CHÚA NHẬT V PHỤC SINH B (Cv 9,26-31 ; 1 Ga 3,18-24 ; Ga 15,1-8)
1. Têrêsa: Mãu gương hiệp thông với Chúa:
Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, sinh năm 1873 tại A-lăng-sông (Alancon) nước Pháp. Ngay từ năm 15 tuổi, Tê-rê-sa đã được đặc ân gia nhập dòng kín Các-men. Chín năm sau, tức năm 1897, chị Tê-rê-sa đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thế mà, ngay sau khi qua đời, tiếng thơm nhân đức của ngài đã vang đi khắp nơi. Rồi 28 năm sau, tức vào năm 1925, Tê-rê-sa đã được Đức Pi-ô XI phong lên bậc hiển thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Mới đây, Đức Gio-an Phao-lô Đệ Nhị lại phong Tê-rê-sa làm tiến sĩ của Hội Thánh.
Đọc tiểu sử của thánh nữ, ta thấy chị không phải vất vả đi khắp nơi giảng dạy giáo lý Thánh Kinh cho dân chúng, đương đầu với lạc giáo như thánh Đa-minh; Không sống khắc khổ hay ăn chay đánh tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; Không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê ; Không để lại nhiều tác phẩm có giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô ; Không làm nhiều phép lạ giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; Không chịu cực hình đau khổ để làm chứng cho Chúa như các thánh tử đạo Việt Nam... Thế nhưng tại sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại Thánh của thế kỷ XX và XXI? Thưa chính là nhờ chị có đời sống nội tâm đạo đức, luôn kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su như cành nho gắn liền với thân cây nho. Nhờ sự kết hiệp đó, dù không làm được những việc lớn lao bề ngoài, nhưng Tê-rê-sa đã đem lại nhiều ích lợi cho Hội Thánh, đặc biệt là đường lối nên thánh của chị thánh phù hợp với Lời Chúa dạy và với tâm lý của con người thời đại mới. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su, mà Tê-rê-sa đã đem lại một sinh lực mới cho Hội Thánh, như lời Chúa phán: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
2. Hiệp thông với Chúa như cành nho kết hiệp với thân cây nho:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự hiệp thông với Đức Giê-su là điều kiện để đức Tin của các môn đệ phát sinh hoa trái. Cũng như cành nho phải kết hiệp mật thiết với thân cây mới sinh hoa kết quả thế nào, thì các tín hữu cũng phải kết hiệp mật thiết vối Chúa Giê-su mới có thể chu tòan sứ mệnh làm vinh danh cho Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.
3. Hiệp thông với Chúa để hiệp thông với tha nhân:
Qua tác phẩm “Tự thuật” mà Tê-rê-sa đã vâng lời bề trên trình bày về linh đạo của mình. Linh đạo ấy được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng, là Đức Bác Ái rút ra từ lời dạy và gương lành của Đức Giê-su trong Tân Ước, và được tóm gọn như sau:
- Luôn tin yêu phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, giống như đứa con thơ ở trong lòng bà mẹ.
- Quyết tâm thực thi tình mến Chúa yêu người trong cuộc sống hằng ngày: “Sống đời thường bằng một cách thức phi thường”.
- Tận hiến toàn thân để làm vinh danh Chúa và khiêm nhường phục vụ tha nhân.
- Vui vẻ đón nhận những sự hiểu lầm bất công hay khinh dể của tha nhân, như những món quà Chúa gởi đến giúp ta nên thánh.
Tê-rê-sa đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau: “Đức Ái đã cho tôi thấy chìa khóa về ơn gọi của tôi. Tôi hiểu rằng: nếu Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều chi thể, thì các chi thể đương nhiên phải có một chi trọng yếu hơn. Đó là trái tim luôn cháy lửa yêu mến. Chỉ có lòng mến mới thúc bách mọi thành viên trong Hội Thánh hăng hái hoạt động. Nếu ngọn lửa mến đó tắt đi thì các tông đồ không còn rao giảng Tin mừng, các vị tử đạo sẽ không hy sinh đổ máu. Tôi hiểu lòng mến bao trùm mọi ơn gọi khác, bao quát mọi không gian và thời gian. Tóm lại lòng mến là vĩnh cửu”. Quả vậy, chính lòng mến Chúa tha thiết đã làm cho Tê-rê-sa tiến lên tới đỉnh trọn lành, và kết thúc cuộc đời trong sự bình an hạnh phúc.
Về đời sống nội tâm, Tê-rê-sa đã thưa với Đức Giê-su trong cuốn Tự Thuật như sau: “Ôi Giê-su là Tình Yêu của con. Con đã khám phá ra ơn gọi của con là Sống Tình Yêu! Con đã tìm ra chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh là mẹ con mà Chúa đã ban cho con. Con sẽ là Tình Yêu, và như vậy con sẽ là tất cả...”
4. Lạy Chúa Giêsu.
Hôm nay xin Chúa cũng giúp chúng con biết noi gương Đức Maria trong việc hiệp thông với Chúa và với tha nhân: Sau khi thụ thai Hài nhi Giêsu, Mẹ đã đem Thai Nhi đi viếng thăm bà chị họ để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho cả gia đình Gia-ca-ri-a. Nhờ đó thai nhi Gio-an Tẩy Giả đã nhảy mừng trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Xin cho chúng con hôm nay, mỗi lần dự lễ và rước Chúa Giêsu vào lòng, cũng biết đem Chúa là tình yêu đến chia sẻ cho những người thân chưa tin nhận Chúa, thăm viếng thắt chặt tình thân với các thành viên trong cộng đoàn… và sẵn sàng khiêm tốn phục vụ Chúa hiện thân trong những người neo đơn bệnh tật và bất hạnh... Nhờ được luôn hiệp thông với Chúa, chúng con sẽ biết quên mình, vác thập giá là những rủi ro trái ý gặp phải hằng ngày và bước theo chân Chúa trên đường lên Núi Sọ noi gương Mẹ Maria xưa. AMEN.
1. Têrêsa: Mãu gương hiệp thông với Chúa:
Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, sinh năm 1873 tại A-lăng-sông (Alancon) nước Pháp. Ngay từ năm 15 tuổi, Tê-rê-sa đã được đặc ân gia nhập dòng kín Các-men. Chín năm sau, tức năm 1897, chị Tê-rê-sa đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thế mà, ngay sau khi qua đời, tiếng thơm nhân đức của ngài đã vang đi khắp nơi. Rồi 28 năm sau, tức vào năm 1925, Tê-rê-sa đã được Đức Pi-ô XI phong lên bậc hiển thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Mới đây, Đức Gio-an Phao-lô Đệ Nhị lại phong Tê-rê-sa làm tiến sĩ của Hội Thánh.
Đọc tiểu sử của thánh nữ, ta thấy chị không phải vất vả đi khắp nơi giảng dạy giáo lý Thánh Kinh cho dân chúng, đương đầu với lạc giáo như thánh Đa-minh; Không sống khắc khổ hay ăn chay đánh tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; Không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê ; Không để lại nhiều tác phẩm có giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô ; Không làm nhiều phép lạ giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; Không chịu cực hình đau khổ để làm chứng cho Chúa như các thánh tử đạo Việt Nam... Thế nhưng tại sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại Thánh của thế kỷ XX và XXI? Thưa chính là nhờ chị có đời sống nội tâm đạo đức, luôn kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su như cành nho gắn liền với thân cây nho. Nhờ sự kết hiệp đó, dù không làm được những việc lớn lao bề ngoài, nhưng Tê-rê-sa đã đem lại nhiều ích lợi cho Hội Thánh, đặc biệt là đường lối nên thánh của chị thánh phù hợp với Lời Chúa dạy và với tâm lý của con người thời đại mới. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su, mà Tê-rê-sa đã đem lại một sinh lực mới cho Hội Thánh, như lời Chúa phán: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
2. Hiệp thông với Chúa như cành nho kết hiệp với thân cây nho:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự hiệp thông với Đức Giê-su là điều kiện để đức Tin của các môn đệ phát sinh hoa trái. Cũng như cành nho phải kết hiệp mật thiết với thân cây mới sinh hoa kết quả thế nào, thì các tín hữu cũng phải kết hiệp mật thiết vối Chúa Giê-su mới có thể chu tòan sứ mệnh làm vinh danh cho Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.
3. Hiệp thông với Chúa để hiệp thông với tha nhân:
Qua tác phẩm “Tự thuật” mà Tê-rê-sa đã vâng lời bề trên trình bày về linh đạo của mình. Linh đạo ấy được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng, là Đức Bác Ái rút ra từ lời dạy và gương lành của Đức Giê-su trong Tân Ước, và được tóm gọn như sau:
- Luôn tin yêu phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, giống như đứa con thơ ở trong lòng bà mẹ.
- Quyết tâm thực thi tình mến Chúa yêu người trong cuộc sống hằng ngày: “Sống đời thường bằng một cách thức phi thường”.
- Tận hiến toàn thân để làm vinh danh Chúa và khiêm nhường phục vụ tha nhân.
- Vui vẻ đón nhận những sự hiểu lầm bất công hay khinh dể của tha nhân, như những món quà Chúa gởi đến giúp ta nên thánh.
Tê-rê-sa đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau: “Đức Ái đã cho tôi thấy chìa khóa về ơn gọi của tôi. Tôi hiểu rằng: nếu Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều chi thể, thì các chi thể đương nhiên phải có một chi trọng yếu hơn. Đó là trái tim luôn cháy lửa yêu mến. Chỉ có lòng mến mới thúc bách mọi thành viên trong Hội Thánh hăng hái hoạt động. Nếu ngọn lửa mến đó tắt đi thì các tông đồ không còn rao giảng Tin mừng, các vị tử đạo sẽ không hy sinh đổ máu. Tôi hiểu lòng mến bao trùm mọi ơn gọi khác, bao quát mọi không gian và thời gian. Tóm lại lòng mến là vĩnh cửu”. Quả vậy, chính lòng mến Chúa tha thiết đã làm cho Tê-rê-sa tiến lên tới đỉnh trọn lành, và kết thúc cuộc đời trong sự bình an hạnh phúc.
Về đời sống nội tâm, Tê-rê-sa đã thưa với Đức Giê-su trong cuốn Tự Thuật như sau: “Ôi Giê-su là Tình Yêu của con. Con đã khám phá ra ơn gọi của con là Sống Tình Yêu! Con đã tìm ra chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh là mẹ con mà Chúa đã ban cho con. Con sẽ là Tình Yêu, và như vậy con sẽ là tất cả...”
4. Lạy Chúa Giêsu.
Hôm nay xin Chúa cũng giúp chúng con biết noi gương Đức Maria trong việc hiệp thông với Chúa và với tha nhân: Sau khi thụ thai Hài nhi Giêsu, Mẹ đã đem Thai Nhi đi viếng thăm bà chị họ để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho cả gia đình Gia-ca-ri-a. Nhờ đó thai nhi Gio-an Tẩy Giả đã nhảy mừng trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Xin cho chúng con hôm nay, mỗi lần dự lễ và rước Chúa Giêsu vào lòng, cũng biết đem Chúa là tình yêu đến chia sẻ cho những người thân chưa tin nhận Chúa, thăm viếng thắt chặt tình thân với các thành viên trong cộng đoàn… và sẵn sàng khiêm tốn phục vụ Chúa hiện thân trong những người neo đơn bệnh tật và bất hạnh... Nhờ được luôn hiệp thông với Chúa, chúng con sẽ biết quên mình, vác thập giá là những rủi ro trái ý gặp phải hằng ngày và bước theo chân Chúa trên đường lên Núi Sọ noi gương Mẹ Maria xưa. AMEN.