Chương mười một: Xã Hội Tạp Nham và sau đó
Vào năm 1925, một thanh niên 23 tuổi người Anh đang bơi ra biển—việc tự sát hay chỉ để giải tỏa nỗi thất vọng của mình vẫn chưa bao giờ hoàn toàn rõ ràng. Anh bị một đàn sứa cắn—khiến anh phải quay trở lại bờ. Do đó, Thiên Chúa hoặc sự sáng tạo của Người đã tha mạng cho một người đàn ông được cho là tiểu thuyết gia người Anh vĩ đại nhất của thế kỷ XX; Evelyn Waugh. Nếu Hopkins thể hiện sự nhạy cảm thi ca hiện đại đang đấu tranh với sự đau đớn và ngây ngất của cuộc sống con người, thì Waugh đưa ra một lời châm biếm giống như dùi nhọn về thế giới hiện đại nhạt nhẽo khi nó bắt đầu xuất hiện ở Anh sau Thế chiến thứ nhất. Bức chân dung của anh về thế giới đó trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên vừa tàn nhẫn vừa vui nhộn. Khi anh trở thành người Công Giáo, khoảng bốn năm sau khi toan tính tự tử, công trình của anh phần nào chuyển sang các chủ đề phong phú hơn. Nhưng trong suốt sự nghiệp của mình, hầu như mọi thứ Waugh viết đều có sự kết hợp bất thường giữa lòng căm thù và tình yêu. Trong những năm đầu đời, anh được gia đình biết đến như một đứa trẻ đặc biệt hay châm biếm. Nhưng cũng trong những năm đó, anh sớm bị thu hút bởi nghi lễ tôn giáo, thậm chí còn diễn lại các nghi lễ cao cấp của Anh giáo tại nhà. Có lẽ không quá mạnh khi gợi ý rằng sau mưu toan tự tử thậm chí anh còn là anh hơn nữa: với một số khả năng châm chích đặc biệt của riêng anh, như những cuốn tiểu thuyết đầu tiên chứng thực, nhưng cũng với khuynh hướng ngày càng tăng đối với Kitô giáo — và Công Giáo, mà anh đã quyết định từ khá sớm là Kitô giáo thực sự duy nhất còn lại.
Waugh và người bạn lâu năm của ông, Graham Greene, là những tiểu thuyết gia Công Giáo đầu tiên ở Anh thực sự đề cập đến thế giới xã hội hiện đại, thế giới xuất hiện ở Anh và những nơi khác sau thảm họa của Thế chiến thứ nhất. Ngược lại, Chesterton và Belloc là sản phẩm của một thời đại xa xưa hơn. Vào thời điểm Đại chiến kết thúc, cả hai đều đã ngoài bốn mươi và đã hình thành những cuộc tranh cãi đang bắt đầu thay đổi thành một điều gì đó hoàn toàn khác. Nước Anh theo chủ nghĩa khoái lạc cuồng nhiệt của “Những điều trẻ trung tươi sáng” sau chiến tranh và sự hỗn loạn sau sự rút lui của trật tự Kitô giáo phương Tây đã tạo thành chủ đề cho các tiểu thuyết đầu tiên của Waugh. Decline and Fall {Suy thíai và Sụp đổ] (1927) và Vile Bodies [những thân xác kinh tởm] (1930) nói riêng là một trong những đại diện vui nhộn và sáng tạo nhất về “xã hội tạp nham” (1) của thế giới hiện đại. Waugh mang đến một nguồn năng lực chóng mặt, liều lĩnh cho những câu truyện này. Tên của các nhân vật là nét thiên tài hài kịch: Lady Metroland, the Countess of Circumference, Mrs. Blackwater, Mr. Outrage, Fanny Throbbing, Alastair Digby-Vaine-Trumpington, gia đình Chasm, Sir Humphrey Maltravers, Miles Malpractice, Miss Runcible, Mrs. Melrose Ape (một nhà truyền giảng Tin Mừng nữa từng viết bài thánh ca nổi tiếng “There Ain’t No Flies on the Lamb of God”) [không có con ruồi nào trên Chiên Thiên Chúa]) và v.v... Ở những tay kém cỏi hơn, kiểu châm biếm này có thể sớm nhạt đi. Nhưng Waugh có khiếu châm biếm không hề nhẹ của P. G. Wodehouse - người mà anh vô cùng ngưỡng mộ - và một điều gì đó nghiêm túc hơn bên cạnh đó.
Mặt nghiêm túc hơn là một loại kỳ lạ trong văn học Công Giáo thế kỷ XX. Nhiều người trở lại đạo đến với Giáo Hội vì một số khủng hoảng bản thân, một số ít do cảm thức về trật tự văn minh mà Belloc và Chesterton thấy đã biến mất cùng với đức tin. Waugh khá khác thường ở chỗ ý thức của anh về sự phi lý của thế giới hiện đại dường như đã có ngay từ đầu — rất lâu trước khi anh thực hiện bất cứ bước ngoặt nghiêm túc nào đối với tôn giáo, bất chấp sự hấp dẫn của tuổi trẻ đối với nghi lễ Kitô giáo. Thật vậy, có lẽ chưa bao giờ có sự kết hợp kỳ lạ như vậy giữa tình yêu trật tự và cái đẹp cùng với sự lột xác tàn nhẫn của sự hỗn loạn bên ngoài trong tất cả các tác phẩm văn học. Nhưng như Graham Greene đã quan sát một cách xuất sắc, sự châm biếm của Waugh là mặt trái của Chủ nghĩa lãng mạn của anh. Anh vô cùng thất vọng trước những gì anh thấy là xã hội Anh vào thời của anh — một xã hội mà ít nhất khi còn trẻ, anh cũng là một phần của nó — và một loại tình yêu thất vọng ẩn sau sự châm biếm man rợ. Điều tương tự cũng phần lớn đúng với tường thuật của Waugh về đời sống quân ngũ, một định chế nữa tỏ ra khác xa với những gì anh đã trải qua trong Thế chiến thứ hai. Câu chuyện hài hước mà anh cung cấp trong Sword of Honor[lưỡi gươm danh dự], một cuốn tiểu thuyết gồm ba phần có thể thực sự là tác phẩm vĩ đại nhất của anh, theo cách của nó, là lời than thở về việc thiếu phong cách hiệp sĩ và sự hy sinh mà các chiến binh, với khả năng tốt nhất của họ, có thể hiện thân.
Giống như Chesterton, Waugh bắt đầu muốn trở thành một họa sĩ. Charles Ryder, người kể chuyện trong cuốn tiểu thuyết Công Giáo vĩ đại sau này của Waugh, Brideshead Revisited [thăm lại Brideshead],—không phải ngẫu nhiên—cũng là một họa sĩ. Cha của Waugh là giám đốc của một nhà xuất bản, vì vậy cậu bé Waugh đã quen thuộc với các nhân vật văn học và nghệ thuật ngay từ đầu. Sự nghiệp hội họa chưa bao giờ thực sự thành công, nhưng đôi khi - có thể là ở Oxford - Waugh đã yêu thích phong trào Pre-Raphael và các họa sĩ người Anh thuộc phong trào này. Cuốn sách đầu tiên của anh là một nghiên cứu về Dante Gabriel Rossetti, một nhà thơ nổi tiếng, dịch giả của Dante, và là một trong những ánh sáng hàng đầu trong số những người Pre-Raphael. Điều quan trọng là thị hiếu của Waugh chạy theo hướng đó hơn là hướng tới chủ nghĩa duy hiện đại trong hội họa mà lúc bấy giờ đang thịnh hành ở khắp mọi nơi. Ở Waugh, không bao giờ có cảm giác—như ở một số tác giả Công Giáo khác—rằng việc quay về với quá khứ và với Giáo hội chỉ đơn thuần là một cuộc chạy trốn khỏi hiện đại. Thị hiếu và khả năng phê bình của anh dường như đã được kết hợp ngay từ đầu: thế giới hiện đại không đưa anh đến với những người Pre-Raphael. Những bức tranh sơn dầu của họ đơn thuần, rõ ràng là tốt hơn những gì hiện đang được cung cấp. Và theo cách tương tự, anh nhìn rõ và có thể vẽ những bức chân dung sắc nét về những năm 1920 tràn đầy năng lực nhưng trống rỗng.
Decline and Fall, cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, kể về câu chuyện của Paul Pennyfeather, một sinh viên thần học Oxford bị bạn bè lột quần trong một lần uống rượu và bị đuổi khỏi trường đại học. Buộc phải tự nuôi sống bản thân, anh nhận một công việc — như chính Waugh đã làm sau khi rời Oxford — tại một trường dự bị nam sinh ở Wales, có tên gọi là Lâu đài Llanabba. (Đó là sau thất bại của Waugh trong công việc tuyệt vọng này và sau lời hứa về một công việc của C. K. Scott Moncrieff, dịch giả nổi tiếng của Proust và là người trở lại đạo Công Giáo, đã khiến Waugh có thể đã toan tự tử.) Các giáo viên đồng nghiệp của Pennyfeather là tập hợp của những con chim kỳ quặc, và toàn bộ dàn nhân vật là một tập hợp những kẻ mập mờ độc ác. Nữ hiệu trưởng, bà Beste-Chetwynde (sau này là Lady Metroland), người mà Paul đem lòng yêu thương, là một tú bà có một tổ chức gái mại dâm lớn và có lãi ở Nam Mỹ. Paul vào tù thay cho bà ta, bằng cách giả làm anh họ của bà, trước khi trở lại Oxford nơi anh theo đuổi việc nghiên cứu về Kitô giáo một lần nữa với sự ưu tiên quyết định dành cho những nhân vật ban đầu có thái độ nghiêm khắc nhất đối với những sai lệch ít nhất so với chính thống. Cuốn sách này là một thành công lớn về mặt phê bình, mặc dù Chesterton - người sau này có ảnh hưởng rất lớn đến Waugh qua cuốn Everlasting Man [Người đàn ông bất diệt] - đã viết một bài phê bình gay gắt, có lẽ không hiểu rằng đó thực sự là một tác phẩm châm biếm chống lại một hình thức xã hội mới của Anh mà ông không tiếp xúc.
Trong số những cảnh ồn ào khác nhau, có một cảnh trong đó một đại tá quân đội đã nghỉ hưu tên Grimes, để kiếm sống qua ngày, phải dạy dỗ các cậu bé, nhận được một lá thư có thể giúp ông thoát khỏi cảnh khốn cùng. Chủ một nhà máy bia địa phương viết cho ông:
Chúng tôi thuê một số du khách nào đó đi vòng quanh các nhà trọ và khách sạn khác nhau để nếm thử bia và bảo đảm rằng nó không bị pha loãng hoặc tạp nhiễm dưới bất cứ hình thức nào. Du khách nhỏ tuổi của chúng tôi, một người bạn của tôi từ Cambridge, vừa mới phát triển chứng run rẩy vì rượu (D.T.= delirium tremens) và đã phải bị đình chỉ. Lương hai trăm một năm kèm tiền xe cộ đi lại. Điều này có thu hút bạn chút nào không? Nếu vậy, bạn sẽ cho tôi biết trong vài ngày tới. Trân trọng.
Grimes quay sang Paul: “Công việc của riêng Thiên Chúa, còn của tôi là cầu xin!” (2) Nhưng giống như tất cả các nhân vật khác, ông bị hoàn cảnh trước đó ngăn cản không thoát khỏi tình trạng xuống dốc hiện tại. Không có gì ngạc nhiên khi hết trang này đến trang khác của loại phát minh này đã thuyết phục được vô số nhà phê bình rằng đây là một tài năng văn học mới xuất hiện.
Nhưng Waugh thực sự trở thành của riêng mình với cuốn tiếp theo, cuốn tiểu thuyết Vile Bodies. Trong tất cả các tác phẩm văn học, chưa bao giờ có một tác phẩm châm biếm nào dài hơn thế về cơn lốc xã hội. Nó bắt đầu với việc hầu hết các nhân vật chính băng qua Eo Biển Anh gây nôn mửa - một hình ảnh rõ ràng về sự bất ổn đang chao đảo ở nước Anh của nhóm Bright Young Things [Những điều tươi sáng trẻ trung]. Và nó kết thúc với một cuộc đua ô tô hỗn loạn, trong đó chính máy móc của những chiếc xe đua và vòng đua đầy nguy hiểm—đổ vỡ và chấn thương ở khắp mọi nơi—cho thấy cả một xã hội đang sử dụng một thành tựu kỹ thuật không có mục đích thực sự mà có lẽ đang thực sự đưa loài người xuống mương rãnh. Một số mương rãnh, thực sự. Do một sự hiểu lầm hài hước, Agatha Runcible say xỉn trở thành tài xế thay thế trong Toa 13 kém may mắn. Cô đẩy những người lái xe nghiêm chỉnh ra khỏi đường chạy và lao vào một vụ tai nạn ở một thị trấn cách xa hàng dặm—cũng như phải vào một bệnh viện tâm thần, nơi cô lặp đi lặp lại cho mình trong nỗi kinh hoàng, "Nhanh hơn, nhanh hơn".
Tất nhiên, còn nhiều điều khác vui nhộn một cách đơn giản và thẳng thừng. “Cốt truyện” chính, nếu cuốn sách có thể nói là có, là nỗ lực của Adam Fenwick-Symes - một nhà quý tộc, nhưng cũng là một nhà báo hay tán láo như một số bạn bè của ông ta - để kiếm đủ tiền cưới cô Nina Blount, một người phụ nữ nhẹ dạ giống ông ta. Trong nửa sau của câu chuyện, cô đột ngột từ bỏ Adam để đến với một người bạn thời thơ ấu, người đã kiếm được rất nhiều tiền ở nước ngoài. Họ có một mối tình chóng vánh, rồi kết hôn, rồi đáp “máy bay” đi hưởng tuần trăng mật:
Ginger nhìn ra ngoài máy bay và hét lên: “Nina, anh muốn hỏi khi em còn nhỏ, em có bao giờ phải học một điều gì đó từ một tập thơ về: 'Hòn đảo vương trượng này, trái đất uy nghi này, một điều gì đó hoặc Eden khác '? Em có biết ý anh là gì không? ‘giống người hạnh phúc này, thế giới nhỏ bé này, viên đá quý này được đặt trong biển bạc. (3)
Nàng mơ hồ nhớ rằng nó xảy ra trong một vở kịch mà nàng từng đóng: “Chà, có thể họ đã đưa nó vào một vở kịch kể từ đó. Nó ở trong một tập thơ màu xanh khi em biết nó.” Vấn đề rõ ràng là hai đại diện đặc quyền này của giai cấp thượng lưu đã giữ được cảm thức di tích—nhưng rất mơ hồ—về những dòng thơ vĩ đại nhất từng viết về đất nước của họ, “This blessed plot, this Earth, this Realm, this England” [mảnh đất diễm phúc này, trái đất này, vương quốc này, Nước Anh này] mà Shakespeare đã đưa vào Richard II.
Không có bản tóm tắt ngắn gọn nào có thể truyền tải năng lực dồn dập mà Waugh đã dùng để thực hiện tác phẩm châm biếm này. Các nhà phê bình nhận thấy rằng nó trở nên sắc nét và man rợ hơn ở giữa cuốn sách bởi vì trong cuộc đời của chính mình, anh đã trải qua một điều gì đó tương tự như những gì đã xảy ra với Adam Fenwick-Symes: cuộc hôn nhân đầu tiên của ông đột ngột kết thúc khi người vợ chung sống vài năm của ông bỏ rơi ông mà không báo trước, để đi theo một người bạn khá tồi tàn. Vile Bodies cũng chứa đựng bức chân dung tàn khốc của một linh mục đầy mưu mô, Cha Rothschild, S.J., người dường như biết tất cả mọi người và mọi âm mưu đang diễn ra; ngài cũng có một số hiểu biết tâm linh sâu sắc về cuộc khủng hoảng hiện tại: “Có lẽ tất cả đều mang tính lịch sử theo một cách nào đó? Tôi không nghĩ mọi người muốn mất niềm tin vào tôn giáo hay bất cứ điều gì khác. Tôi biết rất ít người trẻ tuổi, nhưng dường như đối với tôi, tất cả họ đều bị chiếm hữu bởi một khao khát gần như chết người về sự trường tồn. Tôi nghĩ rằng tất cả những vụ ly hôn này cho thấy điều đó. Ngày nay, mọi người không hài lòng với việc loay hoay... Họ nói, 'nếu một việc không đáng làm một cách tốt đẹp, thì nó không đáng làm chút nào.' Điều đó khiến mọi sự trở nên rất khó khăn đối với họ.” (4) Nhưng nếu Waugh không chế giễu một loại linh mục nào đó vào thời điểm này, thì chính là Giáo Hội Công Giáo cuối cùng được ông hướng tới vào năm 1930, là năm trong đó Vile Bodies xuất hiện.
Giống như nhiều người trước đó, anh tìm đến Nhà thờ Phố Farm và không ai khác mà là Cha Martin D'Arcy nổi tiếng, đã để lại một ghi chép nổi bật về cách Waugh nghe lời giảng dậy. Dĩ nhiên, anh đã tự mình đọc rất nhiều về thần học và lịch sử. Cha D'Arcy nhận xét rằng Waugh đã “bắt đầu học và hiểu điều mà anh tin là sự mặc khải của Thiên Chúa, và điều này khiến cuộc nói chuyện với anh trở thành một cuộc thảo luận thú vị chủ yếu dựa trên lý trí. Bản thân tôi chưa bao giờ gặp một người trở lại đạo nào đã dựa vào sự thật một cách mạnh mẽ như vậy.... Suy nghĩ chín chắn, rõ ràng với sự trợ giúp của ân sủng đã cho anh câu trả lời mà anh đang tìm kiếm, và người ta có thể thấy hiệu quả của nó trong các tác phẩm tiếp theo của anh.” (5 ) (Khi Waugh viết Helena, cuốn tiểu thuyết năm 1950 của ông về mẹ của Hoàng đế Constantinô, người đã phát hiện ra Thánh Giá Thật ở Palestine, anh kết luận với nhận xét rằng thánh tích Thánh Giá được chào đón "vì nó nói lên một sự kiện", và Helena được vinh danh vì "bà đã đưa ra một khẳng định thẳng thừng. Và ở đấy có hy vọng."(6) Việc người tạo ra những người trở lại đạo nổi tiếng này chưa bao giờ gặp một ứng viên nào có xu hướng thiên về sự thật như vậy đã nói rất nhiều về Waugh. Và Cha D’Arcy đã đúng khi cho rằng việc hoán cải đã ảnh hưởng đến các tác phẩm sau này của anh, mặc dù không phải cho đến khi một số tác phẩm châm biếm độc ác khác, chẳng hạn như Black Mischief, A Handful of Dust [tinh nghịch đen và nắm bụi] và Scoop, xuất hiện.
Waugh cũng đã để lại một số dấu hiệu về trạng thái tinh thần của mình vào thời điểm đó. Như đã nói ở trên, trước đó anh đã tin rằng Công Giáo là hình thức Kitô giáo “chính thống duy nhất”. Và anh nhận thức rõ ràng, có lẽ còn hơn cả Belloc vì mọi sự thậm chí còn suy tàn hơn vào thời của Waugh, rằng Kitô giáo là thành phần thiết yếu và tạo nên nền văn hóa phương Tây. Những khó khăn không nằm ở đó, mà ở nhận thức bản thân, điều mà nhiều người đã buộc tội Waugh là thiếu sót. Anh giấu kín những vấn đề bản thân, nhưng về việc trở lại đạo của mình, anh viết một cách cởi mở, “rắc rối là tôi không cảm thấy mình là Kitô hữu theo nghĩa tuyệt đối. Câu hỏi dường như là tôi phải đợi cho đến khi tôi cảm thấy điều này... hay liệu tôi có thể trở thành một người Công Giáo khi tôi ở trong tình trạng chưa hoàn thiện như vậy—và nhờ đó nhận được lợi ích của các bí tích và nhận được đức tin sau đó không?” Cha D’Arcy khuyên nên hành động một cách rõ ràng. Như Waugh đã nói, anh muốn “dù sao cũng chỉ gieo hạt giống và hy vọng nó sẽ nảy mầm”. (7)
Nó "xuất hiện" theo từng giai đoạn theo thời gian. Bên cạnh tác phẩm châm biếm, vào những năm 1930, Waugh đã viết tiểu sử về vị tử đạo Dòng Tên Thomas Campion và một loạt sách du lịch. Trong loạt sách sau, một sự khẳng định không có tính hộ giáo về tính ưu việt của nền văn minh phương Tây và Kitô giáo đã được đưa lên hàng đầu. Và sự căng thẳng đôi khi man rợ này ngày càng trở nên rõ rệt hơn trong cuộc đời của Waugh. Theo một giai thoại thường được lặp đi lặp lại, Nancy Mitford từng nói với Waugh, một người khách tại nhà của bà ở Paris, rằng bà không thể hiểu làm thế nào mà anh có thể cư xử tệ như vậy mà vẫn tự nhận là người Công Giáo. Waugh trả lời: “Bà không biết tôi sẽ tồi tệ hơn thế nào nếu tôi không theo đạo Công Giáo. Nếu không có sự trợ giúp của siêu nhiên, tôi sẽ khó mà trở thành một con người.” (8) Trong những năm sau đó, anh còn sử dụng một trợ cụ thính thị như hình kèn trumpet và người ta nói rằng thậm chí anh còn tạo dáng như một kẻ lạc lõng ghét thời đại của mình, mặc dù Graham Greene tuyên bố rằng trong những năm họ quen biết, ông chỉ một lần quan sát thấy hành vi như vậy nơi Waugh. (9)
Cho dù tác phong bản thân là chân thành hay bị lệch lạc, quan điểm của Waugh về thế giới hiện đại đã ăn sâu và được tuyên bố một cách công khai. Trong một đoạn văn nổi tiếng trong Mexico: An Object Lesson [Mễ Tây Cơ: Một bài học về đối tượng] (được xuất bản ở Anh với tựa đề Robbery under Law [Cướp bóc theo luật]), anh lên án cuộc đàn áp các Kitô hữu ở quốc gia đó, quốc gia, giống như Graham Greene, anh đã đến thăm trong một thời kỳ đặc biệt tồi tệ, và đưa ra một kiểu tuyên xưng đức tin thế tục mà anh không bao giờ dao động một cách đáng kể:
Sau đó, hãy để tôi cảnh cáo độc giả rằng tôi là một người bảo thủ khi tôi đến Mexico và mọi thứ tôi thấy ở đó đã củng cố quan điểm của tôi. Tôi tin rằng tự bản chất, con người là một kẻ lưu vong và sẽ không bao giờ tự cung tự cấp hoặc hoàn thiện trên trái đất này; rằng cơ hội hạnh phúc và đức hạnh của họ, ở đây, ít nhiều không thay đổi qua nhiều thế kỷ và nói chung, không bị ảnh hưởng nhiều bởi các điều kiện kinh tế và chính trị nơi họ sống; rằng sự cân bằng giữa tốt và xấu có xu hướng sẽ quay trở lại một quy chuẩn; rằng những thay đổi đột ngột của tình trạng thể chất thường là tồi tệ và được ủng hộ bởi những người sai lầm vì những lý do sai lầm; rằng những người cộng sản trí thức ngày nay có những cơ sở bản thân, không thích hợp cho sự đối kháng của họ với xã hội, mà họ đang cố gắng khai thác. Tôi tin vào chính phủ; rằng con người không thể sống cùng nhau mà không có quy tắc nhưng họ nên được giữ ở mức an toàn tối thiểu; rằng không có hình thức chính phủ nào được Thiên Chúa ấn định là tốt hơn bất cứ hình thức chính phủ nào khác; rằng các yếu tố vô chính phủ trong xã hội mạnh đến mức giữ hòa bình là nhiệm vụ toàn thời gian. Tôi tin rằng sự bất bình đẳng về giàu nghèo và địa vị là không thể tránh khỏi và do đó, việc thảo luận về những lợi ích của việc loại bỏ là vô nghĩa; rằng con người tự nhiên sắp xếp mình trong một hệ thống giai cấp; rằng một hệ thống như vậy là cần thiết cho bất cứ hình thức hợp tác nào, đặc biệt hơn là công việc giữ một quốc gia lại với nhau. Tôi tin vào tính quốc gia; không phải về mặt chủng tộc hay sứ mệnh thần thánh để chinh phục thế giới, mà chỉ đơn giản là: loài người chắc chắn tự tổ chức thành các cộng đồng theo sự phân bổ địa lý của nó; bằng cách chia sẻ một lịch sử chung, các cộng đồng này phát triển các đặc điểm chung và truyền cảm hứng cho lòng trung thành của địa phương; cá nhân gia đình phát triển hạnh phúc và trọn vẹn nhất khi chấp nhận những giới hạn tự nhiên này....
Một người bảo thủ không chỉ là một người duy cản trở [obstructionist],... một cái thắng đối với thử nghiệm phù phiếm. họ có công việc tích cực để làm.... Nền văn minh không có sức mạnh của riêng nó ngoài những gì nó được ban tặng từ bên trong. Nó đang bị tấn công liên tục và nó cần hầu hết năng lực của con người văn minh để tiếp tục.... Chủ nghĩa man rợ cuối cùng không bao giờ bị đánh bại; trong hoàn cảnh thuận lợi, những người đàn ông và đàn bà có vẻ khá trật tự sẽ thực hiện mọi hành vi tàn ác có thể tưởng tượng được.... Nỗ lực không ngừng là cần thiết để giữ cho mọi người chung sống hòa bình.(10)
Ba năm trước, khi đi du lịch ở Abyssinia, nơi gần đây đã bị quân đội của Mussolini chiếm đóng, anh đã ca ngợi những người Phát xít, không phải vì bạo lực của họ, mà theo đánh giá của anh, thực tế là ít nhất họ đã mang lại nền văn minh và sự trong sáng cho những nơi chỉ có sự man rợ và sự hỗn loạn ngự trị: “Dọc theo các con đường, những con đại bàng của La Mã cổ đại sẽ đi ngang qua, khi chúng đến với tổ tiên man rợ của chúng ta ở Pháp, Anh và Đức, mang theo một số thứ rác rưởi và một số trò nghịch ngợm: rất nhiều lời thô tục và một số bất hạnh gay gắt cho từng đối thủ; nhưng vượt lên trên và chiếm ưu thế hoàn toàn, là năng khiếu vô giá về tay nghề khéo léo và khả năng phán đoán rõ ràng—hai phẩm chất quyết định của tinh thần con người, mà chỉ nhờ đó, dưới sự lãnh đạo của Thiên Chúa, con người mới phát triển và thịnh vượng.” (11) Mặc dù Mussolini được rất nhiều người ở Anh ngưỡng mộ thời điểm đó vì năng lực và kỷ luật là những điều họ tin là thiếu ở đất nước của họ, đây là một cái nhìn rất Lãng mạn về sự vật, đặc biệt là từ một nhà văn rất nhạy cảm với độ sâu của sự đồi bại và phù phiếm của phương Tây — và những ảo tưởng chính trị mà chúng đã phát sinh.
Chính trong những cuốn sách xuất hiện sau Thế chiến thứ hai, đặc biệt là Brideshead Revisited và Sword of Honor, Waugh đã đạt được tầm nhìn trưởng thành nhất của mình. Đặc biệt, Brideshead rất nổi tiếng và thậm chí còn được dựng thành một phiên bản video lộng lẫy vào những năm 1980, mặc dù cuốn sách sau này có thể là tác phẩm tuyệt vời hơn. Trong những câu chuyện này, Waugh nhìn lại những năm 1930 và những năm chiến tranh với sự kết hợp của những lời chỉ trích và hối tiếc. Mặc dù con mắt tinh tường của anh vẫn sẵn sàng rút ra sự hài hước đen tối từ những điều phi lý của cuộc sống ở nước Anh hiện đại, nhưng trong những câu chuyện này vẫn xuất hiện sự đánh giá cao về những gì nền văn minh đã dần dần xây dựng theo thời gian và nhận ra rằng nó có thể bị vứt bỏ dễ dàng như thế nào, thậm chí bởi những người không nông cạn và lông bông như những nhân vật trong tiểu thuyết trước đó.
Lần đầu tiên, Giáo Hội Công Giáo cũng là một lực lượng nghiêm túc trong các câu chuyện của anh, mặc dù Giáo Hội cũng có ảnh hưởng hỗn hợp. Thí dụ, trong Brideshead Revisited, Giáo Hội phần lớn được đồng nhất với Mênh phụ Marchmain, một nữ quý tộc ngoan đạo, người đã chở chồng và con trai Sebastian đi uống rượu — rồi bỏ trốn (tên họ là Flyte). Đồng thời, đạo Công Giáo này cũng có yếu tố cứu chuộc, mặc dù nó phải diễn ra trong thời gian dài và khoảng cách. Tại một điểm quan trọng của câu chuyện, Mệnh phụ Marchmain đang đọc to một trong những câu chuyện trinh thám Father Brown của Chesterton, trong đó vị linh mục giải thích cách ngài bắt được một tên tội phạm. Nhưng vấn đề cũng liên quan đến các thành viên ương ngạnh trong gia đình và mọi người nói chung. Cordelia, một trong những cô con gái của Mệnh Phụ Marchmain và—giống như con gái của Vua Lear là Cordelia—một người nói sự thật, nhớ lại tình tiết sau đó:
“Anh có biết ba đã nói gì khi trở thành người Công Giáo không?... Người nói...: ‘Bạn đã đưa gia đình tôi trở lại với đức tin của tổ tiên họ.’... Gia đình không ổn định lắm phải không? Người đã biến mất, Sebastian đã biến mất và Julia đã biến mất. Nhưng Thiên Chúa sẽ không để họ đi lâu đâu, anh biết đấy. Tôi tự hỏi không biết anh có nhớ câu chuyện Má đã kể cho chúng ta nghe vào buổi tối lần đầu tiên Sebastian say xỉn không - ý tôi là buổi tối tồi tệ đó. Cha Brown đã nói điều gì đó đại loại như ‘Tôi đã bắt được hắn’ (tên trộm) ‘bằng một cái móc vô hình và một sợi dây vô hình đủ dài để cho hắn lang thang đến tận cùng thế giới và vẫn có thể đưa hắn trở lại chỉ với một cú giật trên sợi chỉ.’” (12)
Phụ đề của cuốn tiểu thuyết, "Những Ký ức Thánh thiêng và Phàm tục của Thuyền trưởng Charles Ryder", chỉ ra chủ đề chính của câu truyện. Ryder, cái tên gợi ý một cách tinh tế về một kiểu hiệp sĩ, gặp Sebastian Flyte tại Oxford, nơi họ nhanh chóng trở thành bạn bè và thậm chí có thể là người yêu đồng tính, như nhiều người đàn ông đã làm ở Oxford của Waugh. Sebastian toát lên vẻ quyến rũ trẻ trung, và phẩm chất bản thân đó, cùng với sự sang trọng của ngôi nhà và lối sống của gia đình anh, đã quyến rũ Charles và mang đến cho anh ta một giấc mơ lãng mạn về một cuộc sống mà anh ta chưa bao giờ đoán trước là có thể hiện hữu. Tuy nhiên, sự quyến rũ và niềm tin gia đình che giấu nhiều rắc rối, đặc biệt là cách mà Ngài Marchmain đã bỏ rơi gia đình vì tội lỗi — và sau đó lấy một tình nhân ở Venice. Khi Sebastian sa vào con đường tương tự, Charles thấy mình phẫn nộ với đạo Công Giáo vì cách nó hủy hoại các cuộc đời. Nhưng tất cả những điều này chỉ là khúc dạo đầu cho một quá trình mà chính anh sẽ kết cục trong Giáo hội.
Hơn một thập niên sau Oxford, Charles đã kết hôn và có con và là một họa sĩ lâu đời chuyên vẽ những ngôi nhà lớn của nước Anh và những chủ đề an toàn khác. Nhưng anh vô cùng bất hạnh và một cách nào đó lạnh lùng hẳn với các giấc mơ anh từng ấp ủ. Sebastian là một kẻ say rượu bị lạc ở đâu đó trên vùng đất Ả Rập. Vợ của Charles không chung thủy với anh, điều này đã đưa anh đến Mexico và Trung Mỹ để tìm kiếm những chủ đề kỳ lạ nhằm kích thích trí tưởng tượng của anh. Anh trở lại với nhiều bức tranh sơn dầu đã hoàn thành, nhưng Anthony Blanche, một người đồng tính luyến ái trắng trợn nhưng có tính giải trí cao, từng là bạn ở Oxford, xuất hiện tại cuộc triển lãm của anh. Anh ta đến, anh ta nói với Ryder, để xem những gì người bạn cũ của anh ta đã làm:
“Tôi đã tìm thấy, bạn thân mến, một trò đùa thực tế rất nghịch ngợm và rất thành công. Nó khiến tôi nhớ đến Sebastian thân yêu khi anh ấy rất thích để râu giả. Và cả sự quyến rũ nữa, bạn thân mến, một sự quyến rũ đơn giản, mịn mượt kiểu Anh, chơi với những con hùm.” Tôi nói, “Bạn nói khá đúng”.
“Bạn thân mến, tất nhiên là tôi đúng. Tôi đã đúng nhiều năm trước - nhiều năm hơn, tôi rất vui được nói thế, so với những gì cả hai chúng tôi cho thấy - khi tôi cảnh cáo bạn. Tôi đưa bạn ra ngoài ăn tối để cảnh cáo bạn về sự quyến rũ. Tôi đã cảnh cáo bạn một cách rõ ràng và chi tiết về gia đình Flyte. Sự quyến rũ là tai họa lớn của người Anh. Nó không hiện hữu ở bên ngoài những hòn đảo ẩm ướt này. Nó phát hiện và giết chết bất cứ thứ gì nó chạm tới. Nó giết chết tình yêu; nó giết chết nghệ thuật; tôi vô cùng sợ hãi, Charles thân mến, nó đã giết chết bạn.” (13)
Đây là Anthony Blanche đang nói, không phải Evelyn Waugh, nhưng thật khó để không phát hiện ra ở đây một yếu tố không hiện hữu trong những cuốn sách trước đó: sự quyến rũ như một tác nhân làm chết tâm linh, một tri nhận thực sự mới lạ.
Nhưng Anthony chưa nhìn thấy tất cả. Charles gặp Julia, em gái của Sebastian, trên con tàu đi từ New York về Anh. Trong cuộc vượt biển, anh nhận ra rằng Sebastian, giống như Thánh Gioan Tẩy Giả, chỉ là người báo trước và người phụ nữ rất giống anh trai mình này, chính là tình yêu định mệnh của đời anh. Họ bắt đầu ngoại tình, và tình yêu, như mọi khi, bắt đầu dẫn dắt mọi người theo những hướng đi mới. Họ nói rằng Thiên Chúa và toàn thể nhân loại dường như dàn trận chống lại họ, nhưng họ quyết tâm giữ lấy hạnh phúc của mình bất chấp mọi sự. Trong hai năm, họ tận hưởng niềm hạnh phúc tại Lâu đài Brideshead, “không một ngày lạnh nhạt, không tin tưởng hay thất vọng”. (14) Nhưng tất cả những gì có vẻ là hòa bình—và sự mong đợi về một cuộc sống lâu dài hơn khi việc ly dị của họ hoàn tất và họ có thể kết hôn—sắp bị phá hủy để tạo ra một nền hòa bình lớn hơn.
Còn tiếp
Vào năm 1925, một thanh niên 23 tuổi người Anh đang bơi ra biển—việc tự sát hay chỉ để giải tỏa nỗi thất vọng của mình vẫn chưa bao giờ hoàn toàn rõ ràng. Anh bị một đàn sứa cắn—khiến anh phải quay trở lại bờ. Do đó, Thiên Chúa hoặc sự sáng tạo của Người đã tha mạng cho một người đàn ông được cho là tiểu thuyết gia người Anh vĩ đại nhất của thế kỷ XX; Evelyn Waugh. Nếu Hopkins thể hiện sự nhạy cảm thi ca hiện đại đang đấu tranh với sự đau đớn và ngây ngất của cuộc sống con người, thì Waugh đưa ra một lời châm biếm giống như dùi nhọn về thế giới hiện đại nhạt nhẽo khi nó bắt đầu xuất hiện ở Anh sau Thế chiến thứ nhất. Bức chân dung của anh về thế giới đó trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên vừa tàn nhẫn vừa vui nhộn. Khi anh trở thành người Công Giáo, khoảng bốn năm sau khi toan tính tự tử, công trình của anh phần nào chuyển sang các chủ đề phong phú hơn. Nhưng trong suốt sự nghiệp của mình, hầu như mọi thứ Waugh viết đều có sự kết hợp bất thường giữa lòng căm thù và tình yêu. Trong những năm đầu đời, anh được gia đình biết đến như một đứa trẻ đặc biệt hay châm biếm. Nhưng cũng trong những năm đó, anh sớm bị thu hút bởi nghi lễ tôn giáo, thậm chí còn diễn lại các nghi lễ cao cấp của Anh giáo tại nhà. Có lẽ không quá mạnh khi gợi ý rằng sau mưu toan tự tử thậm chí anh còn là anh hơn nữa: với một số khả năng châm chích đặc biệt của riêng anh, như những cuốn tiểu thuyết đầu tiên chứng thực, nhưng cũng với khuynh hướng ngày càng tăng đối với Kitô giáo — và Công Giáo, mà anh đã quyết định từ khá sớm là Kitô giáo thực sự duy nhất còn lại.
Waugh và người bạn lâu năm của ông, Graham Greene, là những tiểu thuyết gia Công Giáo đầu tiên ở Anh thực sự đề cập đến thế giới xã hội hiện đại, thế giới xuất hiện ở Anh và những nơi khác sau thảm họa của Thế chiến thứ nhất. Ngược lại, Chesterton và Belloc là sản phẩm của một thời đại xa xưa hơn. Vào thời điểm Đại chiến kết thúc, cả hai đều đã ngoài bốn mươi và đã hình thành những cuộc tranh cãi đang bắt đầu thay đổi thành một điều gì đó hoàn toàn khác. Nước Anh theo chủ nghĩa khoái lạc cuồng nhiệt của “Những điều trẻ trung tươi sáng” sau chiến tranh và sự hỗn loạn sau sự rút lui của trật tự Kitô giáo phương Tây đã tạo thành chủ đề cho các tiểu thuyết đầu tiên của Waugh. Decline and Fall {Suy thíai và Sụp đổ] (1927) và Vile Bodies [những thân xác kinh tởm] (1930) nói riêng là một trong những đại diện vui nhộn và sáng tạo nhất về “xã hội tạp nham” (1) của thế giới hiện đại. Waugh mang đến một nguồn năng lực chóng mặt, liều lĩnh cho những câu truyện này. Tên của các nhân vật là nét thiên tài hài kịch: Lady Metroland, the Countess of Circumference, Mrs. Blackwater, Mr. Outrage, Fanny Throbbing, Alastair Digby-Vaine-Trumpington, gia đình Chasm, Sir Humphrey Maltravers, Miles Malpractice, Miss Runcible, Mrs. Melrose Ape (một nhà truyền giảng Tin Mừng nữa từng viết bài thánh ca nổi tiếng “There Ain’t No Flies on the Lamb of God”) [không có con ruồi nào trên Chiên Thiên Chúa]) và v.v... Ở những tay kém cỏi hơn, kiểu châm biếm này có thể sớm nhạt đi. Nhưng Waugh có khiếu châm biếm không hề nhẹ của P. G. Wodehouse - người mà anh vô cùng ngưỡng mộ - và một điều gì đó nghiêm túc hơn bên cạnh đó.
Mặt nghiêm túc hơn là một loại kỳ lạ trong văn học Công Giáo thế kỷ XX. Nhiều người trở lại đạo đến với Giáo Hội vì một số khủng hoảng bản thân, một số ít do cảm thức về trật tự văn minh mà Belloc và Chesterton thấy đã biến mất cùng với đức tin. Waugh khá khác thường ở chỗ ý thức của anh về sự phi lý của thế giới hiện đại dường như đã có ngay từ đầu — rất lâu trước khi anh thực hiện bất cứ bước ngoặt nghiêm túc nào đối với tôn giáo, bất chấp sự hấp dẫn của tuổi trẻ đối với nghi lễ Kitô giáo. Thật vậy, có lẽ chưa bao giờ có sự kết hợp kỳ lạ như vậy giữa tình yêu trật tự và cái đẹp cùng với sự lột xác tàn nhẫn của sự hỗn loạn bên ngoài trong tất cả các tác phẩm văn học. Nhưng như Graham Greene đã quan sát một cách xuất sắc, sự châm biếm của Waugh là mặt trái của Chủ nghĩa lãng mạn của anh. Anh vô cùng thất vọng trước những gì anh thấy là xã hội Anh vào thời của anh — một xã hội mà ít nhất khi còn trẻ, anh cũng là một phần của nó — và một loại tình yêu thất vọng ẩn sau sự châm biếm man rợ. Điều tương tự cũng phần lớn đúng với tường thuật của Waugh về đời sống quân ngũ, một định chế nữa tỏ ra khác xa với những gì anh đã trải qua trong Thế chiến thứ hai. Câu chuyện hài hước mà anh cung cấp trong Sword of Honor[lưỡi gươm danh dự], một cuốn tiểu thuyết gồm ba phần có thể thực sự là tác phẩm vĩ đại nhất của anh, theo cách của nó, là lời than thở về việc thiếu phong cách hiệp sĩ và sự hy sinh mà các chiến binh, với khả năng tốt nhất của họ, có thể hiện thân.
Giống như Chesterton, Waugh bắt đầu muốn trở thành một họa sĩ. Charles Ryder, người kể chuyện trong cuốn tiểu thuyết Công Giáo vĩ đại sau này của Waugh, Brideshead Revisited [thăm lại Brideshead],—không phải ngẫu nhiên—cũng là một họa sĩ. Cha của Waugh là giám đốc của một nhà xuất bản, vì vậy cậu bé Waugh đã quen thuộc với các nhân vật văn học và nghệ thuật ngay từ đầu. Sự nghiệp hội họa chưa bao giờ thực sự thành công, nhưng đôi khi - có thể là ở Oxford - Waugh đã yêu thích phong trào Pre-Raphael và các họa sĩ người Anh thuộc phong trào này. Cuốn sách đầu tiên của anh là một nghiên cứu về Dante Gabriel Rossetti, một nhà thơ nổi tiếng, dịch giả của Dante, và là một trong những ánh sáng hàng đầu trong số những người Pre-Raphael. Điều quan trọng là thị hiếu của Waugh chạy theo hướng đó hơn là hướng tới chủ nghĩa duy hiện đại trong hội họa mà lúc bấy giờ đang thịnh hành ở khắp mọi nơi. Ở Waugh, không bao giờ có cảm giác—như ở một số tác giả Công Giáo khác—rằng việc quay về với quá khứ và với Giáo hội chỉ đơn thuần là một cuộc chạy trốn khỏi hiện đại. Thị hiếu và khả năng phê bình của anh dường như đã được kết hợp ngay từ đầu: thế giới hiện đại không đưa anh đến với những người Pre-Raphael. Những bức tranh sơn dầu của họ đơn thuần, rõ ràng là tốt hơn những gì hiện đang được cung cấp. Và theo cách tương tự, anh nhìn rõ và có thể vẽ những bức chân dung sắc nét về những năm 1920 tràn đầy năng lực nhưng trống rỗng.
Decline and Fall, cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, kể về câu chuyện của Paul Pennyfeather, một sinh viên thần học Oxford bị bạn bè lột quần trong một lần uống rượu và bị đuổi khỏi trường đại học. Buộc phải tự nuôi sống bản thân, anh nhận một công việc — như chính Waugh đã làm sau khi rời Oxford — tại một trường dự bị nam sinh ở Wales, có tên gọi là Lâu đài Llanabba. (Đó là sau thất bại của Waugh trong công việc tuyệt vọng này và sau lời hứa về một công việc của C. K. Scott Moncrieff, dịch giả nổi tiếng của Proust và là người trở lại đạo Công Giáo, đã khiến Waugh có thể đã toan tự tử.) Các giáo viên đồng nghiệp của Pennyfeather là tập hợp của những con chim kỳ quặc, và toàn bộ dàn nhân vật là một tập hợp những kẻ mập mờ độc ác. Nữ hiệu trưởng, bà Beste-Chetwynde (sau này là Lady Metroland), người mà Paul đem lòng yêu thương, là một tú bà có một tổ chức gái mại dâm lớn và có lãi ở Nam Mỹ. Paul vào tù thay cho bà ta, bằng cách giả làm anh họ của bà, trước khi trở lại Oxford nơi anh theo đuổi việc nghiên cứu về Kitô giáo một lần nữa với sự ưu tiên quyết định dành cho những nhân vật ban đầu có thái độ nghiêm khắc nhất đối với những sai lệch ít nhất so với chính thống. Cuốn sách này là một thành công lớn về mặt phê bình, mặc dù Chesterton - người sau này có ảnh hưởng rất lớn đến Waugh qua cuốn Everlasting Man [Người đàn ông bất diệt] - đã viết một bài phê bình gay gắt, có lẽ không hiểu rằng đó thực sự là một tác phẩm châm biếm chống lại một hình thức xã hội mới của Anh mà ông không tiếp xúc.
Trong số những cảnh ồn ào khác nhau, có một cảnh trong đó một đại tá quân đội đã nghỉ hưu tên Grimes, để kiếm sống qua ngày, phải dạy dỗ các cậu bé, nhận được một lá thư có thể giúp ông thoát khỏi cảnh khốn cùng. Chủ một nhà máy bia địa phương viết cho ông:
Chúng tôi thuê một số du khách nào đó đi vòng quanh các nhà trọ và khách sạn khác nhau để nếm thử bia và bảo đảm rằng nó không bị pha loãng hoặc tạp nhiễm dưới bất cứ hình thức nào. Du khách nhỏ tuổi của chúng tôi, một người bạn của tôi từ Cambridge, vừa mới phát triển chứng run rẩy vì rượu (D.T.= delirium tremens) và đã phải bị đình chỉ. Lương hai trăm một năm kèm tiền xe cộ đi lại. Điều này có thu hút bạn chút nào không? Nếu vậy, bạn sẽ cho tôi biết trong vài ngày tới. Trân trọng.
Grimes quay sang Paul: “Công việc của riêng Thiên Chúa, còn của tôi là cầu xin!” (2) Nhưng giống như tất cả các nhân vật khác, ông bị hoàn cảnh trước đó ngăn cản không thoát khỏi tình trạng xuống dốc hiện tại. Không có gì ngạc nhiên khi hết trang này đến trang khác của loại phát minh này đã thuyết phục được vô số nhà phê bình rằng đây là một tài năng văn học mới xuất hiện.
Nhưng Waugh thực sự trở thành của riêng mình với cuốn tiếp theo, cuốn tiểu thuyết Vile Bodies. Trong tất cả các tác phẩm văn học, chưa bao giờ có một tác phẩm châm biếm nào dài hơn thế về cơn lốc xã hội. Nó bắt đầu với việc hầu hết các nhân vật chính băng qua Eo Biển Anh gây nôn mửa - một hình ảnh rõ ràng về sự bất ổn đang chao đảo ở nước Anh của nhóm Bright Young Things [Những điều tươi sáng trẻ trung]. Và nó kết thúc với một cuộc đua ô tô hỗn loạn, trong đó chính máy móc của những chiếc xe đua và vòng đua đầy nguy hiểm—đổ vỡ và chấn thương ở khắp mọi nơi—cho thấy cả một xã hội đang sử dụng một thành tựu kỹ thuật không có mục đích thực sự mà có lẽ đang thực sự đưa loài người xuống mương rãnh. Một số mương rãnh, thực sự. Do một sự hiểu lầm hài hước, Agatha Runcible say xỉn trở thành tài xế thay thế trong Toa 13 kém may mắn. Cô đẩy những người lái xe nghiêm chỉnh ra khỏi đường chạy và lao vào một vụ tai nạn ở một thị trấn cách xa hàng dặm—cũng như phải vào một bệnh viện tâm thần, nơi cô lặp đi lặp lại cho mình trong nỗi kinh hoàng, "Nhanh hơn, nhanh hơn".
Tất nhiên, còn nhiều điều khác vui nhộn một cách đơn giản và thẳng thừng. “Cốt truyện” chính, nếu cuốn sách có thể nói là có, là nỗ lực của Adam Fenwick-Symes - một nhà quý tộc, nhưng cũng là một nhà báo hay tán láo như một số bạn bè của ông ta - để kiếm đủ tiền cưới cô Nina Blount, một người phụ nữ nhẹ dạ giống ông ta. Trong nửa sau của câu chuyện, cô đột ngột từ bỏ Adam để đến với một người bạn thời thơ ấu, người đã kiếm được rất nhiều tiền ở nước ngoài. Họ có một mối tình chóng vánh, rồi kết hôn, rồi đáp “máy bay” đi hưởng tuần trăng mật:
Ginger nhìn ra ngoài máy bay và hét lên: “Nina, anh muốn hỏi khi em còn nhỏ, em có bao giờ phải học một điều gì đó từ một tập thơ về: 'Hòn đảo vương trượng này, trái đất uy nghi này, một điều gì đó hoặc Eden khác '? Em có biết ý anh là gì không? ‘giống người hạnh phúc này, thế giới nhỏ bé này, viên đá quý này được đặt trong biển bạc. (3)
Nàng mơ hồ nhớ rằng nó xảy ra trong một vở kịch mà nàng từng đóng: “Chà, có thể họ đã đưa nó vào một vở kịch kể từ đó. Nó ở trong một tập thơ màu xanh khi em biết nó.” Vấn đề rõ ràng là hai đại diện đặc quyền này của giai cấp thượng lưu đã giữ được cảm thức di tích—nhưng rất mơ hồ—về những dòng thơ vĩ đại nhất từng viết về đất nước của họ, “This blessed plot, this Earth, this Realm, this England” [mảnh đất diễm phúc này, trái đất này, vương quốc này, Nước Anh này] mà Shakespeare đã đưa vào Richard II.
Không có bản tóm tắt ngắn gọn nào có thể truyền tải năng lực dồn dập mà Waugh đã dùng để thực hiện tác phẩm châm biếm này. Các nhà phê bình nhận thấy rằng nó trở nên sắc nét và man rợ hơn ở giữa cuốn sách bởi vì trong cuộc đời của chính mình, anh đã trải qua một điều gì đó tương tự như những gì đã xảy ra với Adam Fenwick-Symes: cuộc hôn nhân đầu tiên của ông đột ngột kết thúc khi người vợ chung sống vài năm của ông bỏ rơi ông mà không báo trước, để đi theo một người bạn khá tồi tàn. Vile Bodies cũng chứa đựng bức chân dung tàn khốc của một linh mục đầy mưu mô, Cha Rothschild, S.J., người dường như biết tất cả mọi người và mọi âm mưu đang diễn ra; ngài cũng có một số hiểu biết tâm linh sâu sắc về cuộc khủng hoảng hiện tại: “Có lẽ tất cả đều mang tính lịch sử theo một cách nào đó? Tôi không nghĩ mọi người muốn mất niềm tin vào tôn giáo hay bất cứ điều gì khác. Tôi biết rất ít người trẻ tuổi, nhưng dường như đối với tôi, tất cả họ đều bị chiếm hữu bởi một khao khát gần như chết người về sự trường tồn. Tôi nghĩ rằng tất cả những vụ ly hôn này cho thấy điều đó. Ngày nay, mọi người không hài lòng với việc loay hoay... Họ nói, 'nếu một việc không đáng làm một cách tốt đẹp, thì nó không đáng làm chút nào.' Điều đó khiến mọi sự trở nên rất khó khăn đối với họ.” (4) Nhưng nếu Waugh không chế giễu một loại linh mục nào đó vào thời điểm này, thì chính là Giáo Hội Công Giáo cuối cùng được ông hướng tới vào năm 1930, là năm trong đó Vile Bodies xuất hiện.
Giống như nhiều người trước đó, anh tìm đến Nhà thờ Phố Farm và không ai khác mà là Cha Martin D'Arcy nổi tiếng, đã để lại một ghi chép nổi bật về cách Waugh nghe lời giảng dậy. Dĩ nhiên, anh đã tự mình đọc rất nhiều về thần học và lịch sử. Cha D'Arcy nhận xét rằng Waugh đã “bắt đầu học và hiểu điều mà anh tin là sự mặc khải của Thiên Chúa, và điều này khiến cuộc nói chuyện với anh trở thành một cuộc thảo luận thú vị chủ yếu dựa trên lý trí. Bản thân tôi chưa bao giờ gặp một người trở lại đạo nào đã dựa vào sự thật một cách mạnh mẽ như vậy.... Suy nghĩ chín chắn, rõ ràng với sự trợ giúp của ân sủng đã cho anh câu trả lời mà anh đang tìm kiếm, và người ta có thể thấy hiệu quả của nó trong các tác phẩm tiếp theo của anh.” (5 ) (Khi Waugh viết Helena, cuốn tiểu thuyết năm 1950 của ông về mẹ của Hoàng đế Constantinô, người đã phát hiện ra Thánh Giá Thật ở Palestine, anh kết luận với nhận xét rằng thánh tích Thánh Giá được chào đón "vì nó nói lên một sự kiện", và Helena được vinh danh vì "bà đã đưa ra một khẳng định thẳng thừng. Và ở đấy có hy vọng."(6) Việc người tạo ra những người trở lại đạo nổi tiếng này chưa bao giờ gặp một ứng viên nào có xu hướng thiên về sự thật như vậy đã nói rất nhiều về Waugh. Và Cha D’Arcy đã đúng khi cho rằng việc hoán cải đã ảnh hưởng đến các tác phẩm sau này của anh, mặc dù không phải cho đến khi một số tác phẩm châm biếm độc ác khác, chẳng hạn như Black Mischief, A Handful of Dust [tinh nghịch đen và nắm bụi] và Scoop, xuất hiện.
Waugh cũng đã để lại một số dấu hiệu về trạng thái tinh thần của mình vào thời điểm đó. Như đã nói ở trên, trước đó anh đã tin rằng Công Giáo là hình thức Kitô giáo “chính thống duy nhất”. Và anh nhận thức rõ ràng, có lẽ còn hơn cả Belloc vì mọi sự thậm chí còn suy tàn hơn vào thời của Waugh, rằng Kitô giáo là thành phần thiết yếu và tạo nên nền văn hóa phương Tây. Những khó khăn không nằm ở đó, mà ở nhận thức bản thân, điều mà nhiều người đã buộc tội Waugh là thiếu sót. Anh giấu kín những vấn đề bản thân, nhưng về việc trở lại đạo của mình, anh viết một cách cởi mở, “rắc rối là tôi không cảm thấy mình là Kitô hữu theo nghĩa tuyệt đối. Câu hỏi dường như là tôi phải đợi cho đến khi tôi cảm thấy điều này... hay liệu tôi có thể trở thành một người Công Giáo khi tôi ở trong tình trạng chưa hoàn thiện như vậy—và nhờ đó nhận được lợi ích của các bí tích và nhận được đức tin sau đó không?” Cha D’Arcy khuyên nên hành động một cách rõ ràng. Như Waugh đã nói, anh muốn “dù sao cũng chỉ gieo hạt giống và hy vọng nó sẽ nảy mầm”. (7)
Nó "xuất hiện" theo từng giai đoạn theo thời gian. Bên cạnh tác phẩm châm biếm, vào những năm 1930, Waugh đã viết tiểu sử về vị tử đạo Dòng Tên Thomas Campion và một loạt sách du lịch. Trong loạt sách sau, một sự khẳng định không có tính hộ giáo về tính ưu việt của nền văn minh phương Tây và Kitô giáo đã được đưa lên hàng đầu. Và sự căng thẳng đôi khi man rợ này ngày càng trở nên rõ rệt hơn trong cuộc đời của Waugh. Theo một giai thoại thường được lặp đi lặp lại, Nancy Mitford từng nói với Waugh, một người khách tại nhà của bà ở Paris, rằng bà không thể hiểu làm thế nào mà anh có thể cư xử tệ như vậy mà vẫn tự nhận là người Công Giáo. Waugh trả lời: “Bà không biết tôi sẽ tồi tệ hơn thế nào nếu tôi không theo đạo Công Giáo. Nếu không có sự trợ giúp của siêu nhiên, tôi sẽ khó mà trở thành một con người.” (8) Trong những năm sau đó, anh còn sử dụng một trợ cụ thính thị như hình kèn trumpet và người ta nói rằng thậm chí anh còn tạo dáng như một kẻ lạc lõng ghét thời đại của mình, mặc dù Graham Greene tuyên bố rằng trong những năm họ quen biết, ông chỉ một lần quan sát thấy hành vi như vậy nơi Waugh. (9)
Cho dù tác phong bản thân là chân thành hay bị lệch lạc, quan điểm của Waugh về thế giới hiện đại đã ăn sâu và được tuyên bố một cách công khai. Trong một đoạn văn nổi tiếng trong Mexico: An Object Lesson [Mễ Tây Cơ: Một bài học về đối tượng] (được xuất bản ở Anh với tựa đề Robbery under Law [Cướp bóc theo luật]), anh lên án cuộc đàn áp các Kitô hữu ở quốc gia đó, quốc gia, giống như Graham Greene, anh đã đến thăm trong một thời kỳ đặc biệt tồi tệ, và đưa ra một kiểu tuyên xưng đức tin thế tục mà anh không bao giờ dao động một cách đáng kể:
Sau đó, hãy để tôi cảnh cáo độc giả rằng tôi là một người bảo thủ khi tôi đến Mexico và mọi thứ tôi thấy ở đó đã củng cố quan điểm của tôi. Tôi tin rằng tự bản chất, con người là một kẻ lưu vong và sẽ không bao giờ tự cung tự cấp hoặc hoàn thiện trên trái đất này; rằng cơ hội hạnh phúc và đức hạnh của họ, ở đây, ít nhiều không thay đổi qua nhiều thế kỷ và nói chung, không bị ảnh hưởng nhiều bởi các điều kiện kinh tế và chính trị nơi họ sống; rằng sự cân bằng giữa tốt và xấu có xu hướng sẽ quay trở lại một quy chuẩn; rằng những thay đổi đột ngột của tình trạng thể chất thường là tồi tệ và được ủng hộ bởi những người sai lầm vì những lý do sai lầm; rằng những người cộng sản trí thức ngày nay có những cơ sở bản thân, không thích hợp cho sự đối kháng của họ với xã hội, mà họ đang cố gắng khai thác. Tôi tin vào chính phủ; rằng con người không thể sống cùng nhau mà không có quy tắc nhưng họ nên được giữ ở mức an toàn tối thiểu; rằng không có hình thức chính phủ nào được Thiên Chúa ấn định là tốt hơn bất cứ hình thức chính phủ nào khác; rằng các yếu tố vô chính phủ trong xã hội mạnh đến mức giữ hòa bình là nhiệm vụ toàn thời gian. Tôi tin rằng sự bất bình đẳng về giàu nghèo và địa vị là không thể tránh khỏi và do đó, việc thảo luận về những lợi ích của việc loại bỏ là vô nghĩa; rằng con người tự nhiên sắp xếp mình trong một hệ thống giai cấp; rằng một hệ thống như vậy là cần thiết cho bất cứ hình thức hợp tác nào, đặc biệt hơn là công việc giữ một quốc gia lại với nhau. Tôi tin vào tính quốc gia; không phải về mặt chủng tộc hay sứ mệnh thần thánh để chinh phục thế giới, mà chỉ đơn giản là: loài người chắc chắn tự tổ chức thành các cộng đồng theo sự phân bổ địa lý của nó; bằng cách chia sẻ một lịch sử chung, các cộng đồng này phát triển các đặc điểm chung và truyền cảm hứng cho lòng trung thành của địa phương; cá nhân gia đình phát triển hạnh phúc và trọn vẹn nhất khi chấp nhận những giới hạn tự nhiên này....
Một người bảo thủ không chỉ là một người duy cản trở [obstructionist],... một cái thắng đối với thử nghiệm phù phiếm. họ có công việc tích cực để làm.... Nền văn minh không có sức mạnh của riêng nó ngoài những gì nó được ban tặng từ bên trong. Nó đang bị tấn công liên tục và nó cần hầu hết năng lực của con người văn minh để tiếp tục.... Chủ nghĩa man rợ cuối cùng không bao giờ bị đánh bại; trong hoàn cảnh thuận lợi, những người đàn ông và đàn bà có vẻ khá trật tự sẽ thực hiện mọi hành vi tàn ác có thể tưởng tượng được.... Nỗ lực không ngừng là cần thiết để giữ cho mọi người chung sống hòa bình.(10)
Ba năm trước, khi đi du lịch ở Abyssinia, nơi gần đây đã bị quân đội của Mussolini chiếm đóng, anh đã ca ngợi những người Phát xít, không phải vì bạo lực của họ, mà theo đánh giá của anh, thực tế là ít nhất họ đã mang lại nền văn minh và sự trong sáng cho những nơi chỉ có sự man rợ và sự hỗn loạn ngự trị: “Dọc theo các con đường, những con đại bàng của La Mã cổ đại sẽ đi ngang qua, khi chúng đến với tổ tiên man rợ của chúng ta ở Pháp, Anh và Đức, mang theo một số thứ rác rưởi và một số trò nghịch ngợm: rất nhiều lời thô tục và một số bất hạnh gay gắt cho từng đối thủ; nhưng vượt lên trên và chiếm ưu thế hoàn toàn, là năng khiếu vô giá về tay nghề khéo léo và khả năng phán đoán rõ ràng—hai phẩm chất quyết định của tinh thần con người, mà chỉ nhờ đó, dưới sự lãnh đạo của Thiên Chúa, con người mới phát triển và thịnh vượng.” (11) Mặc dù Mussolini được rất nhiều người ở Anh ngưỡng mộ thời điểm đó vì năng lực và kỷ luật là những điều họ tin là thiếu ở đất nước của họ, đây là một cái nhìn rất Lãng mạn về sự vật, đặc biệt là từ một nhà văn rất nhạy cảm với độ sâu của sự đồi bại và phù phiếm của phương Tây — và những ảo tưởng chính trị mà chúng đã phát sinh.
Chính trong những cuốn sách xuất hiện sau Thế chiến thứ hai, đặc biệt là Brideshead Revisited và Sword of Honor, Waugh đã đạt được tầm nhìn trưởng thành nhất của mình. Đặc biệt, Brideshead rất nổi tiếng và thậm chí còn được dựng thành một phiên bản video lộng lẫy vào những năm 1980, mặc dù cuốn sách sau này có thể là tác phẩm tuyệt vời hơn. Trong những câu chuyện này, Waugh nhìn lại những năm 1930 và những năm chiến tranh với sự kết hợp của những lời chỉ trích và hối tiếc. Mặc dù con mắt tinh tường của anh vẫn sẵn sàng rút ra sự hài hước đen tối từ những điều phi lý của cuộc sống ở nước Anh hiện đại, nhưng trong những câu chuyện này vẫn xuất hiện sự đánh giá cao về những gì nền văn minh đã dần dần xây dựng theo thời gian và nhận ra rằng nó có thể bị vứt bỏ dễ dàng như thế nào, thậm chí bởi những người không nông cạn và lông bông như những nhân vật trong tiểu thuyết trước đó.
Lần đầu tiên, Giáo Hội Công Giáo cũng là một lực lượng nghiêm túc trong các câu chuyện của anh, mặc dù Giáo Hội cũng có ảnh hưởng hỗn hợp. Thí dụ, trong Brideshead Revisited, Giáo Hội phần lớn được đồng nhất với Mênh phụ Marchmain, một nữ quý tộc ngoan đạo, người đã chở chồng và con trai Sebastian đi uống rượu — rồi bỏ trốn (tên họ là Flyte). Đồng thời, đạo Công Giáo này cũng có yếu tố cứu chuộc, mặc dù nó phải diễn ra trong thời gian dài và khoảng cách. Tại một điểm quan trọng của câu chuyện, Mệnh phụ Marchmain đang đọc to một trong những câu chuyện trinh thám Father Brown của Chesterton, trong đó vị linh mục giải thích cách ngài bắt được một tên tội phạm. Nhưng vấn đề cũng liên quan đến các thành viên ương ngạnh trong gia đình và mọi người nói chung. Cordelia, một trong những cô con gái của Mệnh Phụ Marchmain và—giống như con gái của Vua Lear là Cordelia—một người nói sự thật, nhớ lại tình tiết sau đó:
“Anh có biết ba đã nói gì khi trở thành người Công Giáo không?... Người nói...: ‘Bạn đã đưa gia đình tôi trở lại với đức tin của tổ tiên họ.’... Gia đình không ổn định lắm phải không? Người đã biến mất, Sebastian đã biến mất và Julia đã biến mất. Nhưng Thiên Chúa sẽ không để họ đi lâu đâu, anh biết đấy. Tôi tự hỏi không biết anh có nhớ câu chuyện Má đã kể cho chúng ta nghe vào buổi tối lần đầu tiên Sebastian say xỉn không - ý tôi là buổi tối tồi tệ đó. Cha Brown đã nói điều gì đó đại loại như ‘Tôi đã bắt được hắn’ (tên trộm) ‘bằng một cái móc vô hình và một sợi dây vô hình đủ dài để cho hắn lang thang đến tận cùng thế giới và vẫn có thể đưa hắn trở lại chỉ với một cú giật trên sợi chỉ.’” (12)
Phụ đề của cuốn tiểu thuyết, "Những Ký ức Thánh thiêng và Phàm tục của Thuyền trưởng Charles Ryder", chỉ ra chủ đề chính của câu truyện. Ryder, cái tên gợi ý một cách tinh tế về một kiểu hiệp sĩ, gặp Sebastian Flyte tại Oxford, nơi họ nhanh chóng trở thành bạn bè và thậm chí có thể là người yêu đồng tính, như nhiều người đàn ông đã làm ở Oxford của Waugh. Sebastian toát lên vẻ quyến rũ trẻ trung, và phẩm chất bản thân đó, cùng với sự sang trọng của ngôi nhà và lối sống của gia đình anh, đã quyến rũ Charles và mang đến cho anh ta một giấc mơ lãng mạn về một cuộc sống mà anh ta chưa bao giờ đoán trước là có thể hiện hữu. Tuy nhiên, sự quyến rũ và niềm tin gia đình che giấu nhiều rắc rối, đặc biệt là cách mà Ngài Marchmain đã bỏ rơi gia đình vì tội lỗi — và sau đó lấy một tình nhân ở Venice. Khi Sebastian sa vào con đường tương tự, Charles thấy mình phẫn nộ với đạo Công Giáo vì cách nó hủy hoại các cuộc đời. Nhưng tất cả những điều này chỉ là khúc dạo đầu cho một quá trình mà chính anh sẽ kết cục trong Giáo hội.
Hơn một thập niên sau Oxford, Charles đã kết hôn và có con và là một họa sĩ lâu đời chuyên vẽ những ngôi nhà lớn của nước Anh và những chủ đề an toàn khác. Nhưng anh vô cùng bất hạnh và một cách nào đó lạnh lùng hẳn với các giấc mơ anh từng ấp ủ. Sebastian là một kẻ say rượu bị lạc ở đâu đó trên vùng đất Ả Rập. Vợ của Charles không chung thủy với anh, điều này đã đưa anh đến Mexico và Trung Mỹ để tìm kiếm những chủ đề kỳ lạ nhằm kích thích trí tưởng tượng của anh. Anh trở lại với nhiều bức tranh sơn dầu đã hoàn thành, nhưng Anthony Blanche, một người đồng tính luyến ái trắng trợn nhưng có tính giải trí cao, từng là bạn ở Oxford, xuất hiện tại cuộc triển lãm của anh. Anh ta đến, anh ta nói với Ryder, để xem những gì người bạn cũ của anh ta đã làm:
“Tôi đã tìm thấy, bạn thân mến, một trò đùa thực tế rất nghịch ngợm và rất thành công. Nó khiến tôi nhớ đến Sebastian thân yêu khi anh ấy rất thích để râu giả. Và cả sự quyến rũ nữa, bạn thân mến, một sự quyến rũ đơn giản, mịn mượt kiểu Anh, chơi với những con hùm.” Tôi nói, “Bạn nói khá đúng”.
“Bạn thân mến, tất nhiên là tôi đúng. Tôi đã đúng nhiều năm trước - nhiều năm hơn, tôi rất vui được nói thế, so với những gì cả hai chúng tôi cho thấy - khi tôi cảnh cáo bạn. Tôi đưa bạn ra ngoài ăn tối để cảnh cáo bạn về sự quyến rũ. Tôi đã cảnh cáo bạn một cách rõ ràng và chi tiết về gia đình Flyte. Sự quyến rũ là tai họa lớn của người Anh. Nó không hiện hữu ở bên ngoài những hòn đảo ẩm ướt này. Nó phát hiện và giết chết bất cứ thứ gì nó chạm tới. Nó giết chết tình yêu; nó giết chết nghệ thuật; tôi vô cùng sợ hãi, Charles thân mến, nó đã giết chết bạn.” (13)
Đây là Anthony Blanche đang nói, không phải Evelyn Waugh, nhưng thật khó để không phát hiện ra ở đây một yếu tố không hiện hữu trong những cuốn sách trước đó: sự quyến rũ như một tác nhân làm chết tâm linh, một tri nhận thực sự mới lạ.
Nhưng Anthony chưa nhìn thấy tất cả. Charles gặp Julia, em gái của Sebastian, trên con tàu đi từ New York về Anh. Trong cuộc vượt biển, anh nhận ra rằng Sebastian, giống như Thánh Gioan Tẩy Giả, chỉ là người báo trước và người phụ nữ rất giống anh trai mình này, chính là tình yêu định mệnh của đời anh. Họ bắt đầu ngoại tình, và tình yêu, như mọi khi, bắt đầu dẫn dắt mọi người theo những hướng đi mới. Họ nói rằng Thiên Chúa và toàn thể nhân loại dường như dàn trận chống lại họ, nhưng họ quyết tâm giữ lấy hạnh phúc của mình bất chấp mọi sự. Trong hai năm, họ tận hưởng niềm hạnh phúc tại Lâu đài Brideshead, “không một ngày lạnh nhạt, không tin tưởng hay thất vọng”. (14) Nhưng tất cả những gì có vẻ là hòa bình—và sự mong đợi về một cuộc sống lâu dài hơn khi việc ly dị của họ hoàn tất và họ có thể kết hôn—sắp bị phá hủy để tạo ra một nền hòa bình lớn hơn.
Còn tiếp