận thức, tự chiếm hữu mình, tự do cho mình đi và bước vào hiệp thông với người khác. Người nào cũng được ước muốn, được yêu thương, và cần thiết cả.
Thứ chín, các đoạn 123, 211 cho thấy: thay đổi thực sự phải là thay đổi văn hóa, chứ không phải thay đổi chính trị. Vì khi văn hóa sa đoạ và chân lý khách quan và các nguyên tắc có giá trị phổ quát không còn được tuân giữ, thì luật lệ chỉ là những áp đặt tùy tiện hay các trở ngại cần phải tránh.
Thứ mười, các đoạn 60 và 188 cho thấy Giáo Hội không có cao vọng giải quyết các vấn đề khoa học và ta cần một cuộc tranh luận trung thực và cởi mở. Hiện đang có hai phương thức cực đoan: “huyền thoại tiến bộ” cho rằng chỉ cần áp dụng kỹ thuật mới là giải quyết tức khắc mọi vấn đề sinh thái, chẳng cần gì tới đạo đức hay thay đổi sâu xa; phía kia coi con người đơn thuần là một đe dọa phá nát hệ sinh thái hoàn cầu, nên cần giảm thiểu sự hiện diện của họ. Cả hai không giải quyết được gì, cần mọi người bước vào đối thoại nhằm đưa ra các giải pháp toàn bộ. Giáo Hội khích lệ cuộc đối thoại trung thực và cởi mở để các quyền lợi đặc thù hay các ý thức hệ không phá hoại ích chung.
Thứ mười một, Viện Acton trích dẫn đoạn 229 là đoạn dạy phải chấm dứt các chủ nghĩa khuyển nho (cynicism), duy tục và vô luân: ta cần nhau, ta có trách nhiệm chung đối với nhau và đối với thế giới và sống tốt lành và tao nhã là điều đáng làm, hiện có quá nhiều nhạo báng đối với đạo đức, sự thiện, niềm tin và lòng trung thực. Khi những nền tảng này không còn, thì việc chăm sóc môi sinh cũng chấm dứt.
Trước sau, giải pháp chính yếu của Laudato Si vẫn không hẳn là giải pháp kỹ thuật. Kiên nhẫn đọc cho tới phần kết, ta thấy nó nở ra cả một chân trời cánh chung tươi đẹp. Số 244 cho rằng: “mọi điều tốt lành đang hiện hữu nơi đây sẽ được đem vào bàn tiệc nước trời. Hợp nhất với mọi loài thụ tạo, ta hành trình xuyên qua mảnh đất này để đi tìm Thiên Chúa, vì ‘nếu thế giới có một khởi đầu và nếu nó được dựng nên, ta phải tìm hiểu xem ai đã ban cái khởi đầu này cho nó, và ai là Đấng tạo ra nó?’. Ta hãy hoan ca trên đường hành trình. Ước chi các tranh đấu và quan tâm của ta cho hành tinh này không bao giờ lấy mất niềm vui trong lòng hy vọng của ta”.
Vì dù có thế nào, Thiên Chúa “cũng không bỏ rơi ta, không bao giờ Người để ta một mình, vì Người đã dứt khoát kết hợp chính Người với trái đất của ta, và tình yêu của Người không ngừng thúc đẩy ta tìm ra đường để tiến tới. Ngợi ca Người!” (số 245)