Trong một bài trước (1), chúng tôi có đề cập tới tác phẩm được coi là quan trọng nhất của thần học gia Joseph Ratginger, xuất bản năm 1968, đúng vào lúc có những xáo trộn quan trọng tại các đại học nói chung và tại Đại Học Tubingen, nơi ngài đang giảng dạy, nói riêng. Đó là cuốn Dẫn Nhập Vào Kitô Giáo (2). Có người cho rằng các biến cố bạo loạn của sinh viên đại học năm 1968 đã biến Ratzinger từ một người cấp tiến bước hẳn qua trường phái bảo thủ. Nhưng nếu đọc kỹ tác phẩm này, ta sẽ thấy nhận định này không chính xác vì nội dung cuốn sách phần lớn là các bài diễn giảng của ngài trong năm 1967.
Cuốn sách nói lên những điểm căn bản trong tư duy liên tục của ngài đến nỗi năm 2000, hơn 30 năm sau, với biết bao thăng trầm thật đáng kể trong lịch sử gần đây, khi cho tái bản, ngài đã giữ nguyên nội dung của nó. Để hiểu hậu cảnh của việc giữ nguyên này, ta nên đọc lại lời nói đầu cho lần tái bản năm 2000 do chính ngài viết.
Hơn ba mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày tác phẩm này được xuất bản lần đầu, trong khi ấy, lịch sử thế giới đã diễn biến rất nhanh. Nhìn trở lui, hai năm được xem như những cột mốc đặc biệt quan trọng trong hai thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ sắp kết thúc là năm 1968 và năm 1989. Năm1968 đánh dấu cuộc nổi loạn của một thế hệ mới; thế hệ này không những coi việc tái thiết hậu chiến ở Âu Châu không thỏa đáng, đầy bất công, đầy vị kỷ và tham lam, mà còn cho rằng trọn bộ dòng lịch sử từ thời Kitô Giáo chiến thắng tới lúc đó hoàn toàn là một sai lầm và thất bại. Những người trẻ này muốn cải thiện sự việc để đem lại tự do, bình đẳng và công bằng, và họ xác tín rằng trong chính dòng tư duy Mácxít, họ đã tìm được phương cách làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Năm 1989 đem lại sự sụp đổ đầy ngạc nhiên cho các chế độ xã hội chủ nghĩa tại Âu Châu, để lại phía sau cả một di sản đáng buồn gồm những lãnh thổ và những tâm hồn tan nát. Bất cứ ai hy vọng rằng thời khắc đã đến đối với với sứ điệp Kitô Giáo đều đã thất vọng. Dù con số tín hữu Kitô khắp thế giới không nhỏ, nhưng Kitô Giáo quả đã thất bại ngay vào thời khắc lịch sử ấy trong việc làm cho mình được lắng nghe như một giải pháp thay thế tạo thời thế. Xét trong căn bản, lý thuyết cứu rỗi của Mác (dĩ nhiên dưới nhiều sắc thái được đạo diễn khác nhau) đã đưa ra một chủ trương coi mình như người hướng dẫn tương lai duy nhất được đạo dức thúc đẩy, một hướng dẫn đồng thời cũng nhất quán với thế giới quan khoa học. Bởi thế, thậm chí sau cú sốc năm 1989, nó vẫn không chịu thoái lui. Ta chỉ cần nhớ người ta ít nói xiết bao tới nỗi kinh hoàng của các quần đảo (gulac) Cộng Sản, tiếng nói của Solzhenitsyn vẫn bị cô lập như thế nào: không ai đề cập tới những chuyện này nữa. Có một nỗi xấu hổ nào đó ngăn cản họ; thậm chí cả chế độ sát nhân của Pol Pot cũng chỉ thỉnh thoảng được nhắc đến qua loa. Tuy nhiên, người ta vẫn thất vọng và bối rối tận cùng. Họ không còn tin tưởng gì vào các lời hứa hẹn tinh thần lớn lao, và dù sao, đây cũng là điều chủ nghĩa Mác nghĩ mình là. Nó muốn đòi công lý cho mọi người, đòi hòa bình, đòi triệt hạ các tương quan chủ tớ bất công, và vân vân. Chủ nghĩa Mác tin rằng nó phải tạm thời miễn trừ các nguyên tắc đạo đức và tự cho phép mình sử dụng khủng bố như phương tiện lành mạnh để đạt các mục tiêu cao thượng kia. Khi các hậu quả tàn bạo về nhân bản trở thành rõ rệt, những nhà ý thức hệ trước đây thích rút về chủ trương thực tiễn, nếu không họ cũng tuyên bố công khai là mình khinh bỉ đạo đức. Ta có thể nhận ra một điển hình thảm hại của điều này tại Colombia, nơi người ta từng khởi diễn một chiến dịch, thoạt đầu dưới biểu ngữ Mácxít, nhằm giải phóng các tiểu nông gia từng bị các cơ sở tài chánh giầu có chà đạp. Nhưng ngày nay, thay vào đó, người ta đã khai trương ra một nền cộng hòa phản loạn, vượt quyền kiểm soát của chính phủ, và hoàn toàn công khai lệ thuộc việc buôn bán ma túy và không còn theo đuổi bất cứ sự biện minh luân lý nào cho việc ấy nữa, nhất là vì nó lại thỏa mãn đòi hỏi của các nước giầu có, đồng thời cung cấp được cơm bánh cho những người chả còn trông mong gì nơi nền kinh tế thế giới. Trong tình thế bối rối ấy, há Kitô Giáo lại không nên cố gắng một cách hết sức nghiêm chỉnh để khám phá lại chính tiếng nói của mình, ngõ hầu “dẫn nhập” tân thiên niên kỷ vào sứ điệp của mình, và làm sứ điệp này trở thành dễ hiểu như một hướng dẫn tổng quát cho tương lai?
Dù sao, vào lúc đó, tiếng nói của đức tin Kitô Giáo đang ở đâu? Năm 1967, khi cuốn sách này đang được trước tác, việc lên men giai đoạn đầu tiên của thời hậu công đồng đã bước vào đà hết sức sôi động. Một cách chính xác, Công Đồng Vatican II có dự tính như sau: đem lại cho Kitô Giáo một lần nữa sức mạnh có thể lên khuôn lịch sử. Thế kỷ mười chín từng tạo ra ý tưởng cho rằng tôn giáo thuộc lãnh vực chủ quan, riêng tư và nên nằm ở chỗ đó. Nhưng chính vì nó được phạm trù hóa như một một điều gì chủ quan, nên nó không thể là yếu tố xác định trong toàn bộ dòng lịch sử nói chung và trong các quyết định có tính thời đại cần đưa ra như thành phần của lịch sử này. Giờ đây, tiếp theo công đồng, người ta giả thiết rằng, điều trở nên hiển nhiên một lần nữa là đức Tin Kitô Giáo phải bao hàm trọn cuộc sống, nó phải hiện diện giữa lòng lịch sử và thời gian và liên hệ tới quá bên kia lãnh vực ý niệm chủ quan. Ít nhất theo quan điểm Giáo Hội Công Giáo, Kitô Giáo đang cố gắng một lần nữa thoát ra khỏi sự cô lập (ghetto), một thứ cô lập nó buộc phải lui vào từ thế kỷ mười chín, để tái can dự vào thế sự nói chung. Ở đây, chúng ta không cần thảo luận các tranh luận và chạm trán trong nội bộ Giáo Hội từng nổi lên xung quanh việc giải thích và hấp thụ công đồng. Vào thời gian này, vấn đề chính ảnh hưởng tới địa vị Kitô Giáo là quan điểm về mối liên hệ mới giữa Giáo Hội và thế giới. Mặc dù Romano Guardini, từ thập niên 1930, đã tạo ra kiểu nói Unterscheidung des Christlichen [phân biệt điều gì là Kitô Giáo], một vấn đề cực kỳ cần thiết vào lúc đó, nhưng những phân biệt như thế nay không còn quan trọng nữa; trái lại, tinh thần thời đại đòi ta phải vượt qua biên giới, vươn tay ra với thế giới, và dấn thân trong đó. Nhìn vào những hàng rào cản tại Paris năm 1968, người ta đã chứng minh được rằng các ý tưởng vừa kể phát xuất mau chóng ra sao trong các cuộc thảo luận có tính khoa bảng của người trong Giáo Hội và được áp dụng một cách rất thực tiễn như thế nào: một Thánh Thể cách mạng đã được cử hành tại đó, nhờ thế, đã đem vào thực hành một hòa nhịp mới của cả Giáo Hội và Thế Giới dưới biểu ngữ cách mạng là đem bình minh lại cho một thời đại tốt đẹp hơn. Vai trò lãnh đạo của các nhóm sinh viên Công Giáo và Thệ Phản trong các cuộc nổi dậy có tính cách mạng tại các đại học ở Âu Châu cũng như tại các nơi khác đã xác nhận xu hướng này.
Việc diễn dịch mới mẻ các ý niệm này thành hành động, sự hòa nhịp mới các thúc đẩy của Kitô Giáo với các hoạt động thế tục và chính trị được coi như một ánh chớp; tuy nhiên, những đám cháy được nó thực sự tạo nên lại xẩy ra tại Châu Mỹ La Tinh. Trong hơn một thập niên, nền thần học giải phóng dường như đã chỉ ra được một con đường nhờ đó đức tin có thể lên khuôn lại cho thế giới, nhờ đã tạo được một chính nghĩa chung với các phát kiến và sự khôn ngoan thế tục của thời đại. Không ai tranh cãi sự kiện này: ở Châu Mỹ La Tinh, đã có những sự kiện hết sức kinh hoàng như áp chế, cai trị bất chính nghĩa, tập trung tài sản và quyền hành trong tay một thiểu số, và bóc lột người nghèo, và cũng không ai tranh cãi việc cần phải làm một điều gì đó. Và vì đây là vấn đề của các quốc gia đa số dân là Công Giáo, nên hiển nhiên Giáo Hội có trách nhiệm ở đây và đức tin phải tự chứng tỏ mình là sức mạnh dành công lý. Nhưng dành cách nào? Thế là Mác xuất hiện như một sách giáo khoa vĩ đại. Người ta bảo hiện giờ ông đóng cùng một vai trò như vai trò từng rơi xuống vai Arítốt vào thế kỷ mười ba; nền triết học tiền Kitô Giáo (hay “ngoại đạo”) của người vừa kể cần được rửa tội mới đem đức tin và lý trí vào một tương quan thích đáng đối với nhau. Nhưng bất cứ ai chấp nhận Mác (trong bất cứ sắc thái tân Mácxít nào) làm đại biểu cho lý trí trần thế, cũng đều không những chấp nhận một triết lý, một viễn kiến về cội nguồn và ý nghĩa hiện sinh, mà còn và đặc biệt còn chấp nhận luôn một chương trình thực tiễn. Bởi vì “triết lý” này, trong yếu tính, vốn là một “lý thuyết thực hành” (praxis), một lý thuyết không tiền giả thiết một “chân lý” nào mà muốn tạo ra chúng. Bất cứ ai muốn biến Mác thành triết gia của thần học đều chấp nhận tính tối thượng của chính trị và kinh tế, những điều hiện đã trở thành quyền lực thực sự có thể đem lại sự cứu rỗi (và nếu bị lạm dụng, có thể mang tới tai họa). Theo lối suy nghĩ này, sự cứu rỗi của nhân loại xẩy ra nhờ chính trị và kinh tế, trong đó hình thức tương lai được xác định. Tính tối thượng của lý thuyết thực hành và chính trị này, trước nhất, có nghĩa: Thiên Chúa không thể bị phạm trù hóa như một điều “thực tiễn”. “Thực tại” mà người ta phải can dự vào lúc này chỉ là thực tại vật chất của những hoàn cảnh lịch sử nhất định, là những hoàn cảnh cần được nhìn một cách có phê phán và được cải cách, được qui hướng về các mục tiêu đúng đắn bằng cách sử dụng các phương thế thích đáng. Trong số các phương thế này, bạo lực là điều không thể miễn chước. Theo viễn ảnh này, việc nói về Thiên Chúa không thuộc cả lãnh vực thực tiễn lẫn lãnh vực thực tại nữa. Nếu cần phải khoan dung việc này, thì nên triển hạn nó cho tới khi công việc quan trọng hơn đã được làm xong. Điều còn phải bàn, là khuôn mạo Chúa Giêsu, Đấng vào lúc này dĩ nhiên không được xuất hiện như Đấng Kitô, mà đúng hơn như hiện thân của mọi con người đau khổ và bị áp bức và như phát ngôn viên của họ. Người kêu gọi ta đứng lên, thay đổi xã hội. Trong tất cả những điều này, điều mới lạ là chương trình thay đổi thế giới, một chương trình theo Mác vốn có xu hướng không những vô thần mà còn phản tôn giáo nữa, nay tràn ngập lòng say mê tôn giáo và được xây dựng trên các nguyên tắc tôn giáo: một cách đọc Thánh Kinh mới (nhất là Cựu Ước) và một phụng vụ mới được cử hành như một thành tựu tượng trưng của cách mạng và như một chuẩn bị cho cuộc cách mạng ấy.
Phải thừa nhận rằng nhờ cuộc tổng hợp đáng lưu ý này, Kitô Giáo đã một lần nữa bước vào vũ đài thế giới và trở thành một sứ điệp “tạo thời thế”. Không lạ gì các nhà nước xã hội chủ nghĩa rất ủng hộ phong trào này. Điều đáng lưu ý hơn nữa là sự kiện này: ngay tại các quốc gia “tư bản chủ nghĩa” thần học giải phóng cũng là cục cưng của công luận: nói ngược lại nó bị tích cực coi như một tội lỗi chống lại nhân tính và nhân loại, dù lẽ dĩ nhiên không ai muốn thấy các biện pháp thực tiễn được áp dụng vào hoàn cảnh riêng của mình, vì hiển nhiên họ đã đạt tới một trật tự xã hội công bình. Giờ đây, ta không thể chối cãi rằng trong số các nền thần học giải phóng khác nhau, thực sự có những nền có cái nhìn rất thông sáng. Tuy nhiên, mọi kế hoạch nhằm một tổng hợp có tính tạo thời thế giữa Kitô Giáo và thế giới phải bị gạt qua một bên lúc niềm tin coi chính trị như một sức mạnh cứu rỗi bị sụp đổ.
Thực vậy, như Arítốt từng nói, con người là một “hữu thể chính trị” nhưng không thể giản lược họ vào chính trị và kinh tế. Tôi thấy các nền thần học giải phóng có vấn đề thực sự và rất sâu xa ở chỗ họ thực sự bỏ sót ý niệm Thiên Chúa, một việc lẽ dĩ nhiên cũng thay đổi dung mạo Chúa Kitô một cách triệt để (như chúng ta đã chỉ ra). Không phải như thể Thiên Chúa bị bác bỏ, không đời nào! Nhưng chỉ là vì Người không được cần đến khi nói tới “thực tại” mà nhân loại đang phải đối phó. Thiên Chúa không liên quan gì tới việc này cả.
Ta ngỡ ngàng về điểm này và bỗng tự hỏi: phải chăng đây là trường hợp chỉ có trong thần học giải phóng? Hay lý thuyết này sở dĩ có thể đạt tới một lượng định như thế về vấn đề Thiên Chúa, một vấn đề không thực tế chút nào đối với việc hằng mong chờ là thay đổi thế giới, chỉ vì thế giới Kitô Giáo cũng nghĩ như thế, hay đúng hơn, cũng sống như thế, không suy tư về nó hay không hề lưu ý tới nó? Há ý thức Kitô Giáo đã không thuận tình một cách đáng kể, dù không để ý, với thái độ cho rằng đức tin vào Thiên Chúa là một điều chủ quan, thuộc lãnh vực riêng tư chứ không thuộc sinh hoạt chung của cuộc sống công cộng, là nơi, để có thể sống hoà hợp với người khác, tất cả chúng ta phải cư xử etsi Deus non daretur (như thể không còn Thiên Chúa nữa)? Há không cần thiết hay sao phải tìm ra cách có giá trị khác trong trường hợp Thiên Chúa quả không hiện hữu? Và, thực sự, chuyện này sẽ tự động xẩy ra: khi đức tin rời khỏi nội thẳm thánh thiêng của các vấn đề thuộc Giáo Hội để bước vào nơi công chúng nói chung, thì Thiên Chúa chả còn chi để làm và do đó nên để Người ở nơi Người vốn ở: tức lãnh vực riêng tư, trong phạm vi thân thiết chẳng liên quan tới bất cứ ai khác. Người ta không cần phải lãng quên một cách đặc biệt, và chắc chắn không cần phải cố ý bác bỏ mới có thể để Thiên Chúa như một Thiên Chúa không có gì để làm, nhất là vì Danh Người thường rất hay bị lạm dụng. Đức tin đáng lẽ đã ra khỏi chỗ cô lập nếu nó chịu mang theo mình vào khu vực công cộng đặc điểm rõ nét nhất của nó: tức Đấng Thiên Chúa phán xét và đau khổ, Đấng Thiên Chúa định giới hạn và tiêu chuẩn cho ta; Đấng Thiên Chúa mà từ Người chúng ta phát xuất và hướng về Người chúng ta đang đi tới. Nhưng, thực sự, cũng như trước, nó vẫn tiếp tục ở lại trong khu cô lập, cho tới nay tuyệt đối vẫn không có gì để làm.
Ấy thế nhưng Thiên Chúa vẫn là Đấng “thực tiễn”, chứ không phải là kết luận lý thuyết của một thế giới quan nhằm thoa dịu mà ta có thể tin theo hay đơn giản bác bỏ. Hiện nay, ta thấy điều sau tại bất cứ nơi nào mà việc cố ý bác bỏ Người đã trở thành nguyên tắc và người ta không còn tìm cách giảm nhẹ việc Người vắng bóng nữa. Vì thứ nhất, khi Thiên Chúa bị lấy ra khỏi bức tranh, thì mọi sự xem ra vẫn tiếp tục như cũ. Các quyết định chín chắn và các cơ cấu căn bản của cuộc đời vẫn y nguyên, dù chúng đã mất hết nền tảng. Nhưng như Nietzsche từng mô tả, một khi tin tức “Thiên Chúa đã chết” thực sự đến tai người ta và họ lưu tâm tới việc này, thì mọi sự sẽ thay đổi. Ngày nay, điều này đã được minh chứng, một đàng, trong cung cách khoa học xử lý sự sống con người: con người đang trở thành một đối vật kỹ thuật trong khi càng ngày càng biến mất như một chủ thể nhân bản, và một mình họ phải chịu trách nhiệm về việc này. Khi bào thai người được “cấy” một cách nhân tạo để có được “chất liệu cho nghiên cứu” và kho cung cấp các bộ phận, hai việc mà sau đó được coi là có ích cho những con người nhân bản khác, nào có ai phản đối đâu, vì rất ít người khiếp đảm vì chúng nữa. Tiến bộ đòi hỏi những điều như thế, và chúng thực sự là những mục đích cao thượng: thăng tiến phẩm chất sự sống, ít là đối với những ai có khả năng tài chánh có thể sử dụng được các dịch vụ này. Nhưng nếu từ nguồn cội và gốc rễ của mình, con người chỉ là một đối vật cho chính mình, nếu họ “được sản xuất” ra và phát xuất từ đường dây sản xuất với những đặc điểm và phụ tùng được lựa lọc, thì, ở trên đời này, con người sẽ nghĩ về con người ra sao? Họ nên cư xử với mình thế nào? Thái độ của con người đối với con người sẽ ra sao, khi họ không thể tìm được điều gì có tính huyền nhiệm thần linh nơi người khác, mà chỉ là kiến thức kỹ thuật? Điều xẩy ra trong phạm vi “kỹ thuật cao” của khoa học đang được phản ảnh rõ ở bất cứ chỗ nào văn hóa nói chung thành công dứt bỏ được Thiên Chúa ra khỏi trái tim con người. Ngày nay, có những nơi việc buôn bán người đã diễn ra công khai: quả là một việc tiêu thụ người đầy ích kỷ trong khi xã hội đứng nhìn vô vọng. Tội ác có tổ chức, chẳng hạn, đã không ngừng đem phụ nữ ra khỏi Albania dưới nhiều chiêu bài khác nhau rồi gửi họ tới đất liền bên kia đại dương làm gái điếm, và bởi vì có đủ những kẻ ích kỷ ở đó chờ đợi thứ “hàng hóa” này, nên càng ngày tội ác có tổ chức càng quyền thế hơn, và những ai cố gắng chặn đứng nó đều chỉ nhận ra rằng con quái xà (hydra) tội ác này cứ thế mọc ra đầu mới, bất kể người ta cắt mất bao nhiêu chiếc đầu của nó. Và há ta đã không thấy khắp nơi chung quanh ta, ngay tại các khu xóm có vẻ thanh bình của ta, sự gia tăng bạo lực, một thứ bạo lực càng ngày càng được coi như chuyện tự nhiên và do đó, mỗi ngày mỗi trở nên liều lĩnh hơn? Tôi không muốn khai triển thêm nữa cảnh tượng hãi hùng này. Nhưng ta hẳn thắc mắc liệu Thiên Chúa có thực là một thực tại chân chính, một tiên quyết căn bản cho mọi “thực tại” đến nỗi không có Người, không điều gì được an toàn hay không.
Ta hãy trở lại với dòng phát triển lịch sử từ năm 1967. Năm 1989, như tôi đã nói trên đây, không mang theo nó giải đáp mới nào, mà đúng hơn đã chỉ càng làm sâu thêm sự bối rối chung, khiến người ta càng hoài nghi hơn nữa các lý tưởng cao xa. Tuy nhiên, một điều gì đó quả đã xẩy ra. Tôn giáo trở thành hiện đại một lần nữa. Người ta không còn dự phóng nó sẽ mất dạng nữa; trái lại, nhiều hình thức tôn giáo mới mọc ra xum xuê. Trong cõi đơn côi nặng như chì của một thế giới từ bỏ Thiên Chúa, trong cái buồn chán bên trong của nó, việc tìm kiếm huyền nhiệm, tìm kiếm bất cứ loại tiếp xúc nào với đấng linh thiêng, bỗng trổ sinh như mới. Khắp mọi nơi, người ta nói tới thị kiến và sứ điệp từ thế giới bên kia, và bất cứ nơi nào có tường trình hiện ra, thì cả hàng ngàn người đổ xô du lịch tới đó, để họa may khám phá được đường nứt nào đó trên thế giới chăng, qua đó trời có thể nhìn xuống và gửi an ủi đến cho họ. Nhiều người than phiền rằng cuộc tìm kiếm tôn giáo mới mẻ này phần lớn đã qua mặt các Giáo Hội Kitô Giáo cổ truyền. Định chế luôn bất tiện và tín điều là một chuyện phiền toái. Điều người ta tìm là một trải nghiệm, một cuộc gặp gỡ với Đấng Tuyệt Đối Khác kia. Tôi không thể nói: tôi hoàn toàn nhất trí với lời than phiền này. Tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới, như ngày gần đây tại Paris, đức tin quả đã trở thành một trải nghiệm và đem lại niềm vui hiệp thông. Một điều gì ngây ngất, theo nghĩa tốt, được giao cảm. Thứ ngây ngất đầy phiền muộn và phá hoại của ma túy, của nhịp nhạc như búa giáng, của náo động, của nghiện ngập đã chạm chán với thứ ngây ngất rạng rỡ của ánh sáng, của gặp gỡ hân hoan trong ánh nắng chan hòa của Thiên Chúa. Đừng ai cho rằng đây chỉ là chuyện thoáng qua. Đã đành, đôi khi là như thế thật. Nhưng nó cũng có thể là thời khắc có thể đem lại một thay đổi lâu dài và khởi diễn cho một hành trình. Những việc tương tự như thế từng xẩy tới cho nhiều phong trào giáo dân vốn xuất hiện trong ít thập niên qua. Ở đây cũng thế, đức tin đã trở thành một hình thức trải nghiệm sống, trở thành niềm vui được khởi diễn một cuộc lữ hành và được tham dự vào mầu nhiệm men bột đang thấm nhiểm trọn khối quần chúng ngay từ bên trong và đổi mới họ. Nhiên hậu, miễn có cội nguồn lành mạnh, ngay các nơi hiện ra cũng có thể là những động viên lên đường lại để tìm kiếm Thiên Chúa một cách tỉnh táo. Dĩ nhiên, bất cứ ai trông mong Kitô Giáo ngày nay trở thành một phong trào đại chúng đều sẽ thất vọng. Vì các phong trào đại chúng không mang theo chúng lời hứa hẹn của tương lai. Tương lai chỉ được tạo ra bất cứ nơi nào con người tìm được đường dẫn tới nhau trong các xác tín làm khuôn cho cuộc sống. Và một tương lai tốt đẹp sẽ lớn lên bất cứ nơi nào các xác tín này phát xuất từ sự thật và dẫn tới sự thật.
______________________________________________________________________________________________________________
(1) Karl Rahner, Joseph Ratzinger và Vatican II, Vũ Văn An, Vietcatholic.net 11/28/2013
(2) Bản tiếng Việt của Nguyễn Luật Khoa, OFM, Nhà XB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, 2009
Còn 1 kỳ
Cuốn sách nói lên những điểm căn bản trong tư duy liên tục của ngài đến nỗi năm 2000, hơn 30 năm sau, với biết bao thăng trầm thật đáng kể trong lịch sử gần đây, khi cho tái bản, ngài đã giữ nguyên nội dung của nó. Để hiểu hậu cảnh của việc giữ nguyên này, ta nên đọc lại lời nói đầu cho lần tái bản năm 2000 do chính ngài viết.
Hơn ba mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày tác phẩm này được xuất bản lần đầu, trong khi ấy, lịch sử thế giới đã diễn biến rất nhanh. Nhìn trở lui, hai năm được xem như những cột mốc đặc biệt quan trọng trong hai thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ sắp kết thúc là năm 1968 và năm 1989. Năm1968 đánh dấu cuộc nổi loạn của một thế hệ mới; thế hệ này không những coi việc tái thiết hậu chiến ở Âu Châu không thỏa đáng, đầy bất công, đầy vị kỷ và tham lam, mà còn cho rằng trọn bộ dòng lịch sử từ thời Kitô Giáo chiến thắng tới lúc đó hoàn toàn là một sai lầm và thất bại. Những người trẻ này muốn cải thiện sự việc để đem lại tự do, bình đẳng và công bằng, và họ xác tín rằng trong chính dòng tư duy Mácxít, họ đã tìm được phương cách làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Năm 1989 đem lại sự sụp đổ đầy ngạc nhiên cho các chế độ xã hội chủ nghĩa tại Âu Châu, để lại phía sau cả một di sản đáng buồn gồm những lãnh thổ và những tâm hồn tan nát. Bất cứ ai hy vọng rằng thời khắc đã đến đối với với sứ điệp Kitô Giáo đều đã thất vọng. Dù con số tín hữu Kitô khắp thế giới không nhỏ, nhưng Kitô Giáo quả đã thất bại ngay vào thời khắc lịch sử ấy trong việc làm cho mình được lắng nghe như một giải pháp thay thế tạo thời thế. Xét trong căn bản, lý thuyết cứu rỗi của Mác (dĩ nhiên dưới nhiều sắc thái được đạo diễn khác nhau) đã đưa ra một chủ trương coi mình như người hướng dẫn tương lai duy nhất được đạo dức thúc đẩy, một hướng dẫn đồng thời cũng nhất quán với thế giới quan khoa học. Bởi thế, thậm chí sau cú sốc năm 1989, nó vẫn không chịu thoái lui. Ta chỉ cần nhớ người ta ít nói xiết bao tới nỗi kinh hoàng của các quần đảo (gulac) Cộng Sản, tiếng nói của Solzhenitsyn vẫn bị cô lập như thế nào: không ai đề cập tới những chuyện này nữa. Có một nỗi xấu hổ nào đó ngăn cản họ; thậm chí cả chế độ sát nhân của Pol Pot cũng chỉ thỉnh thoảng được nhắc đến qua loa. Tuy nhiên, người ta vẫn thất vọng và bối rối tận cùng. Họ không còn tin tưởng gì vào các lời hứa hẹn tinh thần lớn lao, và dù sao, đây cũng là điều chủ nghĩa Mác nghĩ mình là. Nó muốn đòi công lý cho mọi người, đòi hòa bình, đòi triệt hạ các tương quan chủ tớ bất công, và vân vân. Chủ nghĩa Mác tin rằng nó phải tạm thời miễn trừ các nguyên tắc đạo đức và tự cho phép mình sử dụng khủng bố như phương tiện lành mạnh để đạt các mục tiêu cao thượng kia. Khi các hậu quả tàn bạo về nhân bản trở thành rõ rệt, những nhà ý thức hệ trước đây thích rút về chủ trương thực tiễn, nếu không họ cũng tuyên bố công khai là mình khinh bỉ đạo đức. Ta có thể nhận ra một điển hình thảm hại của điều này tại Colombia, nơi người ta từng khởi diễn một chiến dịch, thoạt đầu dưới biểu ngữ Mácxít, nhằm giải phóng các tiểu nông gia từng bị các cơ sở tài chánh giầu có chà đạp. Nhưng ngày nay, thay vào đó, người ta đã khai trương ra một nền cộng hòa phản loạn, vượt quyền kiểm soát của chính phủ, và hoàn toàn công khai lệ thuộc việc buôn bán ma túy và không còn theo đuổi bất cứ sự biện minh luân lý nào cho việc ấy nữa, nhất là vì nó lại thỏa mãn đòi hỏi của các nước giầu có, đồng thời cung cấp được cơm bánh cho những người chả còn trông mong gì nơi nền kinh tế thế giới. Trong tình thế bối rối ấy, há Kitô Giáo lại không nên cố gắng một cách hết sức nghiêm chỉnh để khám phá lại chính tiếng nói của mình, ngõ hầu “dẫn nhập” tân thiên niên kỷ vào sứ điệp của mình, và làm sứ điệp này trở thành dễ hiểu như một hướng dẫn tổng quát cho tương lai?
Dù sao, vào lúc đó, tiếng nói của đức tin Kitô Giáo đang ở đâu? Năm 1967, khi cuốn sách này đang được trước tác, việc lên men giai đoạn đầu tiên của thời hậu công đồng đã bước vào đà hết sức sôi động. Một cách chính xác, Công Đồng Vatican II có dự tính như sau: đem lại cho Kitô Giáo một lần nữa sức mạnh có thể lên khuôn lịch sử. Thế kỷ mười chín từng tạo ra ý tưởng cho rằng tôn giáo thuộc lãnh vực chủ quan, riêng tư và nên nằm ở chỗ đó. Nhưng chính vì nó được phạm trù hóa như một một điều gì chủ quan, nên nó không thể là yếu tố xác định trong toàn bộ dòng lịch sử nói chung và trong các quyết định có tính thời đại cần đưa ra như thành phần của lịch sử này. Giờ đây, tiếp theo công đồng, người ta giả thiết rằng, điều trở nên hiển nhiên một lần nữa là đức Tin Kitô Giáo phải bao hàm trọn cuộc sống, nó phải hiện diện giữa lòng lịch sử và thời gian và liên hệ tới quá bên kia lãnh vực ý niệm chủ quan. Ít nhất theo quan điểm Giáo Hội Công Giáo, Kitô Giáo đang cố gắng một lần nữa thoát ra khỏi sự cô lập (ghetto), một thứ cô lập nó buộc phải lui vào từ thế kỷ mười chín, để tái can dự vào thế sự nói chung. Ở đây, chúng ta không cần thảo luận các tranh luận và chạm trán trong nội bộ Giáo Hội từng nổi lên xung quanh việc giải thích và hấp thụ công đồng. Vào thời gian này, vấn đề chính ảnh hưởng tới địa vị Kitô Giáo là quan điểm về mối liên hệ mới giữa Giáo Hội và thế giới. Mặc dù Romano Guardini, từ thập niên 1930, đã tạo ra kiểu nói Unterscheidung des Christlichen [phân biệt điều gì là Kitô Giáo], một vấn đề cực kỳ cần thiết vào lúc đó, nhưng những phân biệt như thế nay không còn quan trọng nữa; trái lại, tinh thần thời đại đòi ta phải vượt qua biên giới, vươn tay ra với thế giới, và dấn thân trong đó. Nhìn vào những hàng rào cản tại Paris năm 1968, người ta đã chứng minh được rằng các ý tưởng vừa kể phát xuất mau chóng ra sao trong các cuộc thảo luận có tính khoa bảng của người trong Giáo Hội và được áp dụng một cách rất thực tiễn như thế nào: một Thánh Thể cách mạng đã được cử hành tại đó, nhờ thế, đã đem vào thực hành một hòa nhịp mới của cả Giáo Hội và Thế Giới dưới biểu ngữ cách mạng là đem bình minh lại cho một thời đại tốt đẹp hơn. Vai trò lãnh đạo của các nhóm sinh viên Công Giáo và Thệ Phản trong các cuộc nổi dậy có tính cách mạng tại các đại học ở Âu Châu cũng như tại các nơi khác đã xác nhận xu hướng này.
Việc diễn dịch mới mẻ các ý niệm này thành hành động, sự hòa nhịp mới các thúc đẩy của Kitô Giáo với các hoạt động thế tục và chính trị được coi như một ánh chớp; tuy nhiên, những đám cháy được nó thực sự tạo nên lại xẩy ra tại Châu Mỹ La Tinh. Trong hơn một thập niên, nền thần học giải phóng dường như đã chỉ ra được một con đường nhờ đó đức tin có thể lên khuôn lại cho thế giới, nhờ đã tạo được một chính nghĩa chung với các phát kiến và sự khôn ngoan thế tục của thời đại. Không ai tranh cãi sự kiện này: ở Châu Mỹ La Tinh, đã có những sự kiện hết sức kinh hoàng như áp chế, cai trị bất chính nghĩa, tập trung tài sản và quyền hành trong tay một thiểu số, và bóc lột người nghèo, và cũng không ai tranh cãi việc cần phải làm một điều gì đó. Và vì đây là vấn đề của các quốc gia đa số dân là Công Giáo, nên hiển nhiên Giáo Hội có trách nhiệm ở đây và đức tin phải tự chứng tỏ mình là sức mạnh dành công lý. Nhưng dành cách nào? Thế là Mác xuất hiện như một sách giáo khoa vĩ đại. Người ta bảo hiện giờ ông đóng cùng một vai trò như vai trò từng rơi xuống vai Arítốt vào thế kỷ mười ba; nền triết học tiền Kitô Giáo (hay “ngoại đạo”) của người vừa kể cần được rửa tội mới đem đức tin và lý trí vào một tương quan thích đáng đối với nhau. Nhưng bất cứ ai chấp nhận Mác (trong bất cứ sắc thái tân Mácxít nào) làm đại biểu cho lý trí trần thế, cũng đều không những chấp nhận một triết lý, một viễn kiến về cội nguồn và ý nghĩa hiện sinh, mà còn và đặc biệt còn chấp nhận luôn một chương trình thực tiễn. Bởi vì “triết lý” này, trong yếu tính, vốn là một “lý thuyết thực hành” (praxis), một lý thuyết không tiền giả thiết một “chân lý” nào mà muốn tạo ra chúng. Bất cứ ai muốn biến Mác thành triết gia của thần học đều chấp nhận tính tối thượng của chính trị và kinh tế, những điều hiện đã trở thành quyền lực thực sự có thể đem lại sự cứu rỗi (và nếu bị lạm dụng, có thể mang tới tai họa). Theo lối suy nghĩ này, sự cứu rỗi của nhân loại xẩy ra nhờ chính trị và kinh tế, trong đó hình thức tương lai được xác định. Tính tối thượng của lý thuyết thực hành và chính trị này, trước nhất, có nghĩa: Thiên Chúa không thể bị phạm trù hóa như một điều “thực tiễn”. “Thực tại” mà người ta phải can dự vào lúc này chỉ là thực tại vật chất của những hoàn cảnh lịch sử nhất định, là những hoàn cảnh cần được nhìn một cách có phê phán và được cải cách, được qui hướng về các mục tiêu đúng đắn bằng cách sử dụng các phương thế thích đáng. Trong số các phương thế này, bạo lực là điều không thể miễn chước. Theo viễn ảnh này, việc nói về Thiên Chúa không thuộc cả lãnh vực thực tiễn lẫn lãnh vực thực tại nữa. Nếu cần phải khoan dung việc này, thì nên triển hạn nó cho tới khi công việc quan trọng hơn đã được làm xong. Điều còn phải bàn, là khuôn mạo Chúa Giêsu, Đấng vào lúc này dĩ nhiên không được xuất hiện như Đấng Kitô, mà đúng hơn như hiện thân của mọi con người đau khổ và bị áp bức và như phát ngôn viên của họ. Người kêu gọi ta đứng lên, thay đổi xã hội. Trong tất cả những điều này, điều mới lạ là chương trình thay đổi thế giới, một chương trình theo Mác vốn có xu hướng không những vô thần mà còn phản tôn giáo nữa, nay tràn ngập lòng say mê tôn giáo và được xây dựng trên các nguyên tắc tôn giáo: một cách đọc Thánh Kinh mới (nhất là Cựu Ước) và một phụng vụ mới được cử hành như một thành tựu tượng trưng của cách mạng và như một chuẩn bị cho cuộc cách mạng ấy.
Phải thừa nhận rằng nhờ cuộc tổng hợp đáng lưu ý này, Kitô Giáo đã một lần nữa bước vào vũ đài thế giới và trở thành một sứ điệp “tạo thời thế”. Không lạ gì các nhà nước xã hội chủ nghĩa rất ủng hộ phong trào này. Điều đáng lưu ý hơn nữa là sự kiện này: ngay tại các quốc gia “tư bản chủ nghĩa” thần học giải phóng cũng là cục cưng của công luận: nói ngược lại nó bị tích cực coi như một tội lỗi chống lại nhân tính và nhân loại, dù lẽ dĩ nhiên không ai muốn thấy các biện pháp thực tiễn được áp dụng vào hoàn cảnh riêng của mình, vì hiển nhiên họ đã đạt tới một trật tự xã hội công bình. Giờ đây, ta không thể chối cãi rằng trong số các nền thần học giải phóng khác nhau, thực sự có những nền có cái nhìn rất thông sáng. Tuy nhiên, mọi kế hoạch nhằm một tổng hợp có tính tạo thời thế giữa Kitô Giáo và thế giới phải bị gạt qua một bên lúc niềm tin coi chính trị như một sức mạnh cứu rỗi bị sụp đổ.
Thực vậy, như Arítốt từng nói, con người là một “hữu thể chính trị” nhưng không thể giản lược họ vào chính trị và kinh tế. Tôi thấy các nền thần học giải phóng có vấn đề thực sự và rất sâu xa ở chỗ họ thực sự bỏ sót ý niệm Thiên Chúa, một việc lẽ dĩ nhiên cũng thay đổi dung mạo Chúa Kitô một cách triệt để (như chúng ta đã chỉ ra). Không phải như thể Thiên Chúa bị bác bỏ, không đời nào! Nhưng chỉ là vì Người không được cần đến khi nói tới “thực tại” mà nhân loại đang phải đối phó. Thiên Chúa không liên quan gì tới việc này cả.
Ta ngỡ ngàng về điểm này và bỗng tự hỏi: phải chăng đây là trường hợp chỉ có trong thần học giải phóng? Hay lý thuyết này sở dĩ có thể đạt tới một lượng định như thế về vấn đề Thiên Chúa, một vấn đề không thực tế chút nào đối với việc hằng mong chờ là thay đổi thế giới, chỉ vì thế giới Kitô Giáo cũng nghĩ như thế, hay đúng hơn, cũng sống như thế, không suy tư về nó hay không hề lưu ý tới nó? Há ý thức Kitô Giáo đã không thuận tình một cách đáng kể, dù không để ý, với thái độ cho rằng đức tin vào Thiên Chúa là một điều chủ quan, thuộc lãnh vực riêng tư chứ không thuộc sinh hoạt chung của cuộc sống công cộng, là nơi, để có thể sống hoà hợp với người khác, tất cả chúng ta phải cư xử etsi Deus non daretur (như thể không còn Thiên Chúa nữa)? Há không cần thiết hay sao phải tìm ra cách có giá trị khác trong trường hợp Thiên Chúa quả không hiện hữu? Và, thực sự, chuyện này sẽ tự động xẩy ra: khi đức tin rời khỏi nội thẳm thánh thiêng của các vấn đề thuộc Giáo Hội để bước vào nơi công chúng nói chung, thì Thiên Chúa chả còn chi để làm và do đó nên để Người ở nơi Người vốn ở: tức lãnh vực riêng tư, trong phạm vi thân thiết chẳng liên quan tới bất cứ ai khác. Người ta không cần phải lãng quên một cách đặc biệt, và chắc chắn không cần phải cố ý bác bỏ mới có thể để Thiên Chúa như một Thiên Chúa không có gì để làm, nhất là vì Danh Người thường rất hay bị lạm dụng. Đức tin đáng lẽ đã ra khỏi chỗ cô lập nếu nó chịu mang theo mình vào khu vực công cộng đặc điểm rõ nét nhất của nó: tức Đấng Thiên Chúa phán xét và đau khổ, Đấng Thiên Chúa định giới hạn và tiêu chuẩn cho ta; Đấng Thiên Chúa mà từ Người chúng ta phát xuất và hướng về Người chúng ta đang đi tới. Nhưng, thực sự, cũng như trước, nó vẫn tiếp tục ở lại trong khu cô lập, cho tới nay tuyệt đối vẫn không có gì để làm.
Ấy thế nhưng Thiên Chúa vẫn là Đấng “thực tiễn”, chứ không phải là kết luận lý thuyết của một thế giới quan nhằm thoa dịu mà ta có thể tin theo hay đơn giản bác bỏ. Hiện nay, ta thấy điều sau tại bất cứ nơi nào mà việc cố ý bác bỏ Người đã trở thành nguyên tắc và người ta không còn tìm cách giảm nhẹ việc Người vắng bóng nữa. Vì thứ nhất, khi Thiên Chúa bị lấy ra khỏi bức tranh, thì mọi sự xem ra vẫn tiếp tục như cũ. Các quyết định chín chắn và các cơ cấu căn bản của cuộc đời vẫn y nguyên, dù chúng đã mất hết nền tảng. Nhưng như Nietzsche từng mô tả, một khi tin tức “Thiên Chúa đã chết” thực sự đến tai người ta và họ lưu tâm tới việc này, thì mọi sự sẽ thay đổi. Ngày nay, điều này đã được minh chứng, một đàng, trong cung cách khoa học xử lý sự sống con người: con người đang trở thành một đối vật kỹ thuật trong khi càng ngày càng biến mất như một chủ thể nhân bản, và một mình họ phải chịu trách nhiệm về việc này. Khi bào thai người được “cấy” một cách nhân tạo để có được “chất liệu cho nghiên cứu” và kho cung cấp các bộ phận, hai việc mà sau đó được coi là có ích cho những con người nhân bản khác, nào có ai phản đối đâu, vì rất ít người khiếp đảm vì chúng nữa. Tiến bộ đòi hỏi những điều như thế, và chúng thực sự là những mục đích cao thượng: thăng tiến phẩm chất sự sống, ít là đối với những ai có khả năng tài chánh có thể sử dụng được các dịch vụ này. Nhưng nếu từ nguồn cội và gốc rễ của mình, con người chỉ là một đối vật cho chính mình, nếu họ “được sản xuất” ra và phát xuất từ đường dây sản xuất với những đặc điểm và phụ tùng được lựa lọc, thì, ở trên đời này, con người sẽ nghĩ về con người ra sao? Họ nên cư xử với mình thế nào? Thái độ của con người đối với con người sẽ ra sao, khi họ không thể tìm được điều gì có tính huyền nhiệm thần linh nơi người khác, mà chỉ là kiến thức kỹ thuật? Điều xẩy ra trong phạm vi “kỹ thuật cao” của khoa học đang được phản ảnh rõ ở bất cứ chỗ nào văn hóa nói chung thành công dứt bỏ được Thiên Chúa ra khỏi trái tim con người. Ngày nay, có những nơi việc buôn bán người đã diễn ra công khai: quả là một việc tiêu thụ người đầy ích kỷ trong khi xã hội đứng nhìn vô vọng. Tội ác có tổ chức, chẳng hạn, đã không ngừng đem phụ nữ ra khỏi Albania dưới nhiều chiêu bài khác nhau rồi gửi họ tới đất liền bên kia đại dương làm gái điếm, và bởi vì có đủ những kẻ ích kỷ ở đó chờ đợi thứ “hàng hóa” này, nên càng ngày tội ác có tổ chức càng quyền thế hơn, và những ai cố gắng chặn đứng nó đều chỉ nhận ra rằng con quái xà (hydra) tội ác này cứ thế mọc ra đầu mới, bất kể người ta cắt mất bao nhiêu chiếc đầu của nó. Và há ta đã không thấy khắp nơi chung quanh ta, ngay tại các khu xóm có vẻ thanh bình của ta, sự gia tăng bạo lực, một thứ bạo lực càng ngày càng được coi như chuyện tự nhiên và do đó, mỗi ngày mỗi trở nên liều lĩnh hơn? Tôi không muốn khai triển thêm nữa cảnh tượng hãi hùng này. Nhưng ta hẳn thắc mắc liệu Thiên Chúa có thực là một thực tại chân chính, một tiên quyết căn bản cho mọi “thực tại” đến nỗi không có Người, không điều gì được an toàn hay không.
Ta hãy trở lại với dòng phát triển lịch sử từ năm 1967. Năm 1989, như tôi đã nói trên đây, không mang theo nó giải đáp mới nào, mà đúng hơn đã chỉ càng làm sâu thêm sự bối rối chung, khiến người ta càng hoài nghi hơn nữa các lý tưởng cao xa. Tuy nhiên, một điều gì đó quả đã xẩy ra. Tôn giáo trở thành hiện đại một lần nữa. Người ta không còn dự phóng nó sẽ mất dạng nữa; trái lại, nhiều hình thức tôn giáo mới mọc ra xum xuê. Trong cõi đơn côi nặng như chì của một thế giới từ bỏ Thiên Chúa, trong cái buồn chán bên trong của nó, việc tìm kiếm huyền nhiệm, tìm kiếm bất cứ loại tiếp xúc nào với đấng linh thiêng, bỗng trổ sinh như mới. Khắp mọi nơi, người ta nói tới thị kiến và sứ điệp từ thế giới bên kia, và bất cứ nơi nào có tường trình hiện ra, thì cả hàng ngàn người đổ xô du lịch tới đó, để họa may khám phá được đường nứt nào đó trên thế giới chăng, qua đó trời có thể nhìn xuống và gửi an ủi đến cho họ. Nhiều người than phiền rằng cuộc tìm kiếm tôn giáo mới mẻ này phần lớn đã qua mặt các Giáo Hội Kitô Giáo cổ truyền. Định chế luôn bất tiện và tín điều là một chuyện phiền toái. Điều người ta tìm là một trải nghiệm, một cuộc gặp gỡ với Đấng Tuyệt Đối Khác kia. Tôi không thể nói: tôi hoàn toàn nhất trí với lời than phiền này. Tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới, như ngày gần đây tại Paris, đức tin quả đã trở thành một trải nghiệm và đem lại niềm vui hiệp thông. Một điều gì ngây ngất, theo nghĩa tốt, được giao cảm. Thứ ngây ngất đầy phiền muộn và phá hoại của ma túy, của nhịp nhạc như búa giáng, của náo động, của nghiện ngập đã chạm chán với thứ ngây ngất rạng rỡ của ánh sáng, của gặp gỡ hân hoan trong ánh nắng chan hòa của Thiên Chúa. Đừng ai cho rằng đây chỉ là chuyện thoáng qua. Đã đành, đôi khi là như thế thật. Nhưng nó cũng có thể là thời khắc có thể đem lại một thay đổi lâu dài và khởi diễn cho một hành trình. Những việc tương tự như thế từng xẩy tới cho nhiều phong trào giáo dân vốn xuất hiện trong ít thập niên qua. Ở đây cũng thế, đức tin đã trở thành một hình thức trải nghiệm sống, trở thành niềm vui được khởi diễn một cuộc lữ hành và được tham dự vào mầu nhiệm men bột đang thấm nhiểm trọn khối quần chúng ngay từ bên trong và đổi mới họ. Nhiên hậu, miễn có cội nguồn lành mạnh, ngay các nơi hiện ra cũng có thể là những động viên lên đường lại để tìm kiếm Thiên Chúa một cách tỉnh táo. Dĩ nhiên, bất cứ ai trông mong Kitô Giáo ngày nay trở thành một phong trào đại chúng đều sẽ thất vọng. Vì các phong trào đại chúng không mang theo chúng lời hứa hẹn của tương lai. Tương lai chỉ được tạo ra bất cứ nơi nào con người tìm được đường dẫn tới nhau trong các xác tín làm khuôn cho cuộc sống. Và một tương lai tốt đẹp sẽ lớn lên bất cứ nơi nào các xác tín này phát xuất từ sự thật và dẫn tới sự thật.
______________________________________________________________________________________________________________
(1) Karl Rahner, Joseph Ratzinger và Vatican II, Vũ Văn An, Vietcatholic.net 11/28/2013
(2) Bản tiếng Việt của Nguyễn Luật Khoa, OFM, Nhà XB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, 2009
Còn 1 kỳ