TẤM LÒNG CHO NGƯỜI NGHÈO SƯU TẬP SƠ KHỞI NHỮNG KỶ NIỆM VỀ

LINH MỤC PHÊRÔ TUẦN NGUYỄN CAO HIÊN


(1922-2009)

LỜI GIỚI THIỆU

________________________________________________

LINH MỤC HẠT TRƯỞNG PHÚ YÊN

Gần ngày “giáp năm qua đời” của cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên, tự nhiên nhớ lại hai câu thơ cổ:

“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,

Xếp tàn y lại để dành hơi”

Phải chăng ý câu thơ là nhằm để diển tả mối thâm tình da diết của hai kẻ yêu nhau, có lẽ là hai vợ chồng, một kẻ ở miền dương, một kẻ đã sang bên kia thế giới. Kẻ ở lại quá nhớ thương đến độ muốn “đập cổ kính để tìm lấy bóng” và chắt chiu xếp từng manh áo cũ lại để còn ngửi được mùi hương xưa (Xếp tàn y lại để dành hơi).

Cho dầu vậy, thì ở đây, bây giờ, vẫn có thể áp dụng cho những hồi ức, nhớ thương của bao nhiêu người dành cho cha cố Hiên trong dịp tưởng niệm 1 năm qua đời của ngài.

Quả thật, đối với cha Nguyễn Cao Hiên, không cần “đập cổ kính”, chúng ta vẫn tìm gặp được “bóng” ngài thấp thoáng trên vạn nẻo đường ngài đã đi qua trong cuộc đời mục tử mà biết bao anh chị em đã một lần gặp được ngài là một lần nhớ mãi không quên.

Đó là cái bóng thánh thiện và đạo đức, cái bóng của lòng tận tụy chăm sóc các linh hồn, cái bóng của trái tim nhạy cảm luôn sẵn sàng mở ra để đón nhận và yêu thương anh chị em, nhất là những người nghèo bơ vơ cùng khổ…Đó cũng là cái bóng của những giờ cầu nguyện sốt sắng miệt mài trước Thánh Thể, cái bóng của những nụ cười hồn nhiên, dí dỏm của huynh đệ sẻ chia, cái bóng của giản đơn, khó nghèo luôn bóc lột chính mình đến đói khát, trần trụi để cho kẻ khác có được một mảnh áo cũ, một chén cơm đơn…

Cái “bóng” người mục tử mà nếu có gọi là “Alter Christus” thì cũng chẳng phải là một điều “thậm xưng”, phải chăng đã hiển hiện trên bao nhiều cây số cuộc đời, để mỗi một không gian ngài có mặt thì đều ghi lại dấu ấn, để mỗi một thời gian ngài phục vụ thì đều mang theo những kỷ niệm khó phai.

Hôm nay, nhân ngày giỗ giáp một năm qua đời của ngài (19.9.2009-19.9.2010), chúng ta cùng thắp nén hương kính nhớ và cùng ngồi lại kể cho nhau nghe những mẫu chuyện về ngài, như một nghĩa cử của lòng tri ân hiếu thảo, và như một cơ hội để “ôn cố tri tân”.

Sau hết, tưởng nhớ đến ngài trong dịp kỷ niệm một năm qua đời, phải chăng để chúng ta càng xác tín hơn chính Lời Chúa dạy trong sách Khôn Ngoan để lại bắt đầu bước theo những dấu chân đẹp của “những người công chính”:

“Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa….Chúa đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu…” (Kn 3,1-9)

LM. Giuse Trương Đình Hiền

ĐÔI LỜI CỦA NHÓM SƯU TẬP

___________________________________________________________

Ngay từ lúc nghe tin Cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên về với Chúa, đã có những người cầm bút viết về ngài. Một số người khác đã viết khi nghe các cha khuyến khích viết. Phần chúng tôi, cũng đã có ý định thực hiện sưu tập sơ khởi những bài chia sẻ ấy vào dịp giỗ 100 ngày. Thế nhưng hoàn cảnh chưa cho phép, mãi hôm nay mới thực hiện được.

Chắc hẳn mỗi tâm tình chân thành thốt lên trong tập mỏng này đều có một âm hưởng rất tốt trên mỗi người chúng ta. Dù còn ít ỏi nhưng cũng đã phần nào phác họa được chặng đường 45 năm cuối đời ngài, với những nhân đức anh hùng nổi bật.

Chúng tôi hy vọng tập mỏng này sẽ là một gợi hứng giúp có thêm nhiều người mạnh dạn viết về vị linh mục sáng ngời của chúng ta. Vâng, cần phải mạnh dạn viết lên. Có biết bao gương mù gương xấu được phơi bày và tô đậm trên sách báo, phim ảnh và cả trong cuộc sống, khiến lắm khi chúng ta phải thở dài ngao ngán. Tuy nhiên đức trông cậy dạy chúng ta không được cầu an chủ bại. Cần can đảm đứng về phía sự thánh thiện, đề cao sự thánh thiện và chạy đua trên con đường thánh thiện. Mỗi dòng chữ chúng ta viết về cha Phêrô tốt lành của chúng ta sẽ là một đòn chí tử đánh vào thần dữ để tôn vinh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ thánh Ngài.

Ngay từ khi Cha Phêrô nằm xuống, đã có những anh chị em khấn nguyện với ngài. Nếu ai thấy mình đã nhận được ơn Chúa do sự chuyển cầu của Cha Phêrô cũng xin kể lại tường tận sự việc.

Xin Anh Chị Em giúp nhau, người nào viết lách dễ hơn thì ghi lại giúp người không quen viết. Nếu ai không quen viết và cũng chẳng tìm được người viết giúp thì gọi điện cho chúng tôi (Lm Võ Tá Khánh, 0935-424-449), chúng tôi sẽ tìm người có khả năng ở gần đến giúp.

Chúng con cũng ước mong Quí Cha và Quý Thầy Dòng Đồng Công đã từng chung sống với Cha Phêrô viết giúp về những giai đoạn trong Dòng. Chúng tôi cũng ước mong các chị em Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, Dòng Thánh Phaolô, Dòng Con Đức Mẹ Trinh Vương, các thân nhân và đồng hương của Cha Phêrô viết cho chúng tôi những điều mà quý Chị và quý Vị biết được về cha Phêrô, từ ấu thời cho tới khi ngài thi hành tác vụ linh mục.

Các bài viết xin gởi cùng lúc về 3 điện chỉ email:

gopnhattho@yahoo.com, josdhien@yahoo.com,

paulchinh@yahoo.com.

Nếu là bài viết trên giấy, xin gởi về:

Lm Võ Tá Khánh, Tòa Giám Mục Qui Nhơn, 116 Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn.

Chúng tôi cũng tha thiết ước mong bà con ngoài Công giáo, những ai đã có dịp tiếp xúc với Cha Phêrô và có những kỷ niệm đáng nhớ về ngài, xin vui lòng ghi lại giúp chúng tôi và gởi về theo các email số điện thoại và địa chỉ nói trên.

Ngoài ra, Cha Hạt Trưởng Phú Yên đã dành một tủ gương tại Trung Tâm Mục Vụ Anrê Phú Yên để lưu giữ những kỷ vật về Cha Phêrô. Anh chị em và bà con nào còn giữ được những thư từ và những mẩu giấy viết tay của ngài, những hình ảnh đáng nhớ về ngài, những bài giảng viết tay hoặc đánh máy, những bản hướng dẫn phụng vụ và những tư liệu khác in ronéo ngài đã làm… Xin vui lòng gởi về cha Cha Hạt Trưởng Phú Yên. Những tư liệu nào quý vị không thể cho luôn bản chính thì xin phép cho chúng tôi được sao chụp lại.

Sau cùng, do thời gian eo hẹp, thực hiện vội vã, trong tập này còn có nhiều sai sót. Xin quý độc giả giúp phát hiện và điều chỉnh.

Xin chân thành cám ơn tất cả mọi người.

Nguyện xin Thiên Chúa ban muôn phúc lành cho Anh Chị Em.

Qui Nhơn, ngày 03-9-2010

Thay lời nhóm sưu tầm,

Linh mục Gioan Phêrô Võ Tá Khánh

TIỂU SỬ: Cha PHÊRÔ-TUẦN NGUYỄN CAO HIÊN

___________________________________________

Sinh ngày: 05/02/1922

Nguyên quán: Tân Mỹ, Quỳnh Lang, Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình.

Cha: Đaminh Nguyễn Văn Thứ

Mẹ: Maria Nguyễn Thị Yên

1934 – 1937: Học Trường Tập, Trung Linh.

1937 – 1941: Tiểu Chủng Viện Ninh Cường.

1941 – 1943: Học Đại Chủng Viện Xuân Bích, Hà Nội.

1943 – 1944: Giúp Tiểu Chủng Viện Ninh Cường.

1945 – 1950: Học ĐCV Quần Phương, Bùi Chu.

16- 04- 1950: Thụ phong Linh Mục.

1950 – 1954: Phụ tá Trường Tập, Ninh Cường, Bùi Chu.

1954 – 1955: Linh hướng công binh Bùi Chu - Phát Diệm tại Nha Trang.

1955 – 1956: Văn phòng giám mục di cư tại Sài Gòn.

1956 – 1959: Giám đốc khu B Latinh (Tiểu Chủng Viện), Tân Phước, Sài Gòn.

1960 – 1963: Nhập Dòng Đồng Công, Thủ Đức, Sài Gòn.

1963 – 1964: Linh hướng Dòng Lasan tại Qui Nhơn.

1964 – 1966: Cha phó Chính Tòa, Qui Nhơn.

1966 – 1969: Linh hướng Tiểu Chủng Viện Qui Nhơn.

1969 – 1971: Cha sở Qui Hải, giáo phận Qui Nhơn.

1971 – 1997: Cha sở Tịnh Sơn, giáo phận Qui Nhơn.

8/1997 – 11/1997: Cha sở Mằng Lăng, GP.QN.

11/1997 – 4/1998: về lại giáo xứ Tịnh Sơn, GP.QN.

1998 – 2001: Cha sở Đồng Mỹ, giáo phận Qui Nhơn.

2001 – 2002: Hưu dưỡng tại nhà hưu Làng Sông QN.

2002 – 2005: Hưu dưỡng tại nhà hưu GP.QN.

2005 – 2007: Hưu dưỡng tại trụ sở Bùi Chu, Sài Gòn, và linh hướng các thầy thần học tại TGM Bùi Chu.

2007 – 2009: Hưu dưỡng tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Thủ Đức.

19- 9- 2009: Qua đời tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Thủ Đức, Tp. HCM. Lúc 19 giờ 15



1922-1934: QUÊ HƯƠNG, GIA ĐÌNH VÀ GIA TỘC


_______________________________________________

Sinh ngày: 05/02/1922

Nguyên quán: Tân Mỹ, Quỳnh Lang, Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình.

Cha: Đaminh Nguyễn Văn Thứ

Mẹ: Maria Nguyễn Thị Yên

Phần này chưa có thông tin.

Nhóm sưu tập rất mong được quý thân nhân và bà con đồng hương của Cha Phêrô tiếp tay giúp đỡ: những tư liệu về gia đình, gia tộc, làng quê và giáo xứ cũng như những kỷ niệm về Cha Phêrô.

Xin liên lạc theo những chỉ dẫn ở đầu sách.

Chân thành cám ơn.

1934-1950:

ĐƯỜNG LÊN BÀN THÁNH


______________________________________________

1934 – 1937: Học Trường Tập, Trung Linh.

1937 – 1941: Tiểu Chủng Viện Ninh Cường.

1941 – 1943: Học Đại Chủng Viện Xuân Bích, Hà Nội.

1943 – 1944: Giúp Tiểu Chủng Viện Ninh Cường.

1945 – 1950: Học Đại Chủng Viện Quần Phương, Bùi Chu.

16- 04- 1950: Thụ phong Linh Mục.

Phần này chưa có thông tin.

Nhóm sưu tập rất mong được quý đồng môn của Cha Phêrô tiếp tay giúp đỡ: những tư liệu về Trường Tập và các Chủng Viện liên hệ trong giai đoạn này cũng như những kỷ niệm về Cha Phêrô.

Xin liên lạc theo những chỉ dẫn ở đầu sách.

Chân thành cám ơn.

1950-1954:

PHỤC VỤ TẠI BÙI CHU


______________________________________________

1950 – 1954: Phụ tá Trường Tập, Ninh Cường, Bùi Chu.

Phần này chưa có thông tin.

Nhóm sưu tập rất mong được quý cựu học sinh của Cha Phêrô tiếp tay giúp đỡ: những tư liệu về Trường Tập trong giai đoạn này cũng như những kỷ niệm về Cha Phêrô.

Xin liên lạc theo những chỉ dẫn ở đầu sách.

Chân thành cám ơn.

1954-1959: TỪ NHA TRANG ĐẾN SÀI GÒN

_______________________________________________

1954 – 1955: Linh hướng công binh Bùi Chu - Phát Diệm tại Nha Trang.

1955 – 1956: Văn phòng giám mục di cư tại Sài Gòn.

1956 – 1959: Giám đốc khu B Latinh (Tiểu Chủng Viện), Tân Phước, Sài Gòn.

Phần này chưa có thông tin.

Nhóm sưu tập rất mong được những vị đã biết Cha Phêrô trong giai đoạn này tiếp tay giúp đỡ, những tư liệu về những tổ chức liên quan trong giai đoạn này cũng như những kỷ niệm về Cha Phêrô.

Xin liên lạc theo những chỉ dẫn ở đầu sách.

Chân thành cám ơn.

1960-1963:

BƯỚC THEO ĐỨC MẸ ĐỒNG CÔNG CỨU CHUỘC

________________________________________________

1960 – 1963: Nhập Dòng Đồng Công, Thủ Đức, Sài Gòn.

Phần này chưa có thông tin.

Nhóm sưu tập rất mong được quý Cha, quý Thầy và quý Cựu tu sĩ Dòng Đồng Công đã biết Cha Phêrô trong giai đoạn này tiếp tay giúp đỡ: những tư liệu về Dòng trong giai đoạn này cũng như những kỷ niệm về Cha Phêrô.

Xin liên lạc theo những chỉ dẫn ở đầu sách.

Chân thành cám ơn.

1963-1964:

LINH HƯỚNG DÒNG LA SAN QUI NHƠN


_____________________________________________

1963 – 1964: Linh hướng Dòng Lasan tại Qui Nhơn.

Phần này chưa có thông tin. Nhóm sưu tập rất mong được quý Sư huynh La San và quý Cựu học sinh La San đã biết Cha Phêrô trong giai đoạn này tiếp tay giúp đỡ: những tư liệu về Trường La San Qui Nhơn trong giai đoạn này cũng như những kỷ niệm về Cha Phêrô.

Xin liên lạc theo những chỉ dẫn ở đầu sách.

Chân thành cám ơn.

1964-1966:

PHÓ XỨ CHÁNH TÒA QUI NHƠN


______________________________________________

1964 – 1966: Cha phó Chính Tòa, Qui Nhơn.

Phần này chưa có thông tin.

Nhóm sưu tập rất mong được quý Cha, quý Thầy, quý Nữ tu và Anh chị em Giáo dân đã biết Cha Phêrô trong giai đoạn này tiếp tay giúp đỡ. Xin liên lạc theo những chỉ dẫn ở đầu sách.

Chân thành cám ơn.

1966-1969:

LINH HƯỚNG TIỂU CHỦNG VIỆN QUI NHƠN


_________________________________________

Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên phục vụ tại Tiểu Chủng Viện Qui Nhơn từ 1965 đến 1969, dưới thời các cha Giám đốc: Philipphê Huỳnh Tòa (1965-1966), Trịnh Hoài Ân (1966-1967) và Phaolô Huỳnh Đông Các (1967-1974).

Các cha giáo sư cùng thời với cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên: Phêrô Huỳnh Kim Lăng, Phaolô Nguyễn Thanh Bình, Đỗ Văn Diệp, Huỳnh Tấn Công, Nguyễn Trường Cửu, Hoàng Kym, Phạm Thanh, Hoàng Tự, Trương Phúc Tinh và Khổng Năng Bao.

Các thầy giúp chủng viện: Nguyễn Đình Sáng, Bạch Quang Cậy (1965-66), Nguyễn Cấp, Nguyễn Minh Lương (1965-1967), Nguyễn Hoàng Trí, Lê Tân Tiến (1966-1967), Hoàng Đức Minh, Nguyễn Văn Kính, Nguyễn Ngọc Tước (1967-68), Nguyễn Trung Tấn, Võ Đình Sen, Võ Đình Hoa (1968-1969), Nguyễn Công Sanh, Đặng Son (1969-1970).

Niên khóa 1965-66 có 131 tiểu chủng sinh: Qui Nhơn và 65 chủng sinh Đà Nẵng. Niên khóa 1969-1970, tổng số tiểu chủng sinh là 194.

TRONG HỒI ỨC CỦA TÔI

____________________________________________________

Cát Giang.

Giáo phận Quy Nhơn kính báo

LM Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên

đã được Chúa gọi về lúc 19:30 ngày 19/9/2009

sau hơn 3 tháng ngã bệnh ung thư.



Cha Phêrô là một linh mục gương mẫu,

là chứng nhân đời sống khó nghèo bác ái huynh đệ

và niềm vui trong sứ mạng phục vụ tha nhân.

Giáo phận Quy Nhơn

Vâng, cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên là một linh mục gương mẫu, là chứng nhân đời sống khó nghèo bác ái huynh đệ. Đó là những điều không cần bàn cải.

Với chúng tôi, những học trò cũ của ngài, mỗi khi có dịp ngồi lại với nhau, thì dù nêu ra bất cứ chuyện gì đều luôn có người bàn cãi phải trái này nọ nhưng hễ khi nào nhắc tới cha Phêrô thì tất cả đều công nhận rằng đời ngài quả là một tấm gương sáng, hơn thế nữa, ngài là một vị thánh.

Chúng tôi thật có phước khi được ngài làm cha linh hướng suốt mấy năm Tiểu chủng viện. Sống gần một vị thánh, tâm hồn ta cũng được lây cái sự thánh. Giọng giáo huấn ấm áp của ngài từng sáng, từng trưa, từng chiều tối vang lên như dòng nước trong, gội rửa tâm hồn mỗi người.

Chúng tôi được học biết rằng khi chọn đời chủng sinh là chọn con đường theo Chúa với một tâm hồn quảng đại và một trái tim trong sạch.

Chúng tôi được học biết rằng theo Chúa là phải biết từ bỏ mọi sự, từ bỏ chẳng những các tính hư tật xấu mà còn bỏ cả những khuyết điểm vì “nóng thì nóng hẳn, lạnh thì lạnh hẳn, ương ương dở dở Ta mửa ngươi ra” (Kh 3,16).

Chúng tôi được học để biết rằng linh mục là một “nghề ” cao quý, nghề chăn dắt linh hồn và rằng làm nghề mà không biết nghề là một điều bỉ ổi …

Linh mục là một Alter Christus.

Và cứ thế từng ngày, mỗi người qua sự dẫn dắt của ngài trở nên tốt hơn, biết nhìn mọi sự qua con mắt đức tin, biết hy sinh, cầu nguyện …

Còn nhớ khi mới bước chân vào chủng viện, cái tật xấu quay cóp bài làm ở ngoài được đưa luôn vào trường. Cả lớp mỗi khi trả bài đều bắt gặp cảnh quay ngang liếc dọc. Thế mà với sự dạy bảo của ngài thì đến kỳ tết năm ấy, qua hai Tam cá nguyệt (một niên học thời ấy chia làm 3 Tam cá nguyệt), mỗi chúng tôi khi làm bài cho dù không người coi ngó đều thực hiện cách trung thực

Mà chúng tôi nghe lời ngài dạy, chân thành bày tỏ mọi chuyện với ngài không phải chỉ vì lời giáo huấn mà hơn thế, vì chính cuộc sống thánh thiện, vì tấm gương đạo đức của ngài. Chỉ cần gặp ngài, nói chuyện với ngài là ta cảm thấy hương thánh thiện tỏa lan. Cái đạo đức của ngài được đặt trên nền tảng kết hợp cùng Chúa trong mọi sự, luôn phó thác và vui sống bình an.

Với tha nhân ngài đầy quảng đại. Còn nhớ tài sản đáng giá nhất của ngài thuở đó là bộ loa, nhưng vì cần cảm hóa một thanh niên nghiện xì ke ở phố về niềm tin vào con người nên khi anh ta hỏi mượn để mừng sinh nhật ngài đã không ngần ngại đưa cho, dù biết thế là nguy hiểm. Và quả thật hắn ta đã phụ lòng tin của ngài khi bán mất món đồ ấy, trở về ngài chỉ nói với chúng tôi là hãy cùng cầu nguyện cho anh ta.

Cũng là linh hướng cho một trại tù nên thỉnh thoảng, để giáo dục các chú biết quan tâm đến tha nhân, ngài lại yêu cầu chúng tôi giặt sạch quần áo dư để làm quà cho các tù nhân. Việc tuy nhỏ nhưng sức giáo huấn cao.

Còn nhớ vào một buổi sáng đang lúc ngài dạy giáo lý cho lớp chúng tôi ở tầng trệt, một bà lão ăn xin không hiểu sao đi lọt được vào chủng viện. Đứng phía ngoài thềm, bà già vừa đưa chiếc nón rách ra thì cha giám đốc từ đàng xa đã bước tới la lên:

- Bà kia ! Ai cho bà vào đây ! Đi ra ngoài ngay !

Bà lão chưa kịp phản ứng gì thì cha Hiên đã bước ra giọng đầy nhỏ nhẹ:

- Mời bác bước ra ngoài vì đây là nhà tu.

Rồi như để sửa cái lỗi nóng tính có thể làm gương xấu, trước chúng tôi ngài đã thẳng thắn nói với cha giám đốc:

- Cha nên trách người gác cổng chứ đừng nên trách bà già.

Khi ra làm cha sở giáo xứ Tịnh Sơn, một giáo xứ miền núi, đời sống của ngài cũng được mọi người thán phục. Ngài không giữ một cái gì cho riêng mình. Trong nhà, từ lon gạo cho đến vật dụng, giáo dân hoặc bất kỳ ai cần đến thì ngài cũng sẵn sàng cho đi. Phòng ở rất đơn sơ chỉ gồm một chiếc giường gỗ và một cái bàn nhỏ để làm việc. Tin tưởng nơi tình thương của ngài nên thỉnh thoảng trước sân nhà thờ một vài đứa bé sơ sinh đã được bỏ lại, mặc cho ngài lo toan …

Sau ngày giải phóng, cuộc sống khó khăn, một mình ngài trong nhà xứ lo toan mọi chuyện. Bữa cơm chỉ là ít con cá khô, chén nước mắm … tự nấu. Giáo dân có cho gì thì ngài lại đem cho những người túng thiếu … Nhưng lúc nào gặp ngài là ta lại gặp nụ cười ấm áp hiền hòa.

Cuộc đời của ngài đúng là được dành để cho đi, để được sống trọn vẹn cho Chúa. Với thiên chức linh mục, suốt đời ngài đã tận tụy phục vụ tha nhân.

Xin được thắp một nén hương để tỏ lòng kính nhớ cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên.

Cát Giang.

PHƯƠNG PHÁP HUẤN LUYỆN CỦA CHA LINH HƯỚNG

____________________________________________

Kính nhớ Cha Linh hướng Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên

Pet. Nguyễn Bình Thuận

Hồi còn ở TCV, làm chú nhỏ, hai việc trong tuần đáng lo và hồi hộp nhất là xưng tội và gặp Linh hướng. Xưng tội hàng tuần thì không biết tội gì mà xưng nữa. Còn gặp Linh hướng phải đem nhật ký lên trình, nhưng khổ nỗi nhật ký trắng trơn không biết viết gì vào đấy.

Có một lần vào sáng Thứ Tư, như thường lệ tới phiên gặp Linh hướng, để đối phó tôi nguệch ngoạc liệt kê vài việc vào quyển nhật ký lên trình Ngài. Sau khi xem qua mấy trang nhật ký của tôi, Ngài lắc đầu: “Đi tu mà như thế này thì về quách cho rồi!” Tôi giật thót cả người và sợ lắm (sợ bị đuổi). Sau một hồi yên lặng, Ngài dịu giọng: “Nhưng vẫn chưa muộn đâu”. Quả thật vẫn chưa muộn, Ngài an ủi và tập cho tôi làm việc thiêng liêng. Ngài bảo tôi sau mỗi giờ học (lúc giải trí 15 phút) thì lên nhà nguyện viếng Chúa, cầu nguyện, thưa chuyện với Chúa và dâng những khó khăn lên Chúa. Việc viếng Chúa sau thành thói quen và hiệu quả là giúp tôi gần Chúa hơn, tăng thêm lòng sốt mến và cảm thấy bình an. Dần dần những trang nhật ký từng ngày là những xét mình, quyết tâm sửa đổi, những việc lành thực hiện một cách đơn sơ và khiêm tốn. Tôi cảm nhận Ngài muốn uốn nắn các chủng sinh tương lai sẽ là những Linh mục thánh thiện, kết hiệp mật thiết với Chúa, mỗi ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô hơn.

40 năm sau tôi có dịp mời Cha Bản[1] đến nhà dùng cơm, anh em gặp nhau mừng lắm. Trong lúc tâm sự Ngài khiêm nhường thố lộ: “Em có một thói quen là mỗi khi có vấn đề khó giải quyết thì khi viếng Chúa. Em trình bày với Chúa, xin Ngài giúp đỡ, phó dâng hết cho Chúa và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài. Thật là tuyệt vời, mọi sự đều êm xuôi.”

Viếng Chúa chính là bài học quý giá mà Cha Linh Hướng đã dùng để huấn luyện anh em chúng tôi, bài học không bao giờ bị lỗi thời.

Pet. Nguyễn Bình Thuận

HỒI ỨC VỀ CHA PHÊRÔ TUẦN NGUYỄN CAO HIÊN

_____________________________________________________________

Linh mục Antôn Nguyễn huy Điệp

Hồi tưởng về Cha Phêrô, là nhớ về hình ảnh một người cha thánh thiện, lạc quan và độ lượng. Bây giờ nghĩ lại, tôi chợt nhận ra mình có rất nhiều ấn tượng về Ngài, nhưng ấn tượng nhất là Ngài đã hiện diện bên tôi ở những khúc quanh quan trọng trên hành trình Ơn gọi Linh mục.

Khởi đầu hành trình “đi tu”, tôi đã gặp Ngài. Năm 1967, tôi vào Chủng viện Qui Nhơn, thì lúc đó Ngài đang là cha giáo và linh hướng cho các chú nhỏ. Cảm tưởng đầu tiên khi tôi tiếp xúc với Ngài: Đây là một Cha linh hướng nghiêm trang và đạo đức. Dáng vẻ bên ngoài của Ngài trông giống như một cha dòng thì đúng hơn: Tóc hớt cao, áo dòng giản dị, thái độ khiêm tốn, hiền từ, như toát ra từ một cuộc sống đan tu. Tôi bỗng muốn được đạo đức như Ngài.

Trong công việc linh hướng, Ngài rất nghiêm túc, theo dõi chặt chẽ từng chú: các chú gặp linh hướng mỗi tháng một lần, phải viết nhật ký thiêng liêng mỗi ngày và đưa cho Ngài coi. Quả thật, nhờ hai thói quen này, tôi đã có được một đời sống thiêng liêng khá tốt, còn ảnh hưởng đến cuộc sống linh mục của tôi cho đến bây giờ.

Cứ đến thứ bảy cuối tuần, tôi hay đến bên Ngài để xem Ngài chuẩn bị chiếc xe kéo bằng gỗ có 2 bánh xe đạp hai bên, móc vào chiếc xe gắn máy cũ hiệu Bridgeston. Ngài đã xin lương thực và quần áo cũ, rồi mỗi tuần, chở đến Trung tâm cải huấn ở Ghềnh Ráng, giúp cho những tù nhân gặp khó khăn. Cuộc sống của Ngài đã ảnh hưởng rất mạnh trên cuộc đời tu của tôi.

Khúc cuối con đường tiến đến chức Linh mục của tôi thật nhiều kịch tính, Ngài cũng hiện diện bên tôi. Năm 1992, tôi đi làm thày xứ Đông Mỹ, giúp Cha sở Phêrô Nguyễn Cấp, và chính tại đây tôi đã được nhập hộ khẩu. Năm 1996, tôi ra Tuy Hòa giúp Cha Hạt trưởng FX.Nguyễn Xuân văn, thay cho thày Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản đi Pháp du học. Năm 1998, Cha Phêrô Hiên từ Tịnh Sơn “xuống núi” làm cha sở Đông Mỹ. Vì Ngài tuổi cao sức yếu, Đức Cha muốn Ngài về gần thành phố cho tiện việc bồi dưỡng sức khỏe. Phần tôi, Đức Cha cũng bảo trở lại nhiệm sở cũ giúp cha già. Trên một chuyến xe Lam cũ kỹ, tôi dọn đồ trở về Đông Mỹ trong một tâm trạng nặng trĩu vì tương lai Ơn gọi vẫn còn mờ mịt. Lại một lần nữa, tôi vừa gặp không may trong đợt xin phong chức Linh mục cùng với Cha Tuấn. Tuổi đã mỗi ngày một lớn, cuộc sống chưa ổn định, chức Linh mục thì xa vời vợi… Về Đông Mỹ đã mấy ngày rồi mà tôi vẫn chưa buồn mở đồ đạc ra sắp xếp.

Tôi còn nhớ hầu như mỗi ngày, Cha già qua phòng tôi ngồi chơi, hỏi han động viên tôi, gợi ý sắm thêm những tiện nghi trong phòng tôi. Khuôn mặt và giọng nói của Ngài lúc nào cũng tươi vui và lạc quan. Tôi cảm thấy được thông cảm và an ủi rất nhiều. Ngài nhấn giọng đầy tin tưởng: Chúa đã gọi thì Chúa có cách của Ngài. Qua Ngài, tôi thấy như Chúa đang hiện diện.

Bên Ngài, tôi đã không phải chờ đợi lâu hơn. Khoảng hai tuần sau, Đức Cha Phaolô đã gọi tôi về Qui Nhơn cấm phòng chịu chức. Sau đó, Cha Phêrô đã tổ chức Lễ Tạ Ơn cho tôi thật long trọng tại Đông Mỹ. Nhưng tôi không có dịp sống thêm với Ngài nữa, tôi lại rời Đông Mỹ ra Tuy Hòa làm cha phó giúp Cha FX Nguyễn Xuân Văn, lúc này cũng đã đau bệnh…

Chỉ cần những thời điểm quan trọng trong cuộc đời có sự hiện diện của Cha già, tôi thấy như Ngài đã và đang vẫn còn bên tôi, bây giờ và cả về sau, vẫn tiếp tục ảnh hưởng lớn lao cho cuộc đời và sứ vụ Linh mục của tôi.

Đồng Tre ngày 12.09.2010

Linh mục Antôn Nguyễn huy Điệp

Chánh xứ Đồng Tre

1969-1971: CHA SỞ QUI HẢI

_________________________________________

NHỮNG ĐIỀU DỄ NHỚ MÀ KHÓ QUÊN

VỀ CHA PHÊRÔ NGUYỄN CAO HIÊN

Louis Nguyễn Đình Luyện

Linh Mục Phêrô Nguyễn Cao Hiên, đã từng làm Cha Sở Giáo xứ Qui Hải, Qui Nhơn trong những năm 1970 – 1971.

Năm 1971, Cha đã “tình nguyện” đi làm Cha Sở Giáo xứ Tịnh Sơn, Phú Yên. - Khi đó Tịnh Sơn là một giáo xứ miền núi, đường đi lại rất khó khăn vì chiến tranh, muốn đến hay rời Tịnh Sơn, phải đi nhờ trực thăng của Quân đội!

Tôi là một, trong số giáo dân của Giáo sở Qui Hải ngay từ khi mới thành lập- năm 1967 – cho đến ngày được sáp nhập vào Giáo xứ Qui Hiệp năm 1979.

Cha sở đầu tiên của Qui Hải là Cha Phêrô Nguyễn Hữu Sanh, 1967-1970.

Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên là cha sở thứ hai, 1970-1971.

Dù chỉ có 2 năm làm Cha Sở của tôi, nhưng Ngài đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắt của một vị Linh mục về đời sống: Khiết tịnh, Đạo đức, Khó nghèo, Hy sinh, Khiêm nhường, luôn Phục vụ với lòng yêu thương:

- Cha không bao giờ tiếp nữ giới riêng tư tại phòng Cha ở.

- Đặc biệt, Cha rất tôn sùng, yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và Đức Maria: Mỗi khi có việc cần gặp Ngài, nếu không thấy Ngài ở nhà, thì vào nhà thờ, nhất định sẽ gặp Ngài ở đó với tràng chuỗi Môi Khôi trên tay. Ngay cả khi Ngài về nhà Hưu dưỡng cũng vậy. Mỗi khi đến thăm Ngài, hay có việc, thì thường gặp Ngài trong nhà nguyện hơn là tại phòng Ngài. Ngài khuyến khích tôi yêu mến Thánh Thể bằng cách tặng cho tôi 4 cuốn “Suy niệm Lời Chúa trước Thánh Thể”.

- Cha Sở Cao Hiên của tôi, sống thật đơn giản, khó nghèo, không dùng cao lương mỹ vị, mà thường là “gạo lứt, muối mè”.

- Ngài ít khi, và hầu như không nhận “bỗng lễ”. Ngài thường nói: Tôi sẽ dâng lễ cầu nguyện theo ý anh chị. Anh chị hãy đem về, và nếu được, xin hãy giúp cho người nghèo khổ túng thiếu nhé!

- Từ ánh mắt, lời nói, cử chỉ, việc làm của Ngài luôn toát ra sự khiêm nhường sâu xa, thật lòng. Nhờ thế, mà bất cứ lúc nào Ngài cũng thư thái với nụ cười trên môi. Ngài đã khiêm nhường và khéo léo từ chối việc làm bữa tiệc tiễn đưa Ngài đi Tịnh Sơn như thường lệ...

- Ngài rất có lòng thương những người gặp hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ, lao tù: Ngài tìm xin tiền bạc, quần áo, lương thực khô, đồ hộp...(sắm cái xe đẩy nhỏ) và rủ tôi đẩy xe chở đồ đi thăm các thương binh ở bệnh viện Quân y, hay Lao xá Qui nhơn.

- Ngài hay nhận thư của gia đình, giúp mang vào cho các tù nhân, rồi nhận thư của họ về cho gia đình. Vì việc nhận và gửi thư của phạm nhân không phải dễ dàng- theo qui định của nhà tù.

- Thỉnh thoảng Ngài còn cố gắng xin phép được làm lễ tại Quân y viện hoặc nhà tù, nhất là vào dịp Lễ Phục Sinh và Giáng Sinh.

Đó là những hình ảnh rất thực về Cha Hiên, mà suốt 40 năm qua, biết bao điều đã biến đổi, đã bị xóa quên trong tôi...Thế mà, đối với Ngài, cho đến hôm nay, dù Ngài đã ra đi, đã vĩnh viễn xa tôi trên cõi đời này, nhưng những hình ảnh tốt đẹp, những nhân đức sáng ngời của Ngài, vẫn còn tồn tại và sống mãi trong tâm trí tôi. Tôi luôn kính trọng và mến phục Ngài.

Bởi thế, cách đây hơn một năm, (tháng 9.2009) khi tôi nằm trên giường bệnh ở Bệnh viện Qui nhơn, nghe tin Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên đã qua đời ở Thủ Đức (Tại Dòng Đồng Công), tôi vừa buồn, mà cũng vừa vui. Buồn, vì mất đi một người Cha, một mẫu gương tuyệt vời cho đời sống đạo của tôi. Vui, vì từ nay tôi có được Ngài là người cầu bầu cho cho tôi. Nghĩ như thế, nên vừa cầu xin Chúa thứ tha lỗi lầm cho Ngài khi còn sống, vừa xin Ngài phù hộ độ trì cho tôi.

Viết những dòng này, như nén hương lòng, như một đóa hoa tươi dâng lên, để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn Ngài.

Nguyện xin Chúa thương xót Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên của chúng con. Amen

Louis Nguyễn Đình Luyện

1971-1998 CHA SỞ TỊNH SƠN

________________________________________________

TIỂU KÝ SỰ CHA PHÊRÔ NGUYỄN CAO HIÊN,

CỐ LINH MỤC CHÁNH XỨ CHA XỨ TỊNH SƠN

Trần Hùng Đạo

Kính gởi Cha Chính Xứ Địa Sở Tịnh Sơn

Đầu năm 1958, cha Phêrô Nguyễn Kỳ Hội đến nhậm sở địa sở Tịnh Sơn. Ngài cũng như các cha sở khác đều lo làm tròn bổn phận chủ chăn.

Sau ngày 01-11-1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và sát hại thì Tịnh Sơn cũng như các nơi hẻo lánh khác đều bị mất an ninh. Cuối năm 1964 tình trạng mất an ninh ở Tịnh Sơn càng tệ hại hơn. Cán bộ chính quyền địa phương làm việc đến 4 giờ chiều là lo cuốn gói xuống Củng Sơn vì ở quận lỵ Củng Sơn an toàn hơn. Người ta gọi Tịnh Sơn là khu vực xôi đậu, ban ngày là của Quốc Gia, tối lại là của Cộng Sản. Cha sở Nguyễn Kỳ Hội cũng không dám ở Tịnh Sơn, phải dời về Củng Sơn. Cuối năm 1965, cha còn làm lễ ở Tịnh Sơn một thời gian. Sau đó mất an ninh ngày càng nặng nề hơn, cha không dám về Tịnh Sơn làm lễ nữa. Khoảng giữa năm 1965 cha Nguyễn Kỳ Hội thường về Qui Nhơn ở vì ngài có nhà riêng ở ngoài ấy, hoặc là về Tuy Hòa trú tại nhà ông Trùm Cương. Cứ bốn hoặc năm tháng cha mới về họ Củng Sơn, làm lễ vài mươi ngày hoặc một tháng rồi lại đi Qui Nhơn hoặc Tuy Hòa.

Theo lời cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên kể, đầu năm 1971, Đức Cha Qui Nhơn hỏi các linh mục có ai xung phong đi nhậm sở Tịnh Sơn không. Thấy không có ai lên tiếng, cha Phêrô Hiên xung phong. Ngài đến địa sợ Tịnh Sơn, đóng đô tại Củng Sơn.

Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên đến Củng Sơn bằng phi cơ. Trực thăng của quân đội chở ngài đến bãi sân bay trực thăng chi khu Sơn Hòa khoảng 8g 30 sáng ngày 21-3-1971. Ngài mang theo một xách tay mà sau này vẫn còn dùng, và hai thùng gỗ lớn, nhờ xe chi khu Sơn Hòa chở về nhà thờ Củng Sơn cách đó chừng 400 mét. Lúc đó tôi là Trần Hùng Đạo có mặt tại sân bay nên biết rõ việc này.

Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên vừa được chở đến nhà thờ Củng Sơn thì tôi là Trần Hùng Đạo, ông Nguyễn Tung (cũng gọi là ông Thi) và người em là ông Nguyễn Trân, đến chào hỏi cha, chuyện vãn mấy tiếng đồng hồ và phụ giúp cha mang hành lý vào phòng trong.

Sau tháng Tư năm 1975, Cha Phêrô Hiên ở Củng Sơn, được chính quyền Huyện Sơn Hòa, giáo dân và người các tôn giáo khác đều thương mến. Cha thường đi đến các nơi làm phép xức dầu cho kẻ liệt và những kẻ qua đời. Phải nhờ đám tang cha mới làm lễ cho giáo dân được, vì hồi ấy họ cấm ghê lắm.

Sau này họ Sơn Nguyên được thành lập, cha thường về làm lễ. Nhà thờ Sơn Nguyên được xây dựng do công khó của cha. Từ đó cha bận rộn phục vụ tại cả hai nhà thờ, cũng may nhờ có thầy Giuse Thâu giúp đỡ.

Rồi cha Giuse Lê Thu Thâu thụ phong linh mục và được bổ nhiệm làm phó địa sở Tịnh Sơn giúp cha Phêrô.

Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên thường làm những việc phước đức cả cho giáo dân và người ngoại. Giáo dân Tịnh Sơn lúc thiếu thốn thường đến mượn tiền của cha, về sau họ không có tiền trả, cha cũng bỏ qua luôn. Hiện thời giáo dân nghèo ở Tịnh Sơn còn thiếu nợ cha như thế rất nhiều.

Tôi còn nhớ đầu năm 1976 có một người nghèo ở gần nhà thờ Củng Sơn chết không ai thăm viếng, lo liệu. Cha đứng ra lo liệu. Vì lúc ấy tình hình còn hỗn độn, ai tự lo nấy, cả đám chết mà bà con lối xóm không ai đến viếng thăm, đến nỗi đào huyệt người nhà phải tự đi đào. Đến lúc khiêng chôn, không ai khiêng hòm, nên cha Phêrô phải khiêng một đầu và người nhà khiêng một đầu.

Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên được thuyên chuyển đến Địa sở Đông Mỹ ngày 31-3-1998 và cha Phêrô Nguyễn Cấp đổi đến làm cha sở Tịnh Sơn. Sau này cha Cấp đổi đi Mằng Lăng rồi cha Giuse Lê Thu Thâu đảm nhận địa sở Tịnh Sơn cho đến nay.

Vài lời ngắn ngủi, không đầu không đuôi, xin Cha thứ lỗi.

Chúc Cha khỏe, vui vẻ và được Chúa Kitô chúc phúc.

Kính chào Cha.

Củng Sơn, ngày 06-10-2009

Trần Hùng Đạo

Cước chú:

Ông Nguyễn Tung tức ông Thị ở ngoài Phường Bà Tám, còn ông Nguyễn Trân em ông Thi, cha của bà Tửu, vợ ông Lai cũng ở Phường Bà Tám.

ĐI XIN VỀ CHO NGƯỜI NGHÈO


_________________________________________

Maria Đoàn Hồng Phụng ghi lại

Chị Nguyễn Thị Liễu, 54 tuổi, hiện ở thôn Nguyên Trang, Sơn Nguyên, Sơn Hòa, Phú Yên, kể lại rằng: Thuở ấy, gia đình chị ở Củng Sơn, Huyện Tây Sơn (nay là huyện Sơn Hòa) là một vùng quê miền núi, đuờng sá đi lại khó khăn.

Vào năm 1971, Cha Phêrô đã về đây. Thời gian đó Cha đã thành lập Hội Legio, gồm một nhóm thanh nữ tuổi từ 15 đến 20. Chị là một trong số hội viên đó.

Cứ mỗi trưa Chủ Nhật hàng tuần là họp lại để Cha phân công tác cho chị em đến thăm các gia đình nghèo khổ, bệnh tật, bất hòa, ngừơi già neo đơn... Rồi đến cuộc họp sau lại báo cáo cho Cha.

Chị còn nhớ mỗi tháng Cha thường đi vài ngày vào thứ hai đến thứ sáu. Ngài đến các tỉnh, thành phố để quyên góp lương thực, quần áo, tiền bạc thuốc men... mang về nhờ các chị em trong hội chia ra từng phần đem phân phát cho các gia đình nghèo khổ. Riêng Ngài, Ngài không giữ lại một thứ gì. Dù là một bát cơm Ngài đang ăn hoặc là một lon gạo cuối cùng Ngài cũng sẵn sàng nhường cho nếu có người vào xin. Khi nào hết thì lại đi quyên góp. Nếu có ai cho Ngài của ngon vật lạ gì, Ngài lại bưng cho những gia đình nghèo gần quanh đấy. Ngài bảo còn có những người còn khổ hơn Cha, Cha ăn vậy là tốt rồi, mặc dù Ngài chỉ ăn toàn cơm gạo lức muối mè.

Ngày ấy vì là thời chiến, đường sá thường mất an ninh. Cha phải đi lại bằng máy bay trực thăng quân sự, là phương tiện phục vụ miễn phí cho dân, và Ngài thuộc thành phần được ưu tiên. Chị cũng là ngừơi thường được Cha cử đi ẵm em bé mỗi khi có người gọi đến cho. Ẵm về rồi, cha con chăm sóc đến lúc có máy bay, Ngài lại ẵm về Tuy Hòa để gửi vào viện mồ côi.

Nói về nhân đức của Ngài thì không tài nào kể xiết. Ngài đã sống như lời Chúa dạy:"Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ". (Luca 6- 6).

Maria Đoàn Hồng Phụng ghi lại

CHA TÔI NGÀY ẤY

__________________________________________

Lời kể của chị em Legio

Chị Anê Lê Thị Xin, 51 tuổi, hiện ở giáo xứ Tịnh Sơn, kể lại rằng:

Nói đến Cha già là chị vô cùng luyến nhớ đến những năm tháng được sống bên Cha.

Chị nhớ ngày ấy, nhà chị ở gần nhà thờ Củng Sơn. Một hôm có một chiếc xe jeep nhà binh, chở Cha đến thờ. Lúc đó chị độ 12 tuổi. Chị đã cùng bọn trẻ trong xớm chạy đến nhà thờ để xem “Cha mới”.

Chị đang cầm chiếc hộp trong tay. Cha Phêrô thấy liền hỏi: “Hộp gì thế? Cho Cha xem nào!” Chị đưa cho Cha xem rồi giải thích: “Đây là hộp giấy ghi số đề” (Vì Chị đang ghi số đề giúp Mẹ). Cha trả lại và bảo “ Đừng làm việc ấy nữa”. Vài tuần sau Cha đến thăm nhà chị, rồi bảo mẹ chị bỏ nghề ấy đi. Sau đó mẹ chị vâng lời Cha đã bỏ nghề. Rồi Cha xin ba má chị may áo dài cho chị đi lễ. Từ ấy, ngày nào chị cũng đi lễ và học giáo lý do Cha dạy. Hai năm sau Cha đã rửa tội cho chị (Mẹ con chị là người lương, mẹ tái giá lấy cha giượng là người công giáo). Rồi chị vào hội Legio, vào ca đoàn. Nói là ca đoàn nhưng chỉ có 5, 6 chị em do Cha tập hát. Có hôm hát sai nhịp, lễ xong Cha nói đùa: “Hát gì mà Cha ở trên nghe tức như bò đá”.

Ở gần Cha mới biết cuộc sống Cha rất giản dị: Giường gỗ Cha nằm rất thô sơ, có một khúc gỗ vuông phủ một miếng vải làm gối kê đầu. Thức ăn chính là cơm gạo lứt, muối mè, lá sắn kho. Áo quần tự Cha cắt may để mặc, guốc thì lấy cây gòn đẽo để mang.

Có một lần Cha đi kẻ liệt bên Đức Bình, về ngang bến đò bị ong vò vẽ chích 5,6 mũi. Về đến nhà Cha nằm nóng lạnh, chị em thấy vậy giã lá é quế cho Cha đắp và hỏi: “Cha có nhức lắm không Cha?” Cha đáp: “Đủ xài”.

Có lần mấy đứa trẻ leo hái trộm dừa của nhà thờ. Cha thấy, chẳng những đã không la mà còn đưa thang ra dựng vào gốc dừa và bảo: “Xuống từ từ kẻo ngã”.

Chị nhớ mãi mùa Noel năm 1974. Cha cho tập văn nghệ để diễn đêm 24 Noel, nhưng có mấy đứa nam không chịu làm mục đồng. Cha bắt nằm sấp xuống, quất mấy roi, thế là ai cũng răm rắp nghe lời Cha.

Chiều ngày 25 Noel, Cha dẫn đoàn con sang Đức Bình diễn văn nghệ. Cha đi trước, một đoàn ôm trống, ôm đàn theo sau, gặp đoạn đường phải lội bùn ngập gối, té lên, té xuống ướt cả áo quần. Ngày ấy tuy gian khổ nhưng thật là vui.

Hằng năm tết đến, Cha lại đi từng nhà để chúc tết, không bỏ sót nhà nào, kể cả những gia đình ngoại giáo.

Đến ngày chị lập gia đình, Cha yêu cầu:

- Ở nhà muốn mặc gì thì mặc nhưng đến nhà thờ: Nam phải mặc quần tây, áo trắng. Nữ phải mặc bộ áo dài trắng. Không được phô trương, để tránh tình trạng kẻ giàu người nghèo.

Rồi trong cuộc sống gia đình, chị gặp rất nhiều đau khổ. Cha thường đến nhà khuyên giải, an ủi. Những lời khuyên của Cha đến giờ vẫn còn in sâu trong tâm trí chị, nhờ vậy chị mới sống đến hôm nay.

Không phải riêng gia đình chị mà tất cả mọi gia đình trong giáo xứ, hễ ở đâu có cãi vã, xích mích, bất thuận, bất hòa,… Cha đều đến để khuyên giải rất chân tình. Ở đâu có người bệnh hoặc người chết, Cha vội đến để an ủi, vỗ về … Thế nên mọi người thường gọi Cha là vị thánh sống.

*

Chị Anê Phan Thị Nhơn, hiện ở giáo xứ Trà Kê, có lời nhớ ơn Cha Phêrô rằng:

Giáo xứ Trà Kê được như ngày hôm nay là nhờ công ơn của Cha Phêrô. Cha đã mở đường, dẫn lối, đã tái sinh giáo xứ Trà Kê. Ngày xưa đường sá không như bây giờ, phải trèo đèo vượt suối mới đến được Trà Kê. Thế mà Cha Phêrô đã âm thầm, hy sinh, chịu đựng mọi gian nan, vất vả để đến với giáo dân Trà Kê. Ngài còn làm cho Trà Kê một nhà thờ mái tranh, vách đất. Tuy đơn sơ nhưng gói ghém trọn tình thương của Cha dành cho giáo xứ Trà Kê.

Khi chưa có nhà thờ, mỗi lần đến đây dâng lễ, Cha thường làm lễ tại nhà ông Sáu. Sau lễ, Cha đến nhà một người khổ nghèo nhất để lưu lại đó qua đêm. Có ăn cơm thì chỉ ăn rau muống luộc chấm nước mắm.

*

Chị Anna Lê Thị Mai, là giáo dân xứ Tra Kê, kể rằng:

Hôm đó thân sinh chị đi nhà thương về, dọc đường thì gặp cha Phêrô lên Trà Kê làm lễ. Tay Cha thì run run, nhưng Thấy ông đi bộ, Cha vui vẻ bảo: “Lên ngồi Cha chở về, có ngã thì cả hai cùng ngã”. Thế mà Cha cũng chở được ông về tới nhà.

*

Chị Lucia Nguyễn Thị Định, 52 tuổi, hiện ở giáo xứ Tịnh Sơn, kể về Cha Phênô rằng:

Ngày ấy chị mới vừa 15 tuổi, nhưng đã là một hội viên của hội Legiô do Cha Phêrô thành lập và làm Linh giám. Cha đã nêu gương cho các hội viên hoạt động bằng những việc làm rất thiết thực.

Chẳng hạn, dạo đó, có ông Thừa Đào ở Tịnh Sơn lâm bệnh nặng, nhưng già cả, neo đơn, không ai chăm sóc. Vậy là Cha Phêrô cứ buổi trưa mỗi ngày, lại lặn lội từ Củng Sơn lên nhà ông (gần bến đò sang Đức Bình), giặt giũ quần áo cho ông, lặng lẽ âm thầm chăm sóc ông cho đến khi ông qua đời.

Có một lần Cha bệnh sốt rét, gần đấy có Bà già Sáu Gặp, thường lui tới chăm sóc Cha. Bà Sáu nấu cháo gà mang đến cho Cha. Cha chưa kịp ăn thì có một người ăn xin vào, Cha liền bưng tô cháo gà cho người ấy ăn.

Sau đó, nhà Bà Sáu Gặp, là nhà tranh, bị lửa thiêu rụi. Thấy Bà cháy hết áo quần, Cha đưa đến cho Bà chiếc áo mà Cha vẫn mặc.

Lúc Cha mới đổi về đây, chị thấy Cha chỉ ăn cơm gạo lứt với muối mè hoặc đậu phụng. Chị nghĩ có lẽ Cha ăn kiêng để chữa bệnh, nhưng sau này Cha tiết lộ: Mẹ Cha mới mất, nên Cha muốn ăn chay 3 năm để cầu nguyện cho Mẹ. Chị mới hay Cha là một người có hiếu biết ngần nào.

Chị nhớ mãi ngày chị mới lập gia đình (1975). Chị đã gặp biết bao nghịch cảnh trong cuộc sống. Đứa con đầu lòng của chị mất. Cha đã đến an ủi chị:

– Chúa cất cháu đi bây giờ thì cháu được làm thánh. Nếu cháu sống, biết đâu sau này lại hư hỏng.

Năm năm sau đó, chị sanh tiếp hai cháu, một trai, một gái, thì chồng chị qua đời vì bệnh bao tử. Lại một lần nữa Cha đã đến làm lễ an táng tại gia và trong thời gian đó Cha đã động viên an ủi chị rất nhiều:

– Hãy đặt niềm tin cậy vào Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ con…

Nhờ những lời khuyên của Cha, chị như được thêm sức mạnh thiêng liêng mà vượt qua mọi thử thách, đau khổ ngày ấy.

Cho mãi đến bây giờ, chị vẫn là một hội viên hoạt động nhiệt thành của Legio Sơn Hòa.

Đối với người già, Cha rất quan tâm, kể cả người ngoại đạo. Năm 1992 Cha dời về ở nhà thờ Tịnh Sơn, đem theo 6 người già về nuôi, rồi xây cất một dãy nhà phía sau nhà thờ, dành riêng cho mỗi người một phòng. Thế nhưng vì Đức Cha Các không chấp nhận cho họ ở trong khuôn viên nhà thờ, Cha phải giải tán và gởi mỗi người đến ở một nhà giáo dân rồi gởi tiền cho nuôi. Cha cũng gởi cho chị Định một bà già. Đến khi Cha đổi về Đông Mỹ, Cha gởi thêm cho chị một triệu rưỡi để lo ăn cho bà. Cha còn đặt tiền cho anh Tám Hạo đóng 6 chiếc áo quan cho 6 người già. Hễ ai chết thì đến nhận về lo hậu sự.

Về việc xưng tội, hễ ai đến trình Cha bất cứ lúc nào, Cha đều sẵn sàng ngồi tòa. Cha dặn: “ kể cả khi Cha đang ăn, nếu ai cần xưng tội thì cứ nói, Cha sẽ giải tội”.

Cha rất siêng năng viếng Thánh Thể. Cha thường quỳ trước Thánh Thể hàng giờ. Nhất là những ngày trong tuần Thánh.

Năm 1998, Cha đã về Đông Mỹ. Nhân dịp Bổn mạng Cha, chị em Legio rủ nhau xuống thăm. Cha hỏi thăm những gia đình nghèo khó, những gia đình bất thuận … nay ra sao? Rồi Cha tâm sự: Cha rất buồn vì cha ở Tịnh Sơn 27 năm nhưng không truyền giáo được cho người lương, chỉ có những người theo đạo vì lấy vợ hay lấy chồng đạo. Cha mong sao giáo dân Tịnh Sơn sống tốt để nêu gương cho lương dân. Cha dạy rằng: Mỗi gia đình nên chọn một người lương để hiệp ý cầu nguyện cho họ trở lại, nhưng đừng cho họ biết. Rồi đến những ngày lễ lớn mời họ cùng đi tham dự, dần dần có thể họ sẽ theo đạo.

Sau khi kể lại những tấm gương sáng của Cha Phêrô, chị Định nêu câu hỏi: bình tâm xét mình lại, nào mình đã làm được những việc gì để làm chứng cho lương dân? Chị tự nhủ mình phải cố gắng sống sao cho xứng là con cái Chúa để vui lòng Cha Phêrô, như Cha hằng mong ước.

Maria Đoàn Hồng Phụng ghi lại

YÊU MẾN THÁNH THỂ VÀ ĐỨC MẸ

________________________________________

Cha Nguyễn Văn Nhuận phục vụ ở Phú Yên (Tuy Hòa rồi Đông Mỹ) từ 1969-1972. Nhớ về cha Hiên, cha Nhuận nói vắn tắt: Ngài rất thánh thiện, rất yêu mến Thánh Thể và Mẹ Maria. Những lần ngài về thăm Đông Mỹ, thường xuyên ở nhà thờ. Cha Nhuận đi dạy học về thấy cửa nhà thờ hé mở, sợ rằng trẻ em nghịch phá, đến kiểm tra thì hóa ra là cha Hiên đang ngồi hay quỳ trong đó. Lần nào cũng thế.

Sau 75 cha Nhuận gặp lại cha Hiên ở Sài Gòn:

- Cha già đi đâu trong này thế?

- Tôi đi xin tiền sửa nhà thờ

- Cha dự chi bao nhiêu?

- Vài chục triệu

Cha Nhuận lặng người. Không ai dám nghĩ tới việc làm nhà thờ với vài chục triệu.

Thế nhưng rồi cha Hiên đã làm. Làm từ từ. Cha xứ bắt đầu xây cái móng, rồi giáo dân tiếp tục công sức…

(Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh ghi lại,

qua điện đàm tối 30-8-2010)

MỘT GIOAN MARIA VIANNEY CỦA VIỆT NAM

____________________________________________

Cha Vũ Văn Tự Chương đang ở tại an dưỡng viện Phát Diệm, Gò Vấp, đã phục vụ tại Tuy Hòa Phú Yên từ 1969-1973. Được hỏi ấn tượng về cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên, cha Chương đáp:

Đấy là một linh mục tuyệt vời. Một linh mục đặc biệt. Viết về ngài là đúng. Cha Hiên đã ở Tịnh Sơn vào một thời hết sức khó khăn. Từ Tịnh Sơn về Tuy Hòa phải đi máy bay. Ngài nhiều lần theo máy bay đưa trẻ em về Tuy Hòa chữa bệnh. Ngài giàu tình cảm, rất đạo đức và thương người. Chẳng bao giờ trách mắng, gắt gỏng hoặc khó chịu với ai.

Cha Chương đã có lần theo máy bay tiếp tế lên Tịnh Sơn thăm ngài. Quả là một Gioan Maria Vianney của Việt Nam. Trong nhà hết sức đơn giản, chẳng có gì. Rất thương người, lúc nào cũng hồn nhiên vui vẻ.

Lần cuối cùng cha Chương được gặp cha Hiên là hơn một tháng trước khi Đức Cha Bản làm giám mục Ban Mê Thuột. Lúc ấy vị giám mục tương lai và cha Hiên đến thăm cha Chương ở nhà hưu dưỡng. Sau lễ tấn phong của Đức Cha Bản thì cha Hiên bị đau, tới khi ngài chết thì cha Chương không hay tin nên không đi dự tang lễ được.

(Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh ghi lại,

qua điện đàm tối 30-8-2010)

ÍT AI LÀM ĐƯỢC

__________________________________________

Chia sẻ của Cha Micae Phạm Bá Tước, hiện hưu dưỡng tại Hạt Tân Mai, giáo phận Xuân Lộc

(Lm Võ Tá Khánh viết lại từ điện đàm ghi âm sáng 10-9-2010.)

- Thưa Cha, ngày 19-9 là giỗ đầu cha Nguyễn Cao Hiên, chúng con tính làm một tập mỏng ghi những kỷ niệm về ngài, để tiếp nối tinh thần năm thánh hóa linh mục. Mong ghi lại một khuôn mẫu linh mục rất gần gũi. Cha đã giúp nhiều cho ngài khi ngài ở Tịnh Sơn, cha có kỷ niệm khó quên nào, xin nói cho con ghi lại.

- Cha hỏi đột xuất, tôi không kịp chuẩn bị, chỉ xin nói vài nét đại khái về ngài. Ngài có thể coi như một vị thánh ở chung giữa chúng ta. Ngài đã làm những việc ta không làm được. Ngài thương những người già yếu, đem họ về nuôi. Những em bé bị bỏ rơi ngài cũng nhặt đem về nuôi. Tôi vẫn hết sức phục ngài. Mỗi lần ngài điện thoại, tôi giúp ngay, lo trực thăng để ngài bế các em từ Tịnh Sơn về Tuy Hòa gởi vào Cô nhi viện. Ngài là một linh mục đã làm những việc ít ai làm được. Ngài đem võng đến nhà những người già, ngủ lại với họ, ăn chung với họ. Ngài ăn uống kham khổ như cha Ars, ăn toàn gạo lứt muối mè.

Mỗi lần công tác Tịnh sơn, có dịp đến với ngài, tôi đều học được sự chịu khó và sự đạo đức của ngài. Ít linh mục nào làm được như thế. Ngài đã làm tất cả để chứng tỏ cho người ta thấy là Chúa Giêsu đang ở giữa chúng ta. Thật là tấm gương rất sống động. Ngài qua đời, mà mãi bây giờ cha nói tôi mới biết. Nay là giỗ lần thứ mấy?

- Thưa Cha, nay là giỗ đầu.

- Tôi sẽ cầu nguyện cho ngài và cầu nguyện cho anh em chúng ta ngày nay biết noi gương ngài mà sống một đời linh mục theo kịp những đòi hỏi của thời này.

- Hồi ấy, phải di chuyển toàn bằng trực thăng, cha nhỉ?

- Vâng. Ngài thường nhờ mua nước mắm và dầu hôi, mua nhiều cả hằng phuy để giúp người ta. Tôi cứ chờ cho đáng một chuyến lại nhờ trực thăng giúp ngài. Ngài phải lo rất nhiều việc, mình giúp được phần nào chứ giúp không thể hết được.

- Còn tháng Tư 1975? Những lần cuối cùng cha lên Củng Sơn có gặp ngài không, và có điều gì đáng nhớ?

- Tôi có lên nhưng chỉ kịp lo công việc ngay ở sân bay, không vào được nhà thờ Tịnh Sơn, không rõ ngài sinh hoạt thế nào, cũng không thấy ngài yêu cầu gì cả.

NGHE ANH EM GÓP Ý

__________________________________________

Cha Phaolô Trương Đắc Cần kể rằng: Khi làm cha sở Tịnh Sơn, cha Phêrô dự tính xây trong khuôn viên nhà thờ một nhà dưỡng lão. Đức Cha Phaolô Huỳnh Đông Các không đồng ý làm một cơ sở như thế trong khuôn viên nhà thờ, nhưng không nói ra. Cha Phaolô Cần biết vậy, lên góp ý. Cha Phêrô vui vẻ nghe theo và mua đất phía ngoài để làm nhà dưỡng lão.

KẾT HIỆP VỚI CHÚA ĐỂ BIẾT Ý CHÚA

__________________________________________

Lời kể của linh mục GIUSE LÊ THU THÂU, cha sở Tịnh Sơn

Con được cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên dìu dắt hướng dẫn từ lúc làm thầy. Sau khi Đại chủng viện Làng Sông bị giải thể, con được lên ở với ngài gần hai năm. Hồi đó ngài đang ở tại nhà thờ Củng Sơn, không ở nhà thờ Tịnh Sơn. Đó là thời điểm hết sức khó khăn. Ngài ở một mình, không ai giúp, nên con ở để giúp ngài cả về cơm nước và các lớp giáo lý.

Con rất cảm phục các nhân đức của ngài, nhất là lòng yêu thương người nghèo. Ngài sống rất nghèo khó, không màng gì vật chất. Ngài sống rất bác ái, dù chính mình thiếu thốn vẫn luôn dành mọi sự cho người nghèo. Con giữ được ơn gọi cũng là nhờ thấy gương sống của ngài: giản dị, đạo đức, tốt lành.

Sau khi thụ phong linh mục, con được làm cha phó của ngài. Ngài cho con ở riêng tại nhà thờ Sơn Nguyên, còn ngài ở Củng Sơn. Hai cha con lên xuống làm việc với nhau. Là cha phó của ngài, con cũng được ngài nhắc nhở nhiều điều. Cách riêng ngài nhấn mạnh tinh thần đạo đức. Thiếu đạo đức thì hỏng hết. Cho nên cần trung thành với việc nguyện gẫm, các giờ kinh sách, giờ lễ. Làm việc gì mình cũng cần phải biết ý Chúa, mà muốn biết ý Chúa thì phải gẫm…

Sau một thời gian, ngài quyết định về nhà thờ Tịnh Sơn. Tịnh Sơn vốn là nhà thờ xứ nhưng từ thời chiến tranh, cha sở về ở một nhà thờ họ nhánh là Củng Sơn. Giờ đây đã ổn định, cha thấy cần quay về Tịnh Sơn để củng cố lại lòng đạo của giáo dân. Cha chia thành các khu, các xóm, dạy họ cầu nguyện và giúp họ tổ chức sinh hoạt. Trong việc mục vụ, ngài nhấn mạnh phải làm sao cho giáo dân được hiệp nhất, biết sống tinh thần cộng đoàn và bác ái.

NHỮNG MẢNH VỤN QUÝ BÁU

__________________________________________

(Linh mục Võ Tá Khánh ghi lại)

Có người từ xa về thăm cha Phêrô Hiên và biếu ngài một bao thư có tiền bên trong. Cha Phêrô để bao thư trên bàn, ngồi nói chuyện. Đang lúc ấy có một người nghèo vào kể lể hoàn cảnh khó khăn. Cha Phêrô cầm bao thư đưa cho người này và bảo:

- Vị ân nhân vừa cho cha đây, bà cầm lấy.

Vị ân nhân trố mắt nhìn, đợi người kia đi khuất mới bảo ngài:

- Cha biết không, trong đó là 100 đô la đấy.

- Không sao, mình phải giúp họ.

(Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh ghi theo lời kể của Cha Phêrô Đặng Son, tại nhà xứ Tuy Hòa ngày 27-8-2010)

*

Lời kể của ông Dư Hứa, dịp lễ thành lập giáo xứ Trà Kê, cho thấy Cha không lạm dụng lòng tốt của ai.

Ông Dư Hứa và ông Sáu Rỡ cùng đi làm việc tông đồ với cha Phêrô. Dọc dường xe hết xăng. Ông Sáu Rỡ mua xăng. Đang lúc ông đổ xăng vào xe, cha Phêrô vẫy một bà cụ chăn bò bên đường:

- Ông gọi con có việc gì?

- Cho tôi gởi bà chút đỉnh.

Rồi cha quay lại bảo ông Sáu:

- Ông Sáu, tiền xăng của ông tôi gởi cho bà cụ kia rồi nhé!

*

Ông Dư Hứa gặp Cha Phêrô ở quán hớt tóc đối diện nhà thờ Củng Sơn. Ông Dư nhường để cha hớt tóc trước. Chiếc xe đạp của cha dựng bên kia đường. Người thợ hớt tóc nhìn thấy một cậu bé dắt xe đi, vội bảo:

- Cha ơi, có đứa lấy cắp xe cha!

- Chắc nó chỉ mượn đi một lát thôi.

Nhưng rồi chú bé dắt đi luôn, không trả lại. Công an bắt được hỏi cha, cha đáp:

- Chúa bảo nó lấy ấy mà.

*

Vườn nhà thờ Trà Kê cây cỏ um tùm như rừng. Từ Củng Sơn, cha sang Trà Kê dâng lễ tại nhà ông Sáu Rỡ. Cha không ăn cơm nhà ai, chỉ đem theo cơm nắm hoặc một gói mì. Cha ở lại tại những gia đình neo đơn già yếu. Nếu họ thiếu, cha cho luôn nắm cơm của cha.

*

Ngài tin tưởng giao việc. Chúng con làm sai, ngài không la trách, chỉ khẽ nói: Lần sau, mình sẽ làm khác nhé!

*

Có lần ngài dâng lễ tại nhà ông Sáu Rỡ. Vừa truyền phép xong thì công an tới bắt ngưng. Anh em giáo dân vừa ra về vừa bảo nhau:

- Chúa ở cùng anh chị em.

- Công an ở cùng cha!

VỀ NHÂN ĐỨC YÊU THƯƠNG CỦA CHA PHÊRÔ

_____________________________________________

(Maria Đoàn Hồng Phụng ghi lại)

Chị Nguyễn Thị Xuân Đào, 51 tuổi, hiện ở Thôn Nguyên Hà, xã Sơn Nguyên, kể lại rằng:

Khoảng năm 1973-1974 (trước giải phóng) gia đình chị ở gần nhà thờ Củng Sơn. Nơi này vốn là một vùng quê hẻo lánh, đa số là nông dân nghèo khổ.

Cha Phêrô quản xứ tại đây. Ngoài thị trấn Củng Sơn, Ngài còn phải coi sóc các họ lẻ như Đức Bình, Tịnh Sơn. Hằng tuần Ngài đi bộ đến các họ ở xa để ban các phép và dâng Thánh Lễ. Vào những mùa mưa lụt, nước suối lên cao, có khi phải lội nước ngang lưng, nhưng Ngài không quản ngại đường xá xa xôi, mưa to gió lớn. Hễ nghe ở đâu có kẻ liệt là Ngài vội vã đi cho chóng.

Chị Đào nhớ nhất là chuyện Ngài nuôi trẻ bị bỏ rơi:

Thỉnh thoảng cứ dâng lễ sáng xong, trời còn tờ mờ đất, Ngài đi ra trước cửa nhà thờ, lại thấy có một đứa trẻ sơ sinh bọc trong khăn, ai đã đặt đó tự bao giờ. Thế là Ngài ẵm vào chăm sóc cẩn thận như một người mẹ. Ngài nuôi bé bằng sữa Guigoz là loại sữa bột tốt nhất lúc ấy. Có lần người ta đem tới cho 4 đứa bé một lúc, khiến Ngài chăm không xuể. Ngài phải nhờ Chị Đào đem sữa và bế 2 bé về nhà chăm hộ, trong lúc chờ máy bay đến giúp đưa về viện mồ côi. (Hồi ấy còn đánh nhau, từ Củng Sơn về Tuy Hòa phải đi bằng máy bay trực thăng)

Rồi đến chuyện nuôi người già tàn tật:

Vào năm 1980 (sau giải phóng) Ngài đưa những người già neo đơn, mù lòa về nuôi. Chẳng những cho ăn, cho mặc, mà còn cho tiền và cho người dẫn đi chữa bệnh nữa. Chị Đào đã 2 lần được cha phái dẫn 2 người mù về Nha Trang mổ mắt. Cha Phêrô là như thế đó: chịu thương, chịu khó, yêu thương hết thảy mọi người. Đúng là một người Cha nhân từ, là mẫu gương sáng để hậu thế noi theo.

CHA PHÊ RÔ HAY GIÚP ĐỠ MỌI NGƯỜI

_________________________________________

(Maria Đoàn Hồng Phụng ghi lại)

Chú Hà Văn Sanh, hiện ở giáo xứ Sơn Nguyên, là người luôn kề vai sát cánh với Cha Phêrô nên biết rất rõ về Ngài.

Chú kể rằng: Vào năm 1979. Dân Nha Trang và Cam Ranh được nhà nước phân bổ lao động lên vùng kinh tế mới Hòa Nguyên (là xã Sơn Nguyên ngày nay). Giáo dân ở đây cứ đến chủ nhật là rủ nhau đi bộ hàng chục cây số về nhà thờ Củng Sơn để tham dự Thánh Lễ. Chú Sanh là một trong những người thường xuyên đi lễ và cũng nhờ lời giới thiệu của Cha Bích (giáo xứ Đồng Tre ngày ấy) nên Cha Phêrô biết chú là thợ điện máy, mới nhờ chú giúp Cha về việc âm thanh ánh sáng, trong nhà thờ.

Máy điện của Cha là loại máy cũ, nên rất hay bị hỏng. Mỗi lần hư bộ phận nào, chú phải tháo ra, chở bằng xe đạp xuống Tuy Hòa sửa chữa. Quãng đường từ Củng Sơn đi Tuy Hòa dài 50km, vì vậy mỗi lần máy hư rất vất vả. Thế mà Ban Thông Tin Văn Hóa Huyện ở gần đấy, hễ có việc gì, đều qua mượn máy điện của Ngài. Không một lần nào Ngài từ chối hoặc tỏ vẻ khó chịu, trái lại Ngài luôn luôn vui vẻ cho mượn.

Noel năm ấy, chú Sanh chuẩn bị đèn điện, cờ giăng trước sân, hang đá trang hoàng điện chớp nháy rất đẹp. Đến ngày 22.12 là ngày Quân Đội Nhân Dân, họ lại sang cha mượn máy điện. Lúc ấy chú phản đối:

– Sắp đến Lễ rồi, Cha cho mượn lỡ hư thì ngày lễ lấy đâu sử mà dùng.

Nhưng Ngài tươi cười, ôn tồn bảo:

– Cứ cho họ mượn đi, có Chúa quan phòng. Có khi đó là ý Chúa ta phải vâng theo thánh ý Chúa. Biết đâu có điện chớp nháy đẹp quá, rồi giáo dân chia trí, không sốt sắng dự lễ.

Thế là Cha lại cho họ mượn. Lúc ấy Chú cứ nghĩ rằng, có lẽ Ngài sợ họ. Thế nhưng về sau mới biết họ rất tôn trọng Ngài.

Một lần ở Hòa Nguyên có kẻ liệt, ông biện họ lên trình Cha. Lúc ấy Ngài đã có chiếc xe đạp cọc cạnh rồi nhưng khi Ngài đến nơi thì người bệnh đã mê man không còn biết gì nữa. Nên Ngài trách:

– Sao báo trễ thế?

– Thưa Cha, vì còn phải xin phép chính quyền rồi mới dám mời Cha.

– Từ nay, cứ có kẻ liệt là tin cho Cha ngay, phép tắc để Cha lo.

Từ đó mọi công tác mục vụ tại vùng Kinh tế mới Hòa Nguyên, Cha tự thu xếp việc đi lại của Cha, người dân không phải xin phép như trước nữa.

Mỗi tuần cứ sau Thánh Lễ chủ nhật, Chú Sanh thương nán lại trò chuyện với Ngài. Một hôm cha con đang ngồi trò chuyện, bỗng có một ông cụ đến nhờ Cha hớt tóc. Cha liền đi lấy tông đơ, vui vẻ hớt tóc cho ông ngay. Chú rất ngạc nhiên, nhưng sau này mới biết Ngài vẫn thường xuyên hớt tóc cho những ông già quanh đấy. Rồi những người bệnh đến xin thuốc. Có hôm thì những người ăn mày vào, Ngài cho gạo, cho quần áo. Cũng có người còn xin tiền nữa, Ngài vẫn vui vẻ cho. Rồi những trẻ sơ sinh bị bỏ trước cửa nhà thờ, Chú cũng đã chứng kiến 5, 6 lần. Ngài bế vào chăm sóc, nuôi nấng. Mỗi lần có trẻ nhỏ như thế, sau Thánh Lễ chủ nhật, Ngài thông báo: ai muốn xin con nuôi thì đến gặp Cha. Thế nhưng có khi cả tháng mới có người đến xin.

Ngài giúp những gia đình nghèo khổ chung quanh, không phân biệt lương giáo. Ai nhận nuôi bò thì Ngài mua bò cái cho chăn, đến khi có bê con, thì cho họ con bê đó, rồi lấy con bò mẹ cho người khác nuôi. Còn ai muốn nuôi heo, thì Ngài mua heo cho nuôi. Cứ như vậy, Ngài đã giúp đỡ rất nhiều người.

Đến nỗi trong buổi họp nông dân, anh công an huyện đã tuyên dương:

– Ai cũng như Cha Hiên, thì khỏi cần Đảng Cộng Sản cũng hạnh phúc rồi.

Anh công an còn kể rằng: có một lần Anh gặp cha đi thăm kẻ liệt bên Đức Bình về. (Đức Bình ngày ấy còn phải đi đò sang sông) Đã 11 giờ trưa, nắng gay gắt. Dọc đường có một bà già gánh củ mì về Tịnh Sơn. Ngài bèn dựng xe đạp trên bờ rào gần bến đò, gánh giúp bà qua một bãi cát dài, mới đến bến đò, lại gánh lên đò, theo sang sông, rồi gánh lên đi qua một bãi cát dài 500m, lên 1 con dốc nữa mới đến đường cái. Bà giao gánh lại cho bà, rồi mới quay lại bến đò, sang sông lấy xe đạp trở về. Có ai làm được như Cha Phêrô không nhỉ?

Rồi những lúc Ngài đi cắm phòng cả tuần, trước khi đi Ngài chỉ khép cửa lại, không khóa. Chú Sanh liền hỏi:

– Cha không khóa cửa, nhỡ mất cắp thì sao?

Cha tươi cười đáp:

– Có gì mà mất, mà lỡ mất thì thôi.

Cha Phêrô quả là một vị Thánh sống, một vị mục tử nhân lành, suốt đời sống và thực hành đúng như lời Chúa dạy: “Ai xin, các ngươi hãy cho. Ai mượn, các ngươi đừng từ khước”. Cha là một tấm gương sáng đáng để cho chúng ta noi theo.

CON ĐÃ BỎ GHI SỐ ĐỀ

_________________________________________

Con Nguyễn Thị Huệ, Giáo dân xứ Sơn Nguyên

Kính thưa Cha,

Hôm nay con được một người bạn tới nói chuyện về Cha Hiên và có hỏi con có một kỷ niệm nào, hoặc một điều kỳ diệu nào xảy ra tác động vào con trong lúc Cha già còn sống không. Thưa Cha có chứ ạ, con sẽ bắt đầu từ khi con lập gia đình cho đến nay.

Năm 1980 con kết hôn tại Thánh Đường Củng Sơn do Cha Hiên chủ tế.

Lên kinh tế mới mà lập gia đình, khi ra ở riêng là phải làm nhà sát bìa rừng, sốt rét kinh niên. Lúc con mới có một cháu, hết vợ đến chồng rồi đến con, tháng nào cũng lên bệnh viện. Cuộc sống thật cơ cực, cơm độn với khoai mà không đủ ăn, huống hồ là cá, thịt! Chỉ có lá giang và đu đủ là thức ăn trường kỳ mà thôi. Lúc đau ốm không tiền, chúng con lại chạy đến Cha Hiên xin tiền. Lần nào Cha cũng cho mà không hỏi gì. Có một lần đau ốm quá sức chịu đựng của con, con lại đến Cha mà khóc. Cha khuyên con rằng: Chúa cho mỗi người vác thánh giá thì cũng ban ơn, thánh giá luôn vừa sức của con, chớ lo buồn. Rồi Cha già khuyên bảo con đủ điều và Ngài cũng đã cầu nguyện nhiều cho con lắm.

Năm 1992 gia đinh con chuyển nhà xuống đội 8 (trước đó con ở đội 12), cơn bệnh sốt rét kinh niên tạm lùi xa. Thế nhưng vẫn một căn nhà tranh dột nát, vách đất, nền đất. Làm nông, con không thể nuôi các con đủ ăn đủ mặc, nên con ghi số đề để kiếm thêm. Trong năm năm trời con ghi đề, Cha già mấy lần ghé thăm gia đình con, khuyên con không nên ghi đề, vì như vậy sẽ gây các điều xấu, mê tín dị đoan, ảnh hưởng không tốt đến nhận cách của người kitô giáo. Lúc đó con không nghĩ được thấu đáo hết các điều Cha dạy bảo mà cứ hành luận mãi với Cha. Suốt thời gian ấy Cha không cho con được rước lễ, hằng tuần con chỉ đến nhà thờ vào ngày chủ nhật để dự thánh lễ mà thôi.

Thế rồi thấm thoát hết bốn hoặc năm năm gì đó con cũng không nhớ rõ, bốn đứa con của con đã khôn lớn, con quyết tâm bỏ số đề. Một ngày nọ, con đã lên nhà thờ Tịnh Sơn để gặp Cha Sở. Con xin lỗi Cha. Con kể hết tội của mình trong thời gian qua và xin Cha giải tội cho con để con được rước Chúa ngự vào.

Thế là con lại cùng chồng và con của con làm rẫy. Sáng đi tối về, cuộc sống của gia đình con tạm ổn, tuy ăn trước trả sau, nhưng hạnh phúc lắm Cha ạ.

Cho đến năm 1999 con lại mang bầu đứa con thứ 5. Nhà lại eo hẹp, mấy đứa con lại bước vào niên học mới, mà nhà lại không có tiền chỉ có một con bò cày, bán nó thì gia đình con biết sống ra sao đây? Con mới gọi điện thoại xuống Đông Mỹ, để mượn Cha Hiên một ít tiền. Cha đồng ý và nhờ đó mà nhà con thoát khỏi cảnh túng ngặt. Ơn Cha già con biết kể sao cho hết. Cho nên con tự hứa với lòng mình phải từ bỏ mọi sự của ma quỷ mà sống cho tốt cuộc sống của một kitô hữu. Con tham gia ca đoàn, phục vụ nhà thờ, và vào hội Legio. Chồng con lại được bầu vào ban hội đồng giáo xứ. Vợ chồng con cứ vậy mà làm việc Chúa, không một chút từ nan.

Nhờ ơn Chúa Quan phòng, các con của con đã khôn lớn trưởng thành. Hiện gờ chúng con cũng đã có cháu nội và sắp có hai cháu ngoại. Còn một cháu năm nay học Cao Đẳng và thằng út học lớp 6.

Con bây giờ đang buôn bán hàng rau, kiếm ăn cũng qua ngày. Ba năm gần đây phong trào số đề sôi nổi trở lại. Họ bảo con cầm viết mà số ghi sẽ kiếm được nhiều tiền hơn nhưng con xin từ chối.

Mọi việc đã có Chúa an bài.

Gia đình con xin phó dâng.

Thưa Cha, con viết không được suôn cho lắm, có hơi dài dòng, mong Cha thông cảm cho con.

Con cám ơn Cha đã đọc dòng chữ này của con

TẤM LÒNG MỤC TỬ

__________________________________________

TRẦN TRỌNG PHÚ DUNG

Một chiều nọ cha Phêrô chở tôi theo lên giáo họ Trà Kê để dâng lễ, thời tiết hôm ấy không mấy thuận lợi, mưa lúc nặng lúc nhẹ, đường sá bầy nhầy. Lễ xong, trời đã tối. Tôi thấy sức khỏe của ngài có khác, liên tục hỉ mũi và sắc diện cũng kém vui. Hôm sau, dâng lễ xong thì thấy rõ ngài đã bị cảm nặng. Thế trên đường về, cũng như mọi lần, ngài vẫn ghé vào giáo họ Tân Bình để dâng lễ cho giáo dân tại đây. Ngài mệt nhọc thấy rõ, bị nghẹt mũi, khàn giọng. Lễ xong về đến Tịnh Sơn đã trưa, ngài ăn cho có lệ. Đến tối mặc dầu rất mệt nhưng ngài vẫn không bỏ lễ, nhưng thánh lễ hôm đó giáo dân không được rước lễ. Khi thấy giáo dân lên rước lễ, ngài xua tay tỏ ý không cho rước lễ được. Lễ xong thì phải vào phòng nằm vùi.

Bao giờ cũng thế, ngài rất trân trọng việc dâng lễ cho giáo dân. Trong mọi trường hợp ngài đều cố gắng hết sức để dâng lễ cho giáo dân.

Có lần tôi theo ngài xuống Đồng Cam gặp chính quyền xã Hòa Hội để xin phép dâng lễ cho giáo dân họ Đồng Cam mỗi tháng một lần. Trước hết, cha con tôi đến gặp ông trưởng Công an xã. Chưa đến giờ làm việc nên chúng tôi đến tận nhà riêng ở gần chợ Đồng Cam. Sau khi nghe cha tự giới thiệu và nêu rõ yêu cầu, ông trưởng công an bảo:

- Việc này thuộc quyền ông Chủ tịch Xã mời bác qua Ủy ban gặp ông Chủ tịch để trao đổi.

Cha con chúng tôi qua trụ sở Ủy ban xã Hoà Hội để xin gặp Chủ tịch. Chờ mãi rồi chúng tôi cũng được ông Chủ tịch xã tiếp chuyện. Nghe cha Hiên nói tới chuyện xin làm lễ thì ông ta bảo việc đó phả qua ông Bí thư xã. Cha Hiên xin được gặp ông Bí thư thì nhân viên cho biết hôm nay ông ấy không đi làm. Cha con tôi hỏi thăm nhà và được biết nhà ông ấy ở trong Lỗ Rong. Tìm đến nhà thì người nhà cho biết ông ấy đã ra trụ sở ủy ban làm việc. Thế là cha Hiên lại tiếp tục đến Ủy ban.

Tôi thưa ngài:

- Thôi mình về đi Cha. Người ta đã muốn tránh mặt không gặp thì đến làm gì?

Thế nhưng ngài cương quyết gặp để làm lễ tại Đồng Cam cho bằng được, vì giáo dân nơi đây quá cách trở khó khăn, mỗi khi muốn tham dự một thánh lễ phải đi rất xa. Khi nghe cha nói xin làm lễ, ông Bí thư xã Hòa Hội than phiền thanh niên ở đây bây giờ hư hỏng lắm hay nhậu nhẹt và thường xuyên gây rối tại địa phương. Cha Hiên mới giải thích bảo rằng ông Bí thư và Chính quyền cứ an tâm, vì khi cử hành thánh lễ, bầu khí trật tự và an toàn hơn một đám cưới. Còn về chuyện thanh niên quậy phá, ngài cam đoan nếu ông bí thư cho ngài dâng thánh lễ thường xuyên thì qua việc ngài nhắc nhở và nhờ ơn Chúa tác động những thanh niên đó nhất định sẽ tốt hơn. Ông bí thư lắng nghe có vẻ rất thành tâm. Ông ghi địa chỉ nhà thờ Tịnh Sơn và hứa hẹn sẽ liên lạc lại. Tôi những tưởng cha đã thuyết phục được ông ta, nhưng rồi đợi mãi vẫn chẳng thấy gì, mọi việc đâu lại vào đó. Chắc ý Chúa chưa muốn.

CHỮA TRỊ TÍNH NÓNG

_________________________________________

TRẦN TRỌNG PHÚ DUNG

Sau năm 1979 một số gia đình chúng tôi từ Cam Ranh và Nha Trang, theo lệnh của Nhà nước, đưa nhau lên vùng Kinh tế mới Hòa Nguyên. Tại đây mọi cái đều xa lạ so với nơi ở xưa. Cuộc sống phụng vụ cũng xa lạ, chỉ có ngày chủ nhật chúng tôi mới đến được nhà thờ và thánh lễ bắt đầu vào giờ cũng rất xa lạ: 11 giờ trưa, (sau này có điều chỉnh lại giờ giấc). Tuy nhiên, nhờ đó mà chúng tôi được biết cha Hiên. Ngoài sự thánh thiện khác thường của ngài, chúng tôi còn được biết thêm về tính Trương Phi của ngài cũng rất khác người. Chúng tôi hay nói đùa với nhau là nóng hơn lửa. Có một hôm đang dâng lễ đến đoạn dang hai tay đọc lời nguyện thì chiếc micro tự chế bỗng trở chứng, tiếng được tiếng mất. Bực mình, tiện tay ngài “rờ ve” một phát khiến chiếc micro tội nghiệp kia quay vù vù mấy vòng rồi đứng lại. Chúng tôi ở dưới nhìn lên mà thấy lo lo.

Thế rồi một hôm, trên đường đi lễ về, mọi người không ngớt xôn xao bàn tán. Trên tòa giảng hôm ấy, ngài bảo từ đây về sau hễ ai thấy ngài đang nổi nóng thì xin đến nhắc ngay lúc đó rằng: “ kìa cha đang nóng” để ngài kịp kìm hãm và khắc phục cơn nóng giận. Mỗi lần ai giúp ngài như thế, ngài sẽ trả cho năm ngàn, nếu không nhận tiền thì ngài sẽ dâng cho một lễ.

Không biết đã có ai được ngài trả tiền hay đã được dâng cho một lễ nào chưa. Phần tôi có chứng kiến một trường hợp. Một buổi trưa nọ cha con đang tất bật công việc chuẩn bị lễ Phục sinh tối hôm đó. Bỗng nghe tiếng ngài quát to, ai nấy đều ngưng công việc, không gian im lìm như đặc lại. Ai cũng lo lắng nghe ngóng xem việc gì đã xảy ra. Thì ra ai đó đã lấy cái lồng kính dùng để che gió cho cây nến phục sinh và để đâu đó mà ngài tìm không thấy. Lúc đó tôi đang đứng ở nhà của các dì. Dì Théophile mà chúng tôi thường gọi là dì Năm, thì thầm nói nhỏ với anh Nghĩa, người hay chở ngài đi đây đó:

- Ra nói đi nghĩa, cha đang nóng kìa, ra nói mà kiếm năm ngàn!

Anh Nghĩa thì đùn đẩy dì ra nói đi. Dĩ nhiên là đùa nhau chơi, thú thật phần tôi dù có một trăm ngàn cũng chả có cả gan dám nói trong lúc ấy. Sau đó trong bữa ăn trưa anh Nghĩa nói vui với ngài:

- Hồi nãy cha nóng tính quá! Cha quát to làm anh em chúng con ai cũng sợ.

Ngài cho biết ngài bực mình vì ai đó để trật chỗ làm ngài tìm không ra. Anh Nghĩa bảo:

- Cha cho xin con năm ngàn đi!

Cha hỏi tiền gì, anh ta bảo tiền công đã nói cho cha biết là cha đã nóng giận. Cha Hiên phì cười: “năm ngàn con khỉ, người ta muốn chữa trị cái tính nóng nên yêu cầu nhắc liền lúc đó để sửa chữa, còn bây giờ mới nói thì sửa được mốc gì nữa”. Bữa cơm trôi qua trong vui vẻ, cơn nóng giận mới vừa trước đó như không hề xảy ra.

TỪ LỚP GIÁO LÝ HÔN NHÂN

__________________________________________________________

Phêrô Đỗ Đức Hạo

Vào đầu năm 1980 – Đôi bạn tôi gặp nhau, và được cha dạy giáo lý hôn nhân – trong khóa giáo lý hôn nhân cha dạy lúc ấy, gồm có 6 đôi. Gần mãn khóa cha phải kiểm tra từng đôi một về sự hiểu biết về giáo lý và đã thực hành được bao nhiêu, nếu đôi nào còn thiếu sót, cha sẽ bổ sung thêm trước khi ban bí tích hôn phối.

Nhưng với đôi chúng tôi, chẳng những cha không kiểm tra giáo lý, mà còn ưu tiên cho được chọn ngày để cha ban bí tích Hôn Phối riêng. Ngày đầu tháng, ngày 1/6/1980, là ngày kính Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô, cũng chính ngày này cha ban bí tích cho đôi bạn chúng tôi. Cũng chính ngày này vợ chồng trẻ chúng tôi đã ý thức phải kết hợp cùng tình yêu Chúa và nhìn vào Thánh Tâm Chúa bị tội lỗi của chúng ta đâm thâu. Chúng tôi ý thức rõ điều ấy vì cha dạy giáo lý cho vợ chồng chúng tôi rất là kỹ. Cũng nhờ đó chúng tôi cầu nguyện hằng ngày trong bữa ăn, trong công việc, mọi sự đền có Chúa hiện diện ở cùng.

Gia đình mới của chúng tôi được cha thiết lập vững chắc trên nền tảng giáo lý Kitô giáo, và sự hiện diện của Thiên Chúa toàn năng. Nhưng vui chưa có được bao nhiêu, thì tôi bị tình nghi là rải truyền đơn và dán biểu ngữ chống lại Chính Quyền, mà thực ra việc này tôi không có làm. Từ ngày 5/9/1980 đến ngày12/9/1980, tôi bị bắt tạm giam, để điều tra xét hỏi. Về phần vợ tôi ở nhà đã có thai, hằng tuần vẫn đi lễ Chúa nhật và được Cha an ủi. Đôi khi Ngài cũng đưa ít tiền bạc cho vợ tôi, để vợ tôi mua đồ thăm chồng.

Trong trại tạm giam, tôi vẫn cầu nguyện đều đặn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, riêng tôi vẫn ý thức Cha sở của tôi vẫn cầu nguyện cho tôi để tôi vững vàng đặt trọn niềm tin vào Chúa. Nhờlời cầu xin của cha, tôi được ơn Chúa thật sự, bản thân của tôi đã chứng minh cho họ thấy Thiên Chúa thật sự ở trong tôi.

Ra khỏi trại tạm giam, người đầu tiên mà tôi đến thăm hỏi là Cha sở. Cha con gặp nhau vừa mừng vừa vui. Câu an ủi của cha ban cho tôi là: con phải cầu nguyện liên tục, kẻo sa trước cám dỗ!

Thế là tôi chia tay cha, trở về với gia đình. Năm sau đứa con gái đầu lòng của vợ chồng tôi ra đời. Vài năm sau vợ tôi sinh thêm 2 đứa bé trai nữa, và gia đình tôi vẫn sống trong ơn nghĩa của Chúa, qua sự dạy bảo của cha sở. Cuộc sống vẫn trôi qua êm ả. Theo năm tháng con cái tôi lớn dần qua sự dạy dỗ theo khuôn mẫu gia đình Kitô hữu, sống cuộc sống có Chúa ngự trị thật sự.

Với ngần ấy thời gian tôi học ở cha được rất nhiều điều bổ ích, gồm có những nhân đức sau: Đạo đức, hiền hòa, chăm làm, hy sinh chịu đựng lẫn nhau, yêu thương chăm sóc nhau, mọi sự đều qui hướng về Chúa.

Tôi viết những điều này ra đây, không phải là người tôi đạo đức, mà chính là nhờ có công cha dạy bảo, mà sau này dù gặp đủ điều trong cuộc sống tôi rất bình tĩnh vì mọi sự tôi đã tin thác vào Chúa.

Năm 1989, vợ tôi mang thai. Gia đình quá khó khăn, nào phải làm nuôi sống gia đình, nào vợ tôi bệnh nặng. Muốn có tiền chữa trị cho vợ, tôi quyết định đi làm ăn xa, kiếm chút tiền khấm khá về giải quyết khó khăn của gia đình và cuộc sống hằng ngày. Thế nhưng chuyến đi làm ăn xa không như mình mong muốn. Tôi bị lỗ lã nên không về được. Biết ngày vợ gần sinh, mà không có tiền làm sao về, đành để vợ tôi ở nhà sinh nở một mình vậy. Tôi ở xa, chỉ còn biết nhờ 2 bên nội ngoại. Khi cha sở biết gia đình tôi quá khó khăn, mà tôi lại không có ở nhà, cha đã vận động bà con trong giáo họ giúp đỡ vợ con tôi. Chúa nhật trong buổi giảng, Cha đã kêu gọi cộng đồng thu hoạch lúa giùm cho gia đình tôi. Cha còn sai người đến thăm hỏi an ủi, giúp đỡ, vợ và con cái tôi.

Rồi cũng đến ngày tôi trở về. Nhìn cảnh nhà sao quá u buồn, nhìn con thì nheo nhóc, lòng tôi buồn rười rượi. Thế nhưng khi nghe vợ tôi kể lại mọi sự việc đã xảy ra trong thời gian tôi vắng nhà, tôi rất cảm đội ơn Chúa, vì Ngài đã quan phòng, và Ngài đã ban cho giáo xứ chúng con một Người Cha Sở rất tuyệt vời. Cha đã dùng mọi nhân đức mà Thiên Chúa đã ban cho. Những gì Thiên Chúa ban cho cha, cha dùng rất hiệu quả.

Tôi viết thêm một đoạn ngắn về gia đình tôi. Gia đình tôi gồm có vợ chồng và 6 đứa con, 4 gái và 2 trai. Vợ chồng cố gắng làm ăn để có của mà nuôi nấng, dạy dỗ và cho con cái được học hành, biết đâu sau này trong các con tôi lại có người được gọi làm việc cho Chúa. Nếu vợ chồng tôi không học ở cha những nhân đức cần thiết trong giáo lý hôn nhân và gia đình thì chính tôi đã bỏ cuộc.

Cha rời khỏi xứ đạo chúng tôi sau nhiều năm làm cha sở. Riêng gia đình tôi rất tiếc nhớ Cha – Cha ra đi chúng tôi đưa tiễn Cha về giáo xứ mới, giáo xứ Đông Mỹ - trong cảnh rất là long trọng. Về sau khi cha đổi đến giáo xứ Mằng Lăng, tôi và con tôi cũng có đi thăm cha.

Những năm về sau, cha về hưu ở Tòa Giám Mục.

Gia đình tôi vẫn dõi theo cuộc sống của cha, dù vào nam hay ra bắc, vẫn cầu xin ơn trên cho Ngài được mạnh hồn khỏe xác để phục vụ Giáo Hội – và nhiều mục vụ khác.

Năm nay lúc cấm phòng ở Tòa Giám Mục Qui Nhơn, cha gặp lại con tôi đang là chủng sinh, được các cha ở Tòa Giám Mục phân công chăm sóc các cha lớn tuổi. Gặp cậu chủng sinh mới ngày nào là cậu bé, mà nay lại phục vụ mình, với sự thông minh của cha, cha nhận ra ngay là con của vợ chồng tôi. Cha thăm hỏi về gia đình, sức khỏe, việc làm ăn. Trước khi chia tay, cha lại ban cho câu chủng sinh một đặc ân khác. Cha rút trong túi ra, cho chú chủng sinh 500.000đ và gởi cho gia đình tôi lon sữa bột. Hộp sữa này ngày cha qua đời chúng tôi dùng chưa hết.

Ngày 12/5/2009, Đức cha Giám mục Vinh Sơn Nguyễn văn Bản, chính thức nhận giáo phận Ban Mê Thuột. Cha có đi dự lễ. Xong lễ, Cha bị đột quị và đưa về Sài Gòn chữa trị. Vì tuổi già sức yếu nên Ngài đã mất vào lúc ngày 19/9/2009. Thi hài Ngài được tại quàn tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công. Lễ an táng Lúc 10g30 tại khu nghĩa trang dành cho tu sĩ và Linh Mục.

Trong tâm tình một con chiên đã được cha yêu thương chăn dắt, tôi vào Sài Gòn để đưa tiễn cha lần sau cuối, tiễn đưa cha về với Chúa. Tôi hợp ý với mọi người cầu xin Chúa cho cha sớm hưởng Nhan Chúa, trên Nước Thiên đàng. Trước nấm mộ của Cha, con xin hứa với Cha, con sẽ sống theo những gương cha đã sống vẫn còn mãi trong lòng vợ chồng con hôm nay và cho đến cuối cuộc đời.

Tịnh Sơn Ngày 22 /10/2009

Con Phêrô Đỗ Đức Hạo

MỘT GƯƠNG SÁNG

__________________________________________

Đa minh Nguyễn Văn Quyền

100 ngày trước khi Chúa thương gọi cha cố Phêrô về, tôi được ghé thăm cha. Khi nghe tin cha bị lâm bệnh nặng, từ bến xe miền Đông, tôi đi Tìm Dòng Đức Mẹ Đồng Công nơi cha đang ở để chữa bệnh. Từ Thủ Đức tôi tìm hỏi tỉnh lộ 43. Đúng là từ quê lên thành phố, tôi tìm tới Củ Chi, giáp Bình Dương, hỏi xe thồ cũng không ai biết. Tôi đi tìm hết hơn nửa ngày chưa được, nhưng vẫn quyết tâm.

Cuối cùng tôi cũng được gặp Cha. Cha cười, tôi giới thiệu với Cha: con là giáo dân xứ Sơn Nguyên. Cha cười cười nói nói. Cha rất đỗi vui mừng tiếp chuyện với tôi. Vẫn khuôn mặt ấy như ngày xưa ở xứ Sơn Nguyên. Cha hỏi thăm về giáo xứ, về Hội đoàn Legio, về gia đình tôi. Tôi biết Cha đang đau nhói trong người khi đi lại lấy nước cho tôi uống và lấy ghế mời tôi ngồi. Tôi chưa dám hỏi Cha bị đau thế nào, thì Cha đã ôm hông bụng: “Tôi bị lá lách và gan đang uống thuốc và vào hóa chất”.

Khi tôi bước vào phòng của Cha, Cha đã thấy tôi đi không được tự nhiên. Sau khi lấy nước mời tôi, Cha hỏi: “Chân anh bị sao thế?” Tôi thưa: “Con mới bị trượt chân té”. Cha liền đi lấy lọ dầu cho tôi thoa thêm nhiều lần. Tôi rất cảm động cảm ơn Cha. Thấy Cha vẫn vui tôi nói với Cha: “Con đang nuôi người bố của con, đang điều trị tại bệnh viện Việt Pháp, rồi qua bệnh viện nhân dân Thành phố. Ở bệnh viện Cam Ranh điều trị không qua, nên con đem bố con vào Sài gòn. Bố con hiện chưa tỉnh, vẫn hôn mê, lại bị lẫn nữa, đã được linh mục xức dầu trước khi đi bệnh viện, nay đã gần một tháng.” Cha hỏi tôi: “Nay ông cụ được bao nhiêu tuổi?” Tôi thưa: “Bố con đã 85 tuổi”. Cha nói: “Thì ít hơn tôi 2 tuổi.” Cha ngồi nghỉ một lúc, rồi bảo tôi: Tình hình như thế, thì anh về bàn lại gia đình, nên đem ông về thì tốt hơn, chúng ta hãy cầu nguyện cho ông, tôi cũng góp lời cầu nguyện cho ông.” Rồi Cha đi tới tủ lạnh lấy 3 lon nước yến và một lọ dầu nhỏ đưa cho tôi, bảo: “Đem nước cho ông uống cho khỏe, dầu để thoa cho ông”. Tôi không dám nhận, vì tới thăm Cha mà không có quà. Nhưng Cha bảo: “Tôi có rất nhiều, anh cứ lấy cho để ông uống.” Khi tôi chào tạm biệt Cha để đi về bệnh viện, Cha còn nói tiếp: “Nên đem ông cụ về gia đình, tốn tiền mà khó qua khỏi.” Cha còn cảm ơn tôi. Thế nhưng trong sự quan phòng của Chúa, Cha cố đã được Chúa gọi về với Chúa trước bố tôi.

Đa minh Nguyễn Văn Quyền

Giáo xứ Sơn Nguyên

VIẾT VỀ CHA PHÊRÔ NGUYÊN CAO HIÊN

___________________________________________________________

Đội Đức Mẹ cực thanh cực tịnh, gx Trà Kê

Năm 1994 cha Phêrô Hiên bảo chúng con vào hội Legio Mariae nhưng chúng con không hiểu vào hội để làm gì. Cha hỏi: “Chúng con có biết đọc kinh cầu nguyện hay không?” Chúng con thưa là biết nhưng chúng con đã già đã rồi mà trình độ lại không có. Thế nhưng Cha chỉ nói rằng chúng con đã biết đọc kinh cầu nguyện là được rồi. Và từ đó Cha dìu dắt và chỉ dẫn. Đến ngày 10 tháng 5 năm 1994, Cha đã thành lập hội Legio Mariae. Lúc đó trong hội có 7 người. tính cho đến ngày hôm nay, khi chúng con từ một giáo họ lên một giáo xứ, thì hội Legio Mariae cực thanh cực tịnh của chúng con đã trải qua 15 năm hoạt động.

Khi đến với giáo họ Trà Kê chúng con, Cha Phêrô đã vượt qua biết bao nhiêu là gian khổ. Lúc ấy không có nhà thờ, Cha chỉ đến nhà giáo dân làm lễ. Rửa tội và giải tội cũng vậy, Cha phải đi đến từng nhà. Với một tấm lòng thánh thiện đạo đức, tận tụy lo cho đoàn chiên của mình, Cha đã không quản ngại khó khăn. Suốt thời kỳ đó Cha không có điều kiện hay phương tiện gì chỉ có một chiếc xe đạp. Đường sá đi lại khó khăn nhưng Cha vẫn vượt qua biết bao nhiêu là suối đèo để đến với giáo họ chúng con. Còn cao cả hơn nữa, Cha luôn chia sẻ hết những gì mình có với mọi người còn khó khăn. Mỗi khi Cha làm lễ, Cha chỉ dùng cơm ở những nhà khốn khó nghèo khổ thôi, còn không thì Cha lại mang theo xôi với muối mè để dùng.

CHỨNG NHÂN ĐỜI THƯỜNG

__________________________________________________________

Nữ tu Rosa Huỳnh Ngọc Đỗ Quyên

Ông bà ta đã đúc kết được nhiều kinh ngiệm trong cuộc sống và để lại cho con cháu như gia sản quý báu trong những kho tàng ca dao tục ngữ.Một trong những câu tôi tâm đắc là: Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo. Ở đây ý muốn nói rằng để dạy dỗ và thuyết phục người khác không chỉ nhờ ở sự tài giỏi của lời nói mà nhất là bằng đời sống của mình. Đặc biệt trong công cuộc loan báo Tin Mừng mọi thời luôn cần những những chứng nhân đích thực trong đời sống. Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 42 có nói: “Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy.” Vâng, để minh chứng điều này, tôi xin kể lại một kinh nghiệm của chính bản thân mình.

Sống ở miền núi kinh tế mới, cũng như bao thiếu nữ khác, tôi đi học và mơ ước sẽ làm một cái gì đó giúp ích cho xã hội. Tôi được biết Chúa, nhận ra sự hiện diện của Chúa, nghe được tiếng Chúa mời gọi và đáp trả tình yêu của Ngài trong ơn gọi tận hiến là nhờ cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên.

Khi kể về cha Phêrô mọi người cả lương và giáo đều có chung một nhận định, đó là ông cha thánh. Và họ nói không sai chút nào. Cha là một người hiền lành, khiêm tốn, giản dị và luôn vui cười. Đặc biệt, cha có một đời sống rất đạo đức, thánh thiện.

Từ nhỏ, tôi được cha cho xưng tội rước lễ lần đầu và lãnh bí tích Thêm sức. Cha giảng về Chúa rất đơn sơ, bình dị nhưng hết sức thuyết phục. Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi cha. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu, yêu thương, gần gũi đối với tất cả mọi hạng người, nhất là những em bé, những người nghèo khổ, bất hạnh. Cha luôn sẵn sàng giúp đỡ những người gặp khó khăn. Có nhiều lúc cha bị nhiều người lừa gạt nhưng cha vẫn hay nói, mặc kệ, mình cứ giúp người ta dù có bị lừa cũng không sao, thà giúp lầm còn hơn bỏ sót mà.

Học lớp 12, tôi được cha gợi ý bảo đi tu. Cha cho các soeurs Mến Thánh Giá đến gặp tôi. Lúc ấy tôi không biết đi tu sẽ như thế nào. Chỉ nghĩ đi tu là theo Chúa, sẽ trở nên đạo đức, thánh thiện và giúp ích được cho nhiều người giống như cha và các soeurs. Họ là những người mà tôi rất ngưỡng mộ, khâm phục và muốn noi theo.

Thế là, như một phép mầu, tốt nghiệp 12 xong, tôi theo các soeurs vào Nhà Dòng. Cha nhờ quý soeurs lo lắng cho tôi đầy đủ mọi thứ. Cha luôn động viên, hướng dẫn, chia sẻ và cầu nguyện cho tôi. Tôi có được như ngày hôm nay là nhờ công ơn của cha rất nhiều. Tôi luôn nhớ về cha với tấm lòng vô cùng tri ân. Cũng vì biết ơn cha, tôi cố gắng vượt qua mọi khó khăn để tiến bước trong ơn gọi. Noi gương cha, trong cuộc sống tôi luôn tìm kiếm sự thánh thiện. Nên thánh là mục tiêu quan trọng nhất của đời tôi. Ở trong Dòng, khi đã được học hỏi nhiều, tôi rất hạnh phúc vì thấy cảm thấy mình đã đi đúng dường. Nên Thánh là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu, đặc biệt là những người sống đời tu trì.

Một điều nổi bật nhất ở cha nữa là lòng say yêu Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha rất thích chầu Mình Thánh Chúa, hay nói, giảng về Chúa Giêsu Thánh Thể một cách say mê và xác tín. Ở các Giáo xứ cha đến giúp thường có phong trào Chầu Thánh Thể mỗi ngày hoặc mỗi tuần. Những ai đã được gặp cha, nói chuyện với cha, sống cùng cha đều cảm thấy như mình đã gặp được Chúa Giêsu hiện thân nơi cha thật sống động, rõ ràng.Cảm ơn Chúa tôi cũng đã có được diễm phúc ấy. Có rất nhiều người được biến đổi, tin theo Chúa, trở về với Chúa qua trung gian cha và nhờ cha.

Ít thấy một cha xứ nào ở một giáo xứ hơn hai mươi lăm năm như cha Phêrô ở giáo xứ chúng tôi mà luôn được mọi người yêu mến, kính trọng và hết lòng gắn bó, tri ân. Khi cha rời giáo xứ ra đi mọi người đều rất luyến tiếc. Vì thế, dù nay cha đã qua đời nhưng hình ảnh cha, lời dạy dỗ và gương sống của cha vẫn còn mãi trong lòng mọi người, đặc biệt là những người con của giáo xứ Tịnh Sơn, giáo phận Qui Nhơn.

Hôm nay, nhân kỷ niệm một năm ngày mất của cha Phêrô, với tâm tình thảo hiếu, tôi xin được gợi nhớ một vài kỷ niệm về Ngài để bày tỏ tâm lòng vô cùng biết ơn của mình và của mọi nguời đối với cha. Nguyện xin Chúa ban cho cha sớm được vinh hiển trên thiên quốc và xin cha cũng cầu bầu cùng Chúa cho chúng con, biết noi gương ha sống thánh thiện trong từng vai trò và bật sống của mình.

1997: CHA SỞ MẰNG LĂNG YÊU THƯƠNG NGƯỜI GIÀ

__________________________________________

Nữ tu Michel kể rằng:

Cha Hiên về Mằng Lăng này có ba tháng mà rất thương các bà già về hưu tại phước viện chúng con. Hầu như ngày nào ngài cũng viếng thăm an ủi các bà già của chúng con.

(Cha Khánh viết lại từ điện đàm ghi âm sáng 10-9-2010).

VÀI KỶ NIỆM

________________________________________

Sáng 15-9-2010, có lễ khởi công xây dựng nhà thờ họ Chợ Mới thuộc giáo xứ Mằng Lăng. Trong lúc chờ đợi, linh mục GP Võ Tá Khánh đã hỏi chuyện ba người và ghi lại được những cảm nghĩ sau đây:

Ông Tađêô Nguyễn Rơi, biện họ Chợ Mới

Mấy tháng ở Mằng Lăng, hằng tuần Cha Phêrô Hiên làm lễ ở Chợ Mới vào chiều Thứ Bảy thay cho Chúa Nhật. Trước lễ ngài cho bớt đọc kinh để dạy giáo lý cho cộng đoàn khoảng 15 phút. Cha Hiên về Mằng Lăng muốn đổi mới rất nhiều. Ví dụ như ngài nhấn mạnh phải cầu nguyện nhiều chớ không phải đọc kinh nhiều. Tuy nhiên bà con nhiều người có vẻ không bằng lòng cho lắm. Hoặc như về cưới hỏi, tổ chức linh đình, lòe loẹt, ngài không hài lòng. Ngài khuyên nên giản dị, đừng đua đòi. Nhà khá giả thì không sao nhưng đa số người mình nghèo, đua đòi rồi nợ nần khổ sở. Một số chức việc không hài lòng. Có lẽ cha thấy người ta không thích nên cha không muốn ở đây nữa. Sau khi Cha rời Mằng Lăng, nhiều người mới thấm thía những lời ngài dạy nhưng cũng có những người không hiểu.

Ô. Phêrô Trần Ngọc Huệ, biện họ Chợ Mới

Theo con, qua thời gian rất ngắn Cha Hiên về Mằng Lăng, mỗi tuần cha sang Chợ Mới này làm lễ, con thấy sự thánh thiện, đạo đức của cha rất khó có. Cha ở bên Mằng Lăng nên khi cha đi, con không biết để đưa tiễn. Cha đi rồi, con mới biết. Kỷ niệm sâu xa nhất đối với con mà tới nay con vẫn rất hài lòng là cha khuyên đừng tổ chức đám cưới rình rang. Cha kể có một đám cưới rình rang, cưới xong rồi nợ nần, lời qua tiếng lại và tan vỡ hạnh phúc gia đình. Con rất tấm đắc điều cha dạy đó.

Ô. Phaolô Lê Đình Ba, 53 tuổi, giáo dân Mằng Lăng ở xã An Nghiệp:

Cha Phêrô Hiên đã già nhưng lời giảng rất mới mẻ, sát với đời sống hằng ngày và đầy lòng khoan dung. Cha thường nhấn mạnh: chỉ đọc một kinh mà tập trung yêu mến Chúa hơn là đọc nhiều kinh mà lòng trí chỉ lo nghĩ về công việc. Cha cũng nhấn mạnh đừng xét đoán. Nhìn bề ngoài mình thấy người ta rối vợ rối chồng, nhưng mình đâu biết được bề trong của người ta. Chỉ có Chúa mới có thể đoán xét.

DẤU ẤN TẠI MẰNG LĂNG

___________________________________________

N. V. L.

Tại giáo xứ chúng tôi, đã có bao người đến rồi đi, đến rồi đi. Trong đó có một người Cha, một linh mục mà người dân ở đây gọi là Ông Cố Hiên. Ngày ngài về Mằng Lăng, tôi mới học xong lớp 12, đang ở nhà. Tôi chỉ mới được tham gia giáo lý viên nhưng chưa được đứng lớp. Thế nhưng ngài đã để lại cho tôi một ấn tượng, với biết bao kỷ niệm vui buồn nhớ thương trong cuộc sống.

Ngài đã sống ở đây chỉ một thời gian rất ngắn nhưng đã làm rung động biết bao lòng người về đời sống tâm linh.

Có lẽ Chúa đã gởi ngài đến cho chúng tôi, một gương sống cầu nguyện, luôn kết hiệp với Chúa. Ngài thường đi dạo quanh nhà thờ, một mình. Có lẽ ngài dạo mát hay tập thể dục chăng? Tuy nhiên trên tay ngài lúc nào cũng mân mê tràng chuỗi Mân Côi. Hình như đó là người bạn thân của ngài, lúc nào cũng có bên ngài, lúc nào ngài cũng mang trên tay.

Thấy ngài, nhiều người đã khơi được được lòng kính mến Mẹ, yêu quý và tôn sùng Mẹ. Mỗi tối, hang đá Đức Mẹ lại có nhiều người viếng thăm và chiêm ngưỡng hơn. Họ biết dành nhiều thời gian hơn để ngồi dưới chân mẹ. Họ đã cảm nhận được lòng yêu thương của Mẹ qua người cha trong giáo xứ.

Ngài luôn hướng đời sống theo tinh thần hiệp thông với Thiên Chúa. Trước mỗi thánh lễ, ngài luôn dành một khoảng 15 phút để chia sẻ, để hướng dẫn, để dạy giáo lý và đặc biệt là nói về đời sống tâm linh, giúp giáo dân biết cầu nguyện. Cầu nguyện như đứa con nói với mẹ hiền, như người con nằm trong lòng bố, như người em tâm sự với anh chị mình, như đôi bạn thân tâm sự với nhau trên đường. Mỗi lần tôi đến gặp ngài, câu đầu tiên ngài hỏi là:

- Con đã viếng Chúa chưa? Nếu chưa thì con hãy …

Từ đó, cửa nhà thờ luôn rộng mở để đón tiếp bao lượt người đến rồi đi, đến rồi đi. Biết bao tâm hồn con người trở nên sốt sắng hơn. Trên gương mặt mọi người, sau khi gặp ngài, đều rạng rỡ, nét mặt tươi vui vì đã được Chúa ở với mình.

Và đã trở thành thói quen, cửa nhà thờ thường xuyên đón tiếp bao tâm hồn, bao con người đến với Chúa. Giờ cầu nguyện ấy, cánh cửa ấy như ngọn đèn đã khơi gợi cho bao tâm hồn khô khan nguội lạnh, được ấm lên và sáng lên.

Ngài chỉ ở với chúng tôi ba tháng. Hồi ấy, có thể có người chưa hiểu ngài. Thế nhưng rồi qua thời gian lạnh lẽo, ai đã từng gặp ngài đều thốt lên: “Ôi, ngài thánh thiện quá! đạo đức quá!” Bao nhiêu người nhờ được gặp ngài mà đã thành yêu mến hơn, thánh thiện hơn, thường xuyên đến nhà thờ hơn. Việc cầu nguyện của họ biến đổi, cuộc sống họ biến đổi, và họ cảm thấy có Chúa ở ngay bên. Không ai nói với ai, nhưng mọi người đều cảm nhận rằng: qua ngài Chúa đã đến với chúng ta và đã ở với chúng ta.

Giờ đây ngài đã đi nhưng hình ảnh vẫn ở lại nơi đây trong mỗi lần cầu nguyện, mỗi bước đi, mỗi giờ giáo lý.

Mằng Lăng, 12-9-2010

N. V. L.

1998-2001: CHA SỞ ĐÔNG MỸ

KÍNH TRỌNG NGƯỜI NGHÈO VÀ SAY MÊ THÁNH THỂ


___________________________________________________________

Lời kể của lm Phêrô Trương Minh Thái,

cha sở Đông Mỹ

Hồi đó con đang giúp xứ tại Tuy Hòa thì được Đức Cha bảo đi giúp xứ Đông Mỹ. Cha già Hiên đã cho một phái đoàn Hội Đồng Giáo Xứ sang đón rước con, dù con chỉ là một ông thầy. Tới nơi con rất ngỡ ngàng. Cuộc sống của ngài hết sức giản dị. Suốt ba năm con ở với ngài, những lễ liên quan đến ngài như bổn mạng, giáp năm linh mục, ngài chỉ cho phép dừng lại để cầu nguyện cho ngài, hoặc cũng có thể cầu nguyện trước cho ngài vài ngày, chứ không bao giờ tổ chức tiệc tùng gì. Những việc liên hoan, ngài rất hạn chế, để dành tiền lo việc bác ái. Thế mà khi đón con về, ngài đã tổ chức một bữa tiệc, phòng ốc trang hoàng bày biện chu đáo. Sau này, khi thầy Augustinô Nguyễn Văn Phú nay là cha sở Hóc Gáo, về giúp Đông Mỹ, lúc ấy con làm phó xứ ở đó, cũng thế. Ngài chuẩn bị trước để đón tiếp một thầy xứ. Cho thấy ngài rất ưu ái và tôn trọng những người tận hiến, các chủng sinh, đặc biệt là các linh mục. Đó là một nét rất hay con học được ở ngài.

Qua thời gian ở với ngài, con thấy con người của ngài là con người bác bái. Bác ái của ngài là một sự cho đi, không hề có một chút tính toán theo kiểu thế gian. Phòng con ở phía ngoài. Có lần con thấy rõ một bà nọ tới cổng, quăng đôi dép ở ngoài, đi chân không vào. Bà vào phòng thưa cha một số việc. Lát sau, cha dẫn bà lên phòng con. Trên tay bà ôm một cái mền. Cha bảo con:

- Thầy cho tôi mượn chiếc mền của Thầy đi.

Con thưa:

- Bà ấy có rồi mà cha!

- Nhưng bà cho tôi biết bà còn một đứa con gái mới sinh cháu bé, nó cũng khổ lắm.

Con miễn cưỡng đưa cho ngài. Chưa xong, ngài còn mượn thêm tiền:

- Thầy còn tiền, cho tôi mượn vài trăm nghìn.

Con đưa ngài hai trăm nghìn. Ngài đưa cho bà bảo về mua này mua nọ và mua dép mang. Con lập tức phản đối:

- Thưa cha, con thấy bả vất dép ở ngoài kia!

Cha nghiêm nghị bảo con:

- Xong việc của thầy rồi, thầy vào đi!

Ngài đẩy con vào và đưa tiền cho bà, không hỏi han gì thêm.

Đến bữa ăn tối, ngài nhỏ nhẹ nói với con:

- Thầy nghĩ tôi không biết gì à? Tôi biết chứ. Thế nhưng người ta đã hạ mình xuống để xin, mặc dù họ dùng những cách không hay, thì vẫn là một người nghèo. Chúa đã gởi đến thì mình phải giúp.

Đó là bài học quý giá con học được nơi ngài, một lòng bác ái sâu xa, tôn trọng người khác hơn mình. Chúng ta thì thường cho theo kiểu bố thí, trong lòng vẫn khinh thường người nghèo, còn nơi ngài thì toát lên sự tôn trọng đặc biệt đối với người nghèo.

Một tấm gương khác nữa của ngài là sự say mê Chúa Giêsu Thánh Thể. Con phải nói là say mê. Khi ngài về Đông Mỹ, đời sống của giáo dân có phần sa sút. Ngài phát động chương trình chầu Thánh Thể 24 giờ trên 24 giờ. Con cùng với ngài bắt đầu việc đó và cổ võ giáo dân tham gia. Tuy nhiên giáo dân chưa quen, nhất là vào những giờ từ gần khuya đến sáng. Ngài mới tâm sự với con và bảo:

- Thôi, bây giờ cha một giờ, tôi một giờ, tôi một giờ, cha một giờ, hai chúng ta thay phiên nhau chầu cho đến sáng.

Lúc ấy con mới chịu chức linh mục, trước nhu cầu của giáo dân, con không từ chối được. Con đã thử với ngài một tháng liền. Tuy nhiên những giờ chầu của con chỉ được mươi phút đầu, nhất là những giờ sau nửa đêm, đúng là con chỉ ngủ trong nhà thờ thôi. Nói được rằng con chầu chỉ cốt để cho cha sở mình vui lòng hơn. Thế nhưng dần dần nhờ đó lòng yêu mến Thánh Thể nơi con đã được hâm nóng, lớn mạnh hơn. Nhất là khi thấy sự trung tín của một ông già, dù đứng lên ngồi xuống không nổi nhưng cứ đến giờ là có mặt, lại bên con và khẽ bảo:

- Thôi, cha về nghỉ đi, đã đến giờ của tôi.

Nếu con có ngủ quên, đến trễ, ngài vẫn quỳ chầu ở đó. Đó là những biểu tỏ cho thấy ngài rất say mê Thánh Thể. Điều người ta nói về ngài quả không sai chút nào: “Đến nhà xứ tìm cha Hiên mà không thấy thì vào nhà thờ, thế nào cũng có ngài ở đó.” Thế nhưng nếu người ta bắt gặp ngài ban đêm ở trong nhà thờ mới biết ngài say mê Thánh Thể đến mức nào. Đó chính là nguồn sức mạnh đem lại cho ngài sự thánh thiện sáng chói.

Cũng còn phải nói Ngài rất yêu mến Đức Mẹ và cổ võ lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngài tìm tòi và phổ biến cho giáo dân những tài liệu về Đức Mẹ Lộ Đức, Fatima, La Vang, Mễ Du… Ngài lập ra hội Legio, hội Bà Mẹ Công Giáo, hội Trợ táng, hội Bác ái Thánh Vinh Sơn… Lòng yêu mến Đức Mẹ lộ rõ nơi chính ngài khi ngài cử hành những thánh lễ kính Đức Mẹ, rất sốt sắng. Nhiều khi con đã thấy ngài rưng rưng nước mắt khi dâng các lễ kính Đức Mẹ. Các bài giảng của ngài về Đức Mẹ thường nhấn mạnh tới tấm lòng bao dung của Mẹ, tình thương Mẹ dành cho con cái, nhất là những người con linh mục. Khi con chủ sự những lễ kính Đức Mẹ, ngài vẫn thường nhắc con: Linh mục dâng lễ nhờ Mẹ và với Mẹ, điều ấy quan trọng lắm. Cha hãy cố gắng dâng lễ trong tâm tình linh mục là con của Mẹ.

SỨC MẠNH CỦA THÁNH THỂ

__________________________________________________________

Lời kể của linh mục Augustinô NGUYỄN VĂN PHÚ, cha sở Hóc Gáo

Hè năm 2000, mãn Đại chủng viện Sao Biển Nha Trang, con được về giúp tại Đông Mỹ, do cha Nguyễn Cao Hiên làm cha sở và có cha Phêrô Trương Minh Thái đang làm phó cho ngài. Tới năm 2001, thụ phong phó tế rồi, con vẫn giúp ở đó. Tháng tư 2002 thụ phong linh mục rồi, vẫn còn ở giúp tại Đông Mỹ một thời gian trước khi được bổ nhiệm làm phó xứ Sông Cầu.

Hình ảnh sâu đậm nhất nơi con là sự thánh thiện của ngài. Ngài có một chương trình đặc biệt, mời gọi mỗi gia đình đăng ký chầu Thánh thể một giờ. Con học được rất nhiều nơi việc chầu Thánh Thể này. Một thời gian sau, ngài tổ chức việc chầu Thánh Thể tại các họ ở xa, ngài cũng chở con đi, cho con được làm quen với các giáo họ.

Lúc đầu, con thấy việc đó hơi mệt, nhưng rồi có một câu chuyện Ngài kể lại đã đánh động lòng cha Thái và con rất nhiều. Hôm đó ngài đi chầu ở họ Thạch Bắc về. Ngài đẩy xe gắn máy qua đường rầy xe lửa, bị kẹt giữa đường rầy, không sao đẩy được. Đang khi xe lửa hụ còi mỗi lúc một gần thì rất may có một người dân xúm vào giúp ngài đẩy. Hai người vừa đẩy qua khỏi đường rầy thì xe lửa lướt tới. Hoảng hồn! Từ đó Cha Thái ở nhà lo việc chầu Mình Thánh ở Đông Mỹ, còn con theo cha già đi các họ nhánh. Nhờ đó mà thấy được đời sống thiêng liêng của ngài rất hay và xác tín rằng việc chầu Thánh Thể rất cần cho những người thánh hiến.

Sau khi con làm linh mục ngài nhắn nhủ con rằng người linh mục cần dành thời gian gặp gỡ Thiên Chúa để nghe Chúa nói với mình và chỉ cho biết điều phải làm. Không gắn bó với Chúa, mình không làm gì được. Lời khuyên của ngài đã thành kim chỉ nam, nhờ đó con đã bắt chước ngài, biết dành thời giờ gặp Chúa, cầu nguyện.

TÌNH HUYNH ĐỆ

___________________________________________________________

Hồi Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên về Đông Mỹ thì Cha Phaolô Trương Đắc Cần (sn 1923) đang ở Sông Cầu. Hai nơi cách nhau 60 km nhưng thỉnh thoảng vị này lại chạy honda đến thăm vị kia, ăn trưa rồi về.

Hằng năm, hai vị rủ nhau đi tĩnh tâm xa. Một lần tĩnh tâm tại đan viện Thiên An Huế, ba ngày chia sẻ cuộc sống phụng vụ với anh em đan sĩ, ngoài ra thì thinh lặng cầu nguyện.

Có lần tĩnh tâm tại đan viện Châu Sơn, Đơn Dương, đi bằng honda. Khi từ Châu Sơn về, qua khỏi Ngã ba Thành, cha Cần đi trước, đợi mãi không thấy cha Hiên. Cha Cần tưởng cha Hiên có việc ghé Nha Trang rồi theo đường Rù Rỳ về Đông Mỹ, nên đi luôn về Sông Cầu. Mấy hôm sau mới biết xe honda của cha Hiên tông phải xe đạp một thiếu nữ. Các cha trẻ chọc: “Cha già Hiên táng con gái người ta” (ở Bình Định và Phú Yên, xe tông cũng gọi là xe táng, nhưng do phát âm không phân biệt “táng” với “tán”, câu nói trở thành dị nghĩa, khôi hài). Cha già chỉ cười.

Lần khác hai cha liên hệ với một cha Dòng Tên xin giúp là linh thao nhưng vị này bảo: “Hai cha già rồi chẳng cần linh thao nữa!”

NGƯỜI ĐEM SỨC SỐNG

ĐẾN THẠCH BẮC VÀ THẠCH NAM


_____________________________________

Maria Ngô Thị Anh Thư

Không lâu sau khi ngài về Đông Mỹ (1998), có một cái tên mà ai cũng biết, không riêng gì người Công giáo, mà cả đến người lương. Đó là ông cố Hiên, một con người đơn sơ, giản dị, khiêm nhu, nghèo khó, hết lòng tận tình chăm sóc cho bệnh nhân; thăm hỏi, động viên những ngườ già yếu, neo đơn không nơi nương tựa, những người gặp khó khăn thiếu thốn. Cả đến tấm chăn đang đắp trên mình, ông cố cũng lấy cho người nghèo vì họ đến xin tiền nhưng ông lại không có tiền cho họ. Ông cố nghèo như một người hành khất.

Dòng thời gian lặng lẽ trôi, người hành khất ấy cứ miệt mài kiên trung, hi sinh, âm thầm nhặt nhạnh những hạt lúa chín vàng về cho Giáo Hội. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”.

Khi cha cố Phêrô Nguyễn Cao Hiên về dâng lễ ở họ Thạch Bắc, thuộc giáo xứ Đông Mỹ, tôi mới học lớp tám, chị Thảo tôi học lớp chín. Hai chị em chúng tôi đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, rất thích. Chúng tôi về xin phép ba má cho theo đạo. Phía ngoại tôi có đạo, nhưng mẹ tôi lấy cha tôi là người lương rồi bỏ luôn. Rất may, cha tôi là người cởi mở. Ông tôn trọng nguyện vọng của chúng tôi. Tôi được cha cho vào lớp giáo lý dự tòng, hơn mười bạn trẻ. Lúc đầu cha dạy, về sau có ba chị tu hội đời dạy thay. Nay thì mẹ tôi và chị em chúng tôi đều rất hạnh phúc trong đời sống làm con Chúa.

Thạch Bắc còn được biết đến dưới cái tên “làng lưới gõ”. Nó xa xôi, hẻo lánh và nghèo nàn, ngoài việc đánh bắt cá và làm ruộng thì chẳng còn việc nào khác nữa. Ở đây có một ngôi nhà nguyện được xây từ năm 1959. Hồi còn chiến tranh, tín hữu vẫn đến đó dự lễ và đọc kinh cầu nguyện. Nhưng rồi sau chiến tranh, hầu như mọi người đều bỏ Chúa mà đi tìm miếng cơm manh áo. Ngôi nhà nguyện một thời trở thành trường học rồi sau bị bỏ hoang không người qua lại. Trong lòng người dân giờ đây không còn Chúa hiện hữu nữa. Cuộc sống đã cuốn hút họ vào dòng xoáy nhưng “nghèo vẫn hoàn nghèo”.

Từ thời Cha Sở trước, Cha Phêrô Nguyễn Cấp đã hy sinh và cố gắng rất nhiều để khôi phục các giáo họ Thạch Bắc và Thạch Nam. Đến năm 1993 ngài xin lại được các nhà nguyện Thạch Bắc và Thạch Nam. Và rồi liền sau đó, năm 1994 ngài trùng tu nhà nguyện Thạch Bắc và xây dựng mới nhà nguyện Thạch Nam. Nhà nguyện Thạch Bắc nhận Thánh Tâm Chúa Giêsu làm Quan thầy, và bổn mạng nhà nguyện Thạch Nam là Thánh Giuse Thợ.

Vì quá lâu xa Chúa, xa nhà thờ lại thêm quá nghèo khổ, vất vả lo chén cơm manh áo… đời sống đạo của bà con còn lơ là trễ nãi. Mãi cho đến năm 1998, ông cố Hiên về Đông Mỹ, ông cố lặng lội tới Thạch Bắc, Thạch Nam thăm viếng và động viên từng gia đình đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ. Cũng từ đó một số giáo dân ngày xưa đã quay trở lại, xưng tội và rước lễ. Rồi còn có thêm nhiều người mới nữa, trong đó có chị em chúng tôi. Trước đây phần vì hoàn cảnh khó khăn, phần thì lòng đạo của giáo dân suy giảm, từ khi ông cố đến có thêm nhiều thánh lễ và giờ kinh, giáo họ dần dần ấm lên và có sức sống.

Tạ ơn Chúa đã đoái thương nhìn đến xóm nghèo bé nhỏ. Mùa mưa bây giờ vẫn lầy lội nhưng Chúa đã ban cho một linh mục thánh thiện, đạo đức, đầy nhiệt huyết và đầy lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể.

Vì tình yêu Chúa Kitô và vì những linh hồn của mọi Kitô hữu đang xa rời không nhận biết Chúa, từ những cái tầm thường biến thành cái phi thường, ông cố Hiên luôn quảng đại, khoan dung, yêu thương, chịu thương chịu khó. Ông cố đem Tin Mừng và lòng mến Chúa đến cho giáo dân. Mặc dù mùa mưa hay mùa nắng, dù đường trơn trượt, gập ghềnh khó đi, mỗi tuần ông cố Hiên đều trung thành đến dâng Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, giải tội và dạy giáo lý cho tất cả mọi người chạy đến với Chúa.

Còn nhớ có một lần vào mùa nước dâng cao, không đi được, ông cố gởi xe ở một nhà người lương, bước xuống chiếc xuồng tre nhỏ bé. Một giáo dân đã chờ sẵn đó để đón ông đến nhà thờ dâng lễ. Một lần nước đã rút nhưng vẫn còn phải lội tới đầu gối, ông cố đi bộ và bị té. Chân ông bị bong gân, sưng to, đi lại khó khăn. Dầu vậy, ông vẫn cố gắng dâng lễ. Khi chuẩn bị dâng lễ ông cố thường hay tập hát trước. Có những lúc giáo dân hát sai, ông chỉ mỉm cười, không nói một lời, cũng không tỏ ra khó chịu. Lễ xong ông còn ở lại dạy giáo lý cho tất cả mọi người biết thêm về Thiên Chúa, biết noi gương Đức Mẹ và các Thánh mà sống tốt đời đẹp đạo.

Công lao ông cố Hiện thật vô cùng to lớn và quý giá. Nếu không có ông cố, những giáo dân hai họ Thạch Bắc và Thạch Nam chẳng biết đến bao giờ mới quay về với Chúa. Ghi nhớ công ơn của ông, giáo dân đã rủ nhau cầu nguyện, gắng sống đời bác ái, yêu thương, tích cực an ủi, động viên những người xung quanh, và đã có thêm rất nhiều người theo Chúa và hai giáo họ ngày càng phát triển.

Đến năm 2001, ông cố âm thầm lặng lẽ ra đi, không lời từ biệt. Ông không nói với giáo dân là ông sẽ đi về nghỉ hưu ở Qui Nhơn. Vì nếu ông nói, họ sẽ bày tiệc tiễn đưa. Ngày ông ra đi, tất cả mọi người đều không cầm được nước mắt. Vì chưng trong lòng mọi giáo dân thuộc giáo xứ Đông Mỹ, ông cố Hiên là một vị thánh sống. Người ta đã thường gọi như thế và cho đến hôm nay vẫn còn gọi như thế. Khi rời Qui Nhơn vào Sài Gòn nghỉ hưu tại Dòng Đồng Công Đức Mẹ, ông cố vẫn nêu gương sáng cho quý thầy qua lời nói, việc làm và cách sống.

Vào những ngày cuối đời trên giường bệnh, ông cố vẫn nghĩ về Giáo Xứ Đông Mỹ, đặc biệt là hai giáo họ Thạch Bắc và Thạch Nam. Ông luôn quan tâm và thăm hỏi sức khỏe của mọi người, hỏi cả công việc làm ăn nữa. Tuy cuộc sống vẫn còn khó khăn nhưng từ hơn mười năm nay Giáo Họ Thạch Tuân đã có Thánh Lễ Chúa Nhật thường xuyên, vào lúc 7h30 sáng hàng tuần, do linh mục Phêrô Trương Minh Thái dâng lễ.

Ngày 19-9-2009, Linh Mục Phêrô Maria Tuần Nguyễn Cao Hiên đã rời bỏ trần gian về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Một con người luôn sống vì mọi người. Một con người suốt đời đã sống và đã phục vụ âm thầm mà không cần sự đền đáp. Một con người luôn sẵn sàng hy sinh tất cả vì lòng mến Chúa. Không những thế ông cố Hiên còn là một người sùng kính Đức Mẹ Maria. Ông hay dạy chúng con phải luôn chạy đến với Mẹ, yêu mến Mẹ trong mọi nơi mọi lúc để nhờ Mẹ dắt dìu mà tiến bước gần Chúa hơn.

MARIA NGÔ THỊ ANH THƯ

2001-2005

HƯU DƯỠNG TẠI QUI NHƠN


___________________________________________

KHÔI HÀI

(Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh ghi lại)

Cha Anrê Huỳnh Tấn Nha kể rằng khi về nhà hưu dưỡng Qui Nhơn, cha Phêrô tận tụy chăm sóc phục vụ các cha khác. Cha Thọ phải ngồi xe lăn. Mỗi sáng, ngài giúp cha Thọ dâng lễ, chiều chiều lại đẩy xe cho cha Thọ đi dạo, khi tĩnh tâm thì đẩy cha Thọ đến phòng hội.

Cha Thọ có một cái chuông để gọi người giúp. Đêm ngủ không được ngài ngồi rung chuông giải khuây khiến cha Phêrô cũng ngủ không được. Cha Phêrô lén tháo quả lắc của chuông đem giấu đi. Cha Thọ khám phá ra chuông mất quả lắc, có ai vào lại cầm chuông lên vừa lắc vừa cười lý thú.

2005-2007: HƯU DƯỠNG TẠI BÙI CHU

________________________________________________

ẤN TƯỢNG

Cha Giuse Khổng Năng Bao, hiện hưu dưỡng tại an dưỡng viện Phát Diệm (Hạt Gò Vấp, giáo phận Sài Gòn) trả lời câu hỏi của cha Khánh:

- Thưa Cha, Cha đã có những năm làm việc chung với cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên tại Tiểu chủng viện Qui Nhơn, rồi sau lại cùng làm việc ở Hạt Phú Yên. Cha có những kỷ niệm về ngài.

- Nhờ cha Khánh ghi giúp hộ là cha Bao có ba ấn tượng rất lớn về cha Hiên: Ấn tượng thứ nhất, khi ở Chủng viện Qui Nhơn, ngài là một cha giáo và một linh hướng đầy ấn tượng đối với chủng viện và ấn tượng cách riêng đối với cha Bao. Ấn tượng thứ hai, là khi ngài tình nguyện đi Củng Sơn, khỉ ho cò gáy và mất an ninh, phải thánh thiện lắm mới dám tình nguyện. Ấn tượng thứ ba, là khi ngài về hưu tại Thủ Đức, có cha Trương Đắc Cần là cha sở kế nhiệm tôi ở Sông Cầu vào Sài Gòn chữa bệnh, ngài đã đưa cha Cần đến nhà hưu Xóm Mới này thăm tôi. Tôi rất cảm động về tấm tình huynh đệ của ngài. Ngài rất thương có lòng yêu thương anh em linh mục gốc Qui Nhơn. Đó là ba ấn tượng lớn, cha Khánh nhớ ghi giúp tôi.

(Lm Võ Tá Khánh viết lại từ điện đàm ghi âm sáng 10-9-2010.)

2007-2009: HƯU DƯỠNG TẠI THỦ ĐỨC

NHỮNG ĐỨC TÍNH VÀ NHÂN ĐỨC CAO CỦA CHA CỐ HIÊN


_____________________________________________________________

Lm Henrico M. Đinh Viết Phục, CMC

* Đức tính đơn sơ và hòa đồng với anh em tu sĩ trẻ:

Khi đã cao niên, cha cố xin vào Dòng Đồng Công Thủ đức hưu và đã được các Bề Trên Địa Phận và Dòng chấp nhận.

Khi vào sống trong Dòng, cha cố sống không riêng tư, co cụm, mà lại sống rất hòa đồng với anh em tu sĩ Dòng như: ăn cơm cùng mâm, đọc kinh chung, dâng lễ chung và sinh hoạt theo sát thời khóa biểu của Hội Dòng. Đặc biệt là ngài sống tinh thần thơ trẻ, khi Dòng có cuộc vui văn nghệ, ngài cùng xin lên giúp vui cùng với các tu sĩ trẻ khác.

Mặc du tuổi cao, ngài ăn uống rất bình thường như những tu sĩ khác. Không bao giờ ngài kêu ca, chê các món ăn mặn hay lạt, khô hay ướt, nhão hay giai, ăn rất vui và tỏ ra ngon miệng dù là không hợp khẩu vị. Nhà dòng đặt món gì, ngài ăn món ấy, không yêu sách đòi hỏi, không kè hè, lẩm bẩm kêu rêu.

* Tinh thần phục vụ các linh hồn nhất là các chủng sinh và tu sĩ nam nữ:

Dù tuổi cao 85-86, ngài vẫn còn hăng say giúp giảng tĩnh tâm, giải tội, dạy học, dâng lễ. Nơi nào xa, ngài đi xe bus, còn các hội dòng và tu hội gần nhà dòng thì ngài tự đi xe honđa hay đi bộ. Ấy là chưa kể khi có hối nhân đến nhà dòng xin xưng tội, nếu các linh mục dòng ngăn trở, thì ngài cũng sẵn sàng ra giải tội, coi như là câu chuyện đối với ngài.

* Hy sinh cao vời:

Khi khám phá ra căn bệnh ung thư gan vào giai đoạn cuối, ngài tỏ ra rất bình tĩnh và phó thác cho Thiên Chúa. Nhà dòng đưa đến bệnh viện nào chữa trị, ngài luôn vui vẻ, không đòi hỏi tìm thày hay đổi thuốc trị liệu theo ý riêng.

Và khi bệnh tình trầm trọng, các bác sĩ ở bệnh viện không còn chữa cho ngài được nữa, nói theo ngôn ngữ bình dân là bác sĩ đã chê, ngài đã được đưa về nhà dòng để các thày trong ban Y tế săn sóc. Trong những lúc bệnh nặng như thế, ngài không tỏ ra ưu phiền, không đòi hỏi các thày phải săn sóc làm sao. Những gì có thể tự làm được, ngài vẫn cố gắng làm để khỏi phiền để người khác: như tiểu tiện, đại tiện mặc dù đi đứng rất khó khăn phải cần có người nâng dậy.

Ai cũng biết bệnh ung thư gan vào giai đoạn cuối, nhất là những ngày cuối đời, thì thường rất đau đớn, thế nhưng các thày săn sóc ngài và anh em dòng thường thăm ngài cho biết ngài không hề kêu rên một tiếng, dù là rất nhỏ. Khi vào thăm ngài, nếu tinh ý, thấy ngài nhăn mặt, sắc diện biến đổi, thì hiểu rằng ngài đang chiến đấu với sự hành hạ của bệnh ung thư gan những ngày cuối làm ngài đau đớn lắm.

* Không dính bén tiền của:

Hầu như ngài chỉ dùng tiền riêng của ngài thủ đắc để cho những người nghèo trong hàng con cháu, các tu sinh, các giáo dân nghèo mà xưa kia là con chiên của ngài, ngài luôn sẵn sàng giúp đỡ nếu có thể được. Ngài cũng rất tế nhị là đóng góp với nhà dòng để lo hậu sự cho ngài “một ít” gọi là của ít lòng nhiều theo khả năng.

* Khiêm hạ, vâng lời:

Dù rằng không khấn vâng lời trong nhà dòng, nhưng ngài lại rất vâng lời các bề trên dù là người trẻ tuổi (gọi là bề trên cho oai) chứ thực đây chỉ là những thầy dòng được bề trên cắt cử phục vụ ngài.

Còn nhân đức thiên thần đối với ngài thì quả là tuyệt vời. Dù tuổi cao ngài vẫn tuân thủ và giữ cẩn thận như một đấng dẫn đàng nhân đức thực thụ.

* Tính cách vui tươi:

Ngài rất dễ hòa đồng, thường hay nói chơi, pha trò với các linh mục, tu sĩ khác, cũng chọc chạch làm trò, pha hề …

Ngài cũng rất lắng nghe và chấp nhận sự góp ý của người khác. Không ai thấy ngài to tiếng tranh biện để bảo vệ ý kiến mình bao giờ. Tuy nhiên ngài cũng rất yêu thương góp ý xây dựng khi cần và không hề áp đặt người khác theo mình.

Nói tóm lại dù cuộc đời ngài đã từng giữ nhiều nhiệm vụ khác nhau, giao tiếp với các thành phần khác nhau, nhưng mọi người đều phải chân nhận rằng: Cha cố Hiên đúng là một môn đệ tuyệt hảo của Đức Ki-tô, một người con ngoan của Giáo Hội, một người thầy, người bạn của mọi người, người con thảo của Đức Mẹ. Một mẫu gương linh mục tuyệt hảo của Việt Nam và giáo phận Qui Nhơn.

2009: LÂM TRỌNG BỆNH

________________________________________________

XIN GIÚP LỜI CẦU NGUYỆN

Từ: Huynh Kim simhkn@yahoo.com.vn

Chủ đề: XIN GIUP LOI CAU NGUYEN

Đến: "ccs_lsqn@yahoogroups.com" ccs_lsqn@yahoogroups.com

Ngày: Chủ nhật, 6 tháng 9, 2009, 21:32

XIN GIÚP LỜI CẦU NGUYỆN

Cha Phêrô - Tuần Nguyễn Cao Hiên thuộc Dòng Đồng Công, nguyên là cha Linh Hướng và cha giáo của CVLSQN, nguyên là cha sở các Gx Tịnh Sơn, Đông Mỹ, Mằng Lăng thuộc Giáo Hạt Phú Yên, GP Qui Nhơn, hiện đang lâm bệnh nặng. Từ nhiều năm nay, cha đã được nghỉ hưu tại trụ sở Bùi Chu Saigon. Dù đã hưu nhưng cha vẫn thường xuyên giúp mục vụ tại nơi cha ở và luôn vui vẻ yêu đời với nụ cười hiền hòa cố hữu luôn nở trên môi...

Cha vẫn mạnh khỏe như thường dù tuổi đã cao (năm nay cha 87 tuổi). Đột nhiên cách nay khoảng 3 tháng, cha phát hiện mình bị ung thư. Từ đó cha lo chạy chữa, nhưng bệnh tình đã không thuyên giảm mà còn có chiều hướng nặng thêm. Cha vừa được BV Chợ Rẫy cho về và đang điều trị bằng thuốc nam tại Dòng Đồng Công Thủ Đức.

Được tin cha giáo bị bệnh nặng, chiều CN 06/9/09, một số anh em trong Ban Đại diện CCSLSQN vùng Saigon đã đến Thủ Đức thăm cha. Mặc dù cơn bệnh đang hoành hành, nhưng nụ cười của cha vẫn luôn xuất hiện trong suốt cuộc đàm đạo giữa thầy và trò...

Được biết trước đó, ngày 03/9/09, một phái đoàn 16 Linh Mục Hạt Phú Yên do cha Hạt trưởng Giuse Trương Đình Hiền dẫn đầu cũng đã đến thăm cha Hiên và một số cha từng phục vụ GP Qui Nhơn hiện đang sống tại Sài gòn...

Trên đây là một số thông tin về cha Linh Hướng thân yêu của chúng ta. Xin quí vị và anh em giúp lời cầu nguyện để cha đủ sức mạnh tinh thần, thể xác vượt qua nỗi đau này...

HuynhKimNgoc

19.9.2009: VỀ NHÀ CHA

_________________________________________

AI TÍN

Tòa Giám mục Qui Nhơn vô cùng

thương tiếc báo tin

CHA PHÊRÔ-TUẦN NGUYỄN CAO HIÊN

Thuộc hàng Linh mục Giáo phận Qui Nhơn, đã qua đời vào lúc 19 giờ 15 ngày 19 tháng 9 năm 2009 tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, 521 tỉnh lộ 43, P. Tam Phú, Q. Thủ Đức, Tp. HCM.

Thánh lễ an táng được cử hành vào lúc 8 giờ 30, ngày 22 tháng 9 năm 2009, tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, 521 tỉnh lộ 43, P. Tam Phú, Q. Thủ Đức, Tp. HCM.

Và được an táng tại nghĩa trang Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Thủ Đức.

Xin hiệp dâng Thánh Lễ và cầu nguyện cho linh hồn Cha Phêrô sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Tòa Giám Mục Qui Nhơn

THƯƠNG NHỚ

CHA PHÊRÔ TUẦN NGUYỄN CAO HIÊN (1922-2009)


____________________________________________________________

Lm Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh

Tuần cấm phòng năm linh mục giữa tháng 3-2009, cha Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên về trước một ngày và rời Qui Nhơn sau các cha khác một ngày. Cha rất vui lại được sống giữa những anh em linh mục mà cha hằng thương mến. Thấy cha khỏe, ai cũng hẹn tuần tĩnh tâm năm sau sẽ lại gặp cha, nhưng cha bảo không biết năm sau còn về được chăng.

Thế rồi cuối tháng 5, ai cũng bàng hoàng nghe tin vào bệnh viện và phát hiện tụy tạng đã bị ung thư tới giai đoạn chót.

Mãi đến sáng 29-8-2009, tôi mới có dịp về thăm ngài. Hôm ấy tôi về giáo xứ Cao Thái, thì gặp hai cựu chủng sinh Qui Nhơn, Giuse Nguyễn Uy Nam và Phêrô Lê Mến, đang chuẩn bị đi thăm ngài, tôi liền đi theo. Ba chúng tôi và một ứng sinh dòng Cát Minh được thầy nhà khách nhà Hưu Dưỡng Dòng Đồng Công đưa vào tận phòng ngài. Cha Hiên nằm trên giường, hỏi han hoàn cảnh sống của hai cựu chủng sinh học trò ngài. Có điện thoại reo, ngài đưa tay nhấc ống nghe lên để tắt chuông rồi đặt xuống ngay. Chỗ ung thư tụy tạng bị mổ ra rồi đã khâu lại, hóa trị mấy lần và không thấy có gì lạc quan. Ngài vui vẻ trả lời những câu hỏi của anh em. Anh em hỏi có đau lắm không, ngài xác nhận là đau lắm, nhưng trên môi vẫn cười tươi vui vẻ, khiến bạn trẻ ứng sinh Cát Minh rất ngạc nhiên. Tôi chia sẻ cho ngài tin tức về sức khỏe Đức Cha Qui Nhơn, về các cha cao niên trong giáo phận, về những hoạt động tại giáo phận trong định hướng dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng đến với quê hương Qui Nhơn, về kết quả truyền giáo hiện nay tại những địa bàn ngài đã phục vụ. Trước khi chia tay, chúng tôi cùng cầu nguyện chung với ngài, xin Chúa đón nhận những đau đớn của ngài để mưu ích cho anh em linh mục, các cựu chủng sinh, những giáo dân và cả lương dân mà ngài đã tận tụy phục vụ mấy chục năm qua. Chúng tôi linh cảm đó là lần gặp gỡ cuối cùng nhưng lòng thấy đầy an ủi vì tấm gương vị ân sư vẫn sáng chói cho đến cuối đời, đúng hơn, càng lúc càng sáng chói.

Bây giờ thì ngài đã thật sự từ giã tất cả chúng ta. Ngài đã được Chúa gọi về lúc 19g17 ngày 19-9-2009 tại nhà Hưu Dưỡng Đồng Công Thủ Đức, hưởng thọ 88 tuổi.

Hẳn là tất cả cựu học sinh và con cái của cha, linh mục cũng như giáo dân, ai cũng thấy mình diễm phúc vì đã được thụ giáo với ngài, được học với ngài chẳng những kiến thức, kinh nghiệm và nhiệt tình mà trên hết là mẫu gương sống. Trong năm thánh hóa linh mục, những kỷ niệm về ngài sẽ là một nguồn động viên rất lớn cho những linh mục con em ngài. Vì thế ước mong không những các cựu học sinh của ngài, mà cả các anh em linh mục khác trong giáo phận, mỗi người đều ghi lại đôi điều để góp phần nêu cao chứng từ về một Gioan Maria Vianney của thời đại.

Qui Nhơn, 22g10, ngày 19-9-2009

Lm Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh

BẤT CHẤP NHỮNG KHÓ KHĂN

__________________________________________ ________________

Tâm tình chia sẻ bên linh cữu

Lời nhóm sưu tầm:

Anh chị em giáo xứ Tịnh Sơn đi chung một chuyến xe vào Thủ Đức dự tang lễ. Trong những lúc trầm lắng của chuyến đi, anh chị em đã chia sẻ với nhau về cha Phêrô. Anh Trần Trọng Phú Dung đã ghi âm lại bằng điện thoại được lời chia sẻ của ba người. Tiếc là chỉ còn giữ được vài đoạn nghe rõ.

Tôi là Phêrô Nguyễn Văn Rỡ, là biện họ Trà Kê hồi cha Hiên làm cha sở Tịnh Sơn. Mỗi lần làm lễ hoặc có kẻ liệt, ngài phải đi xe đạp từ Tịnh Sơn sang Trà Kê. Hồi đó đường từ Tịnh Sơn đi Trà Kê rất khó khăn, chật hẹp, len lách trong núi. Nhiều đoạn dài phải vác xe đạp lên vai, vác đến nỗi mỏi, phải đổi vai. Trà Kê chưa có nhà thờ nên ngài dâng lễ tại nhà tôi. Dâng lễ thì khó khăn, người ta bắt phải xin phép, có khi kiểm tra hộ khẩu. Dâng lễ rồi tôi mời ngài ăn cơm nhưng nhà tôi còn hơi khá nên ngài không chịu ăn. Ngài sang nhà một bà già rất nghèo khổ, ăn và nghỉ ở đó.

Hồi đó tôi thường đi mua bò từ bốn giờ sáng. Ngang qua Tân Long, Tân Xuân, giữa xóm người ngoại có một gia đình luôn đọc kinh từ sang sớm. Tôi báo cho ngài biết. Lúc ấy cha Bích ở Đồng Tre đã đổi cho ngài một chiếc Bridgestone. Ngài bảo tôi chở ngài tới thăm. Chưa tới nơi thì mưa lũ lớn. Hai cha con đẩy xe đứt cả hai đôi dép, ngài phải bứt dây rừng cột dép treo lên ghi đông tiếp tục đẩy. Tới dốc Bò Nghé, nước lớn quá, không đẩy được nữa, phải gởi xe ở đó, đi bộ về tới nhà ông Biện Long đã mười giờ rưỡi và ngài làm lễ ở đó.

Suốt thời gian làm việc với ngài, biết bao kỷ niệm, kể làm sao cho hết. Cứ nghĩ đến hoàn cảnh khó khăn khổ sở của ngài mà thương. Nay ngài qua đời, tôi cố gắng vào đây để được nhìn mặt ngài lần cuối.

Chia sẻ bên linh cữu

NHỮNG GIỌT LỆ


__________________________________________________________

Tôi là Giacôbê Nguyễn Văn Sửu, thuộc giáo họ Tân Bình, giáo xứ Tịnh Sơn. Tôi là con chiên của Cha Phêrô Nguyễn Cao Hiên. Ngài là một linh mục… có những điều, những việc nay tôi kể lại nhiều người không tin.

Những năm 1976, 77, 78. Hết sức khó khăn. Mỗi lần ngài làm lễ, người ta lượn qua lượn lại xung quanh nhà, theo dõi, tìm những điều sơ hở. Có thể họ nghĩ làm như thế ngài sẽ sợ, nhưng ngài vẫn cứ bình thường. Ngài bình thản dâng lễ và giáo dân bình tĩnh dự lễ.

Có một kỷ niệm không thể nào quên. Thời gian ấy có anh Nghĩa giúp ngài. Ngài đi dâng lễ thì có anh Nghĩa đi với ngài. Có lần anh Nghĩa vắng hoặc bận, ngài đi một mình và ở lại nhà tôi. Đó là những năm đói, thiếu cơm, phải độn khoai, độn sắn, ăn rau, ăn lá. Nhà chúng tôi khi ăn cơm vẫn ngồi dưới đất. Vợ tôi làm cơm rồi bảo tôi:

- Ông và cha ăn cơm trên bàn, để mẹ con chúng tôi ngồi dưới này.

Dưới này tức là dưới bếp. Mâm cơm trên bàn có một quả trứng gà đổ chả. Ngài bảo:

- Để dưới ấy cho thằng Danh ăn, đưa lên đây làm gì! Chúng mình ăn nước mắm được rồi.

Thằng Danh là con út tôi, nay đã hơn hai mươi tuổi. Tôi nói dối cha:

- Cha cứ ăn tự nhiên đi. Mẹ nó đã để phần lại dưới đó rồi!

Ngờ đâu thằng bé cho cơm vào cái chảo, trộn lấy chút mỡ đã chiên trứng, ngồi ăn vui vẻ dưới chân ngài. Nó ngồi như vậy vì nó dạn dĩ và rất mến ngài. Nhìn xuống đứa bé, đôi mắt ngài đỏ gay và nước mắt ngài chảy ra… Ngài là người giàu cảm xúc, và nhạy cảm, biết ngay cái cảnh khổ của người xung quanh…

THÁNH LỄ AN TÁNG

CỐ LINH MỤC PHÊRÔ-TUẦN NGUYỄN CAO HIÊN


___________________________________________________________

Sáng ngày 22-9-2009, vào hồi 8g30, tại nhà thờ GX Châu Bình Thủ Đức, thánh lễ an táng cố Linh Mục Phêrô-Tuần Nguyễn Cao Hiên đã diễn ra trong bầu khí trang nghiêm, sốt sắng và cảm động.

Thánh lễ do Đức cha Vincent Nguyễn Văn Bản, Giám Mục Chính Tòa Ban Mê Thuột, học trò cũ của cố Linh Mục Phêrô, làm chủ tế. Cùng đồng tế có các cha: Giuse Trương Đình Hiền, chánh xứ Tuy Hòa, hạt trưởng giáo hạt Phú Yên, đại diện cho Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, GM GP Qui Nhơn, cha Tổng Phụ trách 2 dòng Đức Mẹ Đồng công Cứu chuộc, Đức Ông Đinh Đức Đạo, cùng với hơn 50 Linh Mục thuộc GP Qui Nhơn, dòng Đồng công và các cha linh tông huyết tộc bằng hữu xa gần...

Tham dự thánh lễ có rất đông các thầy dòng Đồng công, nam nữ tu sĩ các dòng, anh chị em CCSLSQN, đại diện giáo dân các giáo xứ thuộc GP Qui Nhơn mà cố Linh Mục đã từng phục vụ, giáo dân GX Châu Bình cùng bà con thân bằng quyến thuộc của cố Linh Mục Phêrô...

Sau thánh lễ là nghi thức phó dâng và tiễn biệt do cha Tổng Phụ trách 2 dòng Đức Mẹ Đồng công Cứu chuộc chủ sự. Sau đó đoàn rước đi bộ đưa linh cửu cha Phêrô ra nghĩa trang của nhà dòng cách đó chừng hơn một km. Tại đây, Linh Mục Giuse Trương Đình Hiền chủ sự nghi thức hạ huyệt kết thúc tiến trình lễ Tang.

Simon Hùynh Kim Ngọc

ĐẸP LÀM SAO MỘT CUỘC ĐỜI, MỘT CÁI CHẾT

___________________________________________________

BÀI CHIA SẺ LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ AN TÁNG

LM. Giuse Trương Đình Hiền

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,

Đứng trước cái chết của người thân, trước sự chia xa vĩnh viễn với cuộc đời dương thế của những người đã từng chung sống, đã từng chiến đấu và làm việc, đã từng đồng lao cộng khổ… trong lòng mỗi người chúng ta đều dậy lên một thứ tình cảm mất mát, đau thương, một nổi xót xa của sinh ly tử biệt. Đã mang thân phận người là phải đi qua “chiếc cầu bi thương” đó. Và phải chăng, đó chính là một trong những “dư quả” của tội Nguyên Tổ mà ngay từ những trang đầu, Thánh Kinh đã cắt nghĩa bằng ngôn ngữ của một lời tuyên án: “Ngày nào ngươi ăn trái cây nầy, ngươi sẽ phải chết” (St 2,17)

Tuy nhiên, trong cái chết của người Kitô hữu, đặc biệt trong cử hành Phụng vụ Tang lễ của những người tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, lại toát lên một vẻ khác thường: Niềm hân hoan của cuộc hành hương về nhà cha, nổi vui của ngày đoàn tụ... “Khi Chúa thương gọi tôi về, lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ…”. Đặc biệt, chính trong trích đoạn Lời Chúa của Sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe, không chỉ loan báo một tín thư an ủi nhưng là một khẳng định, một tuyên tín của tin yêu và hy vọng:

“Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa…Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy…Những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn”. (BĐ 1)

Phải chăng, đó là một cắt nghĩa rõ nét và chính xác của mầu nhiệm cứu độ trong Chúa Kitô, mầu nhiệm “Vượt Qua từ cõi chết đến sự sống vĩnh hằng” mà dụ ngôn “hạt lúa mì gieo vào lòng đất thối rửa đi sẽ sinh nhiều bông hạt” lại là một cách diễn tả khác của Tin Mừng như chúng ta vừa nghe.

Vâng, đối với chúng ta, những người được dìm xuống trong dòng nước tái sinh của nhiệm tích Thánh Tẩy, để được chỗi dậy cùng với Đấng Phục Sinh, chết chính là cuộc hồi hương tìm về tổ ấm, là đĩnh đạc đi vào quê hương hằng sống để sống hạnh phúc miên viến, là cuộc tiến bước vào nhà cha, căn nhà chính Đấng Cứu Độ đã ra công dọn sẵn: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em…để Thầy ở đâu anh cũng sẽ ở đó” (Ga 14,3).

Và cách riêng, cái chết của một linh mục, một linh mục thánh thiện đạo đức, đã hoàn tất sứ vụ của mình, như cha cố Phêrô Tuần Maria Nguyễn Cao Hiên của chúng ta đây, lại càng làm cho dấu chỉ nầy trở nên đầy thuyết phục và rõ nét.

Tuy nhiên, để trả giá cho cái ngày chung cuộc tuyệt vời hôm nay, cha Phêrô Tuần Maria đã phải trãi qua một cuộc hành trình dương thế đầy nhiêu khê và phấn đấu của 87 năm cuộc sống làm “Ecce Homo” và 59 năm cuộc đời của một “Alter Christus”. Sau đây là những “cột mốc” trên cuộc hành trình thăm thẳm đó:

Sinh ngày: 05/02/1922

Nguyên quán: Tân Mỹ, Quỳnh Lang, Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình.

Cha: Đaminh Nguyễn Văn Thứ,

Mẹ: Maria Nguyễn Thị Yên

1934 – 1937: Học Trường Tập, Trung Linh.

1937 – 1941: Tiểu Chủng Viện Ninh Cường.

1941 – 1943: Học Đại Chủng Viện Xuân Bích, Hà Nội.

1943 – 1944: Giúp Tiểu Chủng Viện Ninh Cường.

1945 – 1950: Học ĐCV Quần Phương, Bùi Chu.

16- 04- 1950: Thụ phong Linh Mục.

1950 – 1954: Phụ tá Trường Tập, Ninh Cường, Bùi Chu.

1954 – 1955: Linh hướng công binh Bùi Chu - Phát Diệm tại Nha Trang.

1955 – 1956: Văn phòng giám mục di cư tại Sài Gòn.

1956 – 1959: Giám đốc khu B Latinh (Tiểu Chủng Viện), Tân Phước, Sài Gòn.

1960 – 1963: Nhập Dòng Đồng Công, Thủ Đức, Sài Gòn.

1963 – 1964: Linh hướng Dòng Lasan tại Qui Nhơn.

1964 – 1966: Cha phó Chính Tòa, Qui Nhơn.

1966 – 1969: Linh hướng Tiểu Chủng Viện Qui Nhơn.

1969 – 1971: Cha sở Qui Hải, giáo phận Qui Nhơn.

1971 – 1997: Cha sở Tịnh Sơn, giáo phận Qui Nhơn.

8/1997 – 11/1997: Cha sở Mằng Lăng, giáo phận Q.N.

11/1997 – 4/1998: về lại giáo xứ Tịnh Sơn, GP. Q.N.

1998 – 2001: Cha sở Đông Mỹ, giáo phận Qui Nhơn.

2001 – 2002: Hưu dưỡng tại nhà hưu Làng Sông Q.N.

2002 – 2005: Hưu dưỡng tại nhà hưu GP.QN.

2005 – 2007: Hưu dưỡng tại trụ sở Bùi Chu, Sài Gòn, và linh hướng các thầy thần học tại TGM Bùi Chu.

2007 – 2009: Hưu dưỡng tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Thủ Đức.

19- 9- 2009: Qua đời tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Thủ Đức, Tp. HCM. Lúc 19 giờ 15

Kính thưa cộng đoàn,

Để đánh giá sự thánh thiện, hoàn hảo của cha Phêrô Tuần Maria, có lẻ cách diễn tả của cố linh mục Phêrô Bùi Huy Bích là thích hợp, khi ngài chia sẻ với một linh mục trẻ đang phụ tá cha Phêrô, cha Giuse Lê Thu Thâu: “Thâu ơi, tao cá mầy. Mầy có thắng 5 con ngựa cũng không theo kịp ngài đâu!”. Chúng ta tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội, Giáo Phận có được một linh mục tuyệt vời như thế. Rồi đây, trong những chuyện kể về ngài, chúng ta sẽ được sẻ chia nhiều giai thoại, nhiều bài học quí giá để làm hành trang cho cuộc đời linh mục và cho tất cả những ai muốn sống trọn vẹn những chân lý của Tin Mừng; nhất là Tin Mừng về bác ái hy sinh, Tin mừng về khiêm hạ phục vụ, Tin mừng về khó nghèo trinh khiết, Tin mừng về tình yêu nồng cháy đối với Chúa Giêsu Thánh Thể và tình yêu chân tình huynh đệ đới với những người nghèo…

Có một từ ngữ ngắn gọn của Ngài mà anh em linh mục Qui Nhơn hay nhắc đó là “Đủ xài”…Trong một tại nạn xe trên tuyến đường mục vụ cho một họ đạo vùng sâu trở về, chân ngài bị thương khá nặng. Người ta hỏi ngài: “Có sao không cha?”. Ngài chỉ mĩm cười thanh thản trả lời: “Đủ xài”. Với cha, “đủ xài” phải chăng đó chính là “đủ chút hy sinh nhỏ bé dâng cho Chúa và dâng hiến cho đoàn chiên”, là “đủ sự chịu đựng và can đảm để tiếp tục dấn thân phục vụ”; là “đủ nhận ra những khó nghèo, đau khổ, thiếu thốn, yếu đuối của đoàn chiên để quảng đại biết cho đi và khoan dung tha thứ”; là “biết đủ giới hạn của thân phận người mõng dòn, yếu đuối để sẵn sàng phó thác trong tin yêu khiêm hạ”, là “đủ tìm thấy nụ cười và niềm vui trong chính nổi đau trong tâm hồn và trên thân xác”, đặc biệt những cơn đau dữ dằn của căn bệnh ung thư giai đoạn cuối…

Một cuộc sống như thế, thì một cái chết làm sao mà không đẹp được. Điều nầy làm chúng ta nhớ lại câu chuyện của cha thánh Gioan Maria Vianney, vị thánh linh mục được Giáo Hội dùng làm điểm qui chiếu canh tân đời sống linh mục trong Năm Linh mục này…

Một ngày kia, sau nhiều giờ miệt mài với hối nhân nơi tòa giải tội, cha thánh Vianney trở về với những bước chân kiệt sức và té ngã trên cầu thang. Giáo dân hay được chạy đến và hô hoán lên: “Cha bị bệnh, đi kêu bác sĩ gấp!”. Ngài chỉ khoác tay, ôn tồn bảo: “Kêu linh mục chứ không kêu bác sĩ”…Và sau khi được lãnh các bí tích sau hết, ngài đã ôn tồn nói với vị linh mục trẻ: “Đẹp làm sao cái chết của một linh mục hoàn tất trách nhiệm của mình”.

Ở gữa chúng ta hôm nay, hình như cũng đang có một Vianney của thời đại đã hoàn tất trách nhiệm mục tử cách hoàn hảo và đã chết một cái chết đẹp tuyệt vời.

“Thưa Cha Phêrô, cho dù lời thánh vịnh nào đó vẫn thường nhắc nhở chúng con về cái hữu hạn, bé bỏng, mỏng manh, dễ mất hút, lãng quên của cuộc đời: “Một cơn gió thoảng, đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích...” xin Cha hãy tin rằng, Giáo Phận Qui Nhơn nầy, cộng đoàn Dòng Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc nầy, bao thế hệ học sinh và cháu con nầy, những người nghèo hèn khốn khổ nầy…sẽ không bao giờ quên Cha trong lời kinh, trong thánh lễ, trong những nhắc nhớ nhau thực hiện những gương lành, những bài học, những lời huấn đức, những dặn dò của cha trối lại đâu !

Xin Cha hãy luôn nhìn về Giáo Phận, đặc biệt, nhìn đến và nguyện cầu cho Đức Cha Giáo Phận đang đau bệnh, luôn nhìn đến chúng con, các chủng sinh, tu sĩ, các linh mục học trò, các thế hệ Kitô hữu đã được Cha ban các bí tích và nuôi dạy trong mái trường Giáo Hội…để một ngày không xa, chúng ta sẽ đoàn tụ trong nổi vui ngút ngàn vì tất cả được Đức Kitô Phục Sinh “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21); và đó cũng là ngày lời tiên tri ngày nào của Đấng Cứu Thế sẽ dứt khoát hiện thực miên viễn: “Hạt lúa mục nát đi sẽ sinh nhiều bông hạt”. Chúng con xin bái biệt Cha. Amen.

BÀI CÁM ƠN TRONG THÁNH LỄ AN TÁNG

CHA PHÊRÔ TUẦN MARIA NGUYỄN CAO HIÊN


____________________________________________________________

LM. Giuse Trương Đình Hiền

Trọng kính Đức Cha Vinh Sơn, Giám Mục giáo phận Ban Mê Thuột,

Trọng kính Cha Bề Trên Dòng Dức Mẹ Đồng Công Cứu chuộc,

Kính thưa Đức Ông, Quí Cha Đồng tế, quí tu sĩ nam nữ, quí thân nhân huyết tộc và linh tộc của cố linh mục Phêrô Tuần Nguyễn Cao Hiên, và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa đang hiện diện,

Trước hết, con xin được dại diện cho Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn, Giám Mục Giáo Phận Qui Nhơn kính chuyển đến gia đình thân tộc và bà con thân nhân của cha cố Phêrô Tuần Maria Nguyễn Cao Hiên lời chia buồn sâu sắc về sự ra đi của ngài. Đức Cha không quên cám ơn gia đình đã cống hiến cho Giáo Hội nói chung và Giáo phận Qui Nhơn nói riêng, một linh mục ưu tú, thánh thiện, một mục tử nhiệt thành, bác ái, đã chu toàn trách vụ linh mục cách hoàn hảo và xứng đáng nêu gương tốt lành cho muôn thế hệ linh mục noi theo.

Đặc biệt, Đức Cha trân trọng cám ơn Hội Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu chuộc, một cộng đoàn đã từng là nơi ấp ủ và thăng tiến hành trình sống chức linh mục của cha Phêrô, nơi đã cưu mang và săn sóc, giúp đỡ và lo liệu trong những ngày nan bệnh cuối đời của cha Phêrô, và nhất là, đã chu tất mọi việc trong biến cố chung sự và thánh lễ An Táng cha Phêrô Tuần Maria Nguyễn Cao Hiên, một công việc mà đúng ra, Giáo Phận Qui Nhơn phải đảm đương chu toàn.

Cho dù Đức Cha Giáo Phận Qui Nhơn không thể hiện diện trong thánh lễ An táng hôm nay, nhưng bù lại, thật diễm phúc và vinh dự cho cha cố Phêrô và cho tất cả chúng ta: Vị Chủ Tế Thánh lễ hôm nay, Đức Cha Vinh Sơn, Giám Mục Ban Mê Thuột, chính là người học trò của cha Phêrô, người đã từng được cha Phêrô linh hướng và dạy dỗ con đường nên thánh và sống chức linh mục của thời Tiểu chủng viện Qui Nhơn. Xin cám ơn Đức Cha đã đem tất cả tâm tình yêu mến của Giáo Phận Qui Nhơn, của Đức Cha và linh mục đoàn, của các cựu chủng sinh LS-QN và bao nhiêu anh chị em giáo dân khác, trao gởi cho cha Cố Phêrô trong những ngày nầy, và đặc biệt, trong thánh lễ An Táng hôm nay.

Sau hết, xin cám ơn tất cả quí cha đồng tế, quí tu sĩ thuộc các hội dòng nam nữ, toàn thể anh chị em hiệp dâng thánh lễ và toàn thể bà con xa gần đã gúp đỡ cha Phêrô khi đang thi hành sứ vụ mục tử, những ngày nghỉ hưu, lúc lâm bệnh, và hôm nay, hiện diện để hiệp dâng thánh lễ tạ ơn cầu nguyện và tiễn đưa ngài về nơi an nghỉ cuối cùng.

Và giờ đây, xin Đức Cha, Cha Bề trên Hội Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu chuộc, Đức Ông, quí cha đồng tế và toàn thể cộng đoàn, cho phép con được thay mặt cho anh em linh mục Giáo phận Qui Nhơn, có đôi lời giã biệt cha Phêrô kính yêu.

Kính thưa cha Phêrô,

Con biết, nếu mà cha sống lại ngay giây phút nầy, chắc cha sẽ không để con nói thêm một lời nào nũa, nhất là nói những gì liên quan đến cha. Bởi vì cuộc sống của cha lúc nào cũng qui chiếu về chiều sâu và sự giản đơn của Tin Mừng và khước từ mọi thứ rườm rà mang dấu vết trần tục. Chính vì thế con sẽ không dám nói nhiều về cha, mặc dầu, cuộc đời của cha có biết bao điều cần phải được sẻ chia và học hỏi. Giây phút đặc biệt này, con chỉ xin được thay mặt cho anh em linh mục đoàn Qui Nhơn kính thưa cùng cha: chúng con cảm ơn cha. Cảm ơn cha đã để lại cho chúng con và đã ghi thêm vào trang sử của hàng linh mục Qui Nhơn một chứng từ rõ nét và hùng hồn về đời sống thánh thiện của một mục tử, một mục tử đã thể hiện giới răn Mến Chúa-Yêu người cách tuyệt hảo.

Chúng con tin rằng, nếu ở dưới đất, cha đã yêu mến con người nhiều như thế, thì trên trời, chắc chắn cha sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng con và mọi người nhiều hơn nữa. Trong niềm kính yêu và trân trọng của những học trò, của thế hệ linh mục đàn em và của những chiến hữu trên cánh đồng truyền giáo Qui Nhơn, chúng con xin giã biệt cha.

LM. Giuse Trương Đình Hiền

NHẬT KÝ VIẾT CHO VỊ LINH MỤC KÍNH YÊU !

_________________________________________________

Maria Đoàn Hồng Phụng

20.09.09

Con vô cùng thương tiếc Cha Phêrô Tuần Maria Nguyễn Cao Hiên. Sáng nay đầu giờ Lễ, bỗng nghe Cha Sở báo tin Cha đã qua đời vào lúc 19h30 tối qua. Con không sao cầm được nước mắt. Suốt buổi lễ con miên man nghĩ về Cha. Chợt con liên tưởng đến bản nhạc “khóc cha hiền”.

“Hôm nay Cha đã ra đi thật rồi, Cha đã ra đi thật rồi, chẳng còn mong gặp lại Cha. Ơn Cha như núi Thái Sơn cao vời, con biết sao đền bồi, Cha vội ra đi con biết sao đền bồi. Nguyện xin lòng nhân của Chúa dủ thương, đón Cha đi về hưởng lộc thanh nhàn, bù đắp nỗi đau cuộc đời đã qua, tận tụy sớm hôm để lo chu toàn dưỡng dục con cái biết sống theo đạo lành.

Hôm nay con mất Cha thật rồi, con mất Cha thật rồi, không tìm gặp được nơi đâu. Cha con xa cách không bến bờ, biên giới thật xa mờ, Cha vội ra đi con biết ai cậy nhờ.”

Cha kính yêu! Làm sao con quên được những kỷ niệm về Cha. Suốt 20 năm trời Cha đã tận tâm tận lực giảng dạy, dìu dắt chúng con. Cha đã từng trèo non lội suối để đến với những họ nhỏ nghèo nàn, xa xôi hẻo lánh dâng Thánh Lễ và ban các phép bí tích. Ôi! Cha đã cho chúng con nhiều quá. Rồi khi Cha về quản xứ Đông Mỹ, con còn làm phiền Cha. Nhưng Cha vẫn vui vẻ tiếp đón. Con còn nhớ cách đây 10 năm. Ngày ấy con bị chồng phụ bạc, trong lúc đau khổ và tuyệt vọng, con đến tìm gặp Cha. Lúc ấy con đi với một người bạn. Vào phòng khách Cha lấy hai lon nước yến mời chúng con: “Uống đi kẻo đi đường xa đến khát nước.”

Sau đó con trình bày sự việc và xin cha cho con một lời khuyên. Cha lấy trong túi ra một tràng chuỗi (có lẽ Cha đang dùng) đưa cho con và bảo:

- Đem về cho chồng con, bảo anh ấy lần mỗi ngày mỗi chuỗi. Chuỗi này Cha mang từ tòa Thánh về đấy, ai giữ chuỗi này sẽ được nên thánh.

Con cảm ơn Cha và đem về, nhưng anh ấy không nhận. Hôm sau con xuống gửi lại Cha, nhưng Cha bảo:

- Con cứ giữ lấy để cầu nghuyện cho chồng con.

Đó là kỷ vật quý báu nhất của con. Mỗi khi lần chuỗi con lại nhớ đến Cha. Rồi mỗi lúc buồn con lại gọi điện thoại tâm sự với Cha và xin Cha cầu nguyện cho con. Nhưng Cha bảo “Cha con mình cùng cầu nguyện với Mẹ nhé: “Lạy Thánh Nữ đồng trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến …” Cha đã đồng đọc kinh “Hãy nhớ” cùng con trong điện thoại. Rồi Cha khuyên con: “Hãy chạy đến với Mẹ, chạy đến với Thánh Tâm Chúa Giêsu. Dâng mọi đau khổ cho Mẹ, cho Chúa. Các Ngài không bỏ con đâu”. Và từ đó con đã học được ở Cha “sự cầu nguyện”. Nhờ Cha cho con thêm đức tin và đức cậy mà từ đó đến nay con đã nhiều lần cảm nhận được sức mạnh của sự cầu nguyện. Con cảm ơn Cha nhiều lắm.

21/09/009.

Hôm nay con lại viết cho Cha.

Cha kính yêu! Con còn nhớ cách đây 3 tháng, con vào Sài Gòn, nghe Cha bệnh nặng con liền điện thoại cho Cha. Cha vẫn giọng nói vui vẻ, ngọt ngào, trầm ấm như ngày nào:

– Phụng đấy à !

– Dạ, thưa Cha con nghe nói Cha bệnh nặng phải không Cha ?

– À! Cha đang chạy hóa chất. Rồi Cha hỏi thăm về gia đình con ….

– Nghe nói Phụng nay làm bà nội rồi hả?

– Dạ

– Chà, đã làm bà nội rồi cơ đấy. Thế mà Cha cứ ngỡ như con còn hai mấy tuổi.

Rồi Cha cười thật vui. Con xin Cha cho con đến thăm cha, nhưng Cha hỏi:

– Con đang ở đâu ?

– Dạ con đang ở quận 7.

– Vậy thì xa lắm, Cha cảm ơn con. Chỗ Cha đang ở khó tìm lắm, mà con lại nhà quê lên tỉnh nữa, lạc đường đấy. Thôi Cha cảm ơn con.

Ôi! Sao lúc nào Cha cũng nghĩ cho người khác. Cha sợ con lạc đường, sợ con tìm không ra… Mà sao giọng nói Cha vẫn vui vẻ, tươi cười như đang mạnh khỏe và còn chia vui với con nữa chứ. Khiến con an tâm nghĩ rằng Cha không sao. Thế là con không đến thăm Cha. Ôi con hối hận quá!

22/09/2009.

Hôm nay con lại viết cho Cha.

Cha kính yêu! Sáng nay con vào Sài Gòn lúc 7h. Khi con đến Dòng Đồng Công thì linh cữu Cha đã dời đến nhà thờ rồi. Con vào viếng xác Cha đây. Nhìn thấy ảnh Cha tự nhiên con bật khóc. Vẫn ánh mắt trìu mến ấy đang nhìn con, vẫn nụ cười nhân hậu ấy đang mỉm cười với con, nhưng thân xác Cha giờ đây đang nằm nhắm mắt, xuôi tay, bất động trong chiếc quan tài kia. Càng nghĩ con càng khóc nức nở. Bỗng con nghe như có tiếng nói: “Chớ khóc thương Ta làm chi, hãy khóc bay cùng con cháu bay mà chớ”. Cha ơi! Có phải Cha đang ở trên thiên đàng nhìn xuống vỗ về an ủi con như ngày nào? Con tin chắc rằng giờ này Cha đang ở bên Chúa. Mẹ đã đón Cha về hưởng phước Thiên Đàng rồi.

Vâng, “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Đó là niềm an ủi duy nhất cho con.

Con hôn Cha để vĩnh biệt cha lần cuối. Con cúi xuống hôn thật lâu trên nắp hòm, nhung không nghe một tí mùi gì cả. Đúng là một xác thánh vì xác Cha đã 4 ngày rồi. Con chợt nhớ sáng hôm qua, con không được khỏe, người hâm nóng và cổ họng rát. Con sợ bệnh nên xin Cha: “Cha ơi ! Cho con khỏe để con vào tiễn Cha lần cuối”. Và con đã khỏe hẳn Cha ạ! Con cảm ơn Cha.

Cha kính yêu! Người ta đã đặt xác Cha vào lòng đất rồi. Từ nay con sẽ không bao giờ gặp lại Cha được nữa, và cũng không bao giờ được nghe giọng nói ấm áp, dịu dàng, vui vẻ của Cha nữa rồi. Nhưng con sẽ khắc ghi hình bóng Cha trong lòng con mãi mãi.

“Thế là mọi sự đã hòan tất”, phải không Cha? Vâng, Cha đã hoàn tất sứ mạng cao cả mà Chúa Giêsu đã giao phó cho Cha: “Hãy chăn dắt đoàn chiên của Ta”: Và Cha đã hoàn tất thật tốt đẹp và hoàn hảo. Những con chiên mới sinh ra bị bỏ rơi, Cha đã đem về chăm sóc, nuôi nấng. Những con chiên đói khát, Cha đã cho ăn uống no nê. Những con chiên bệnh hoạn, Cha đã quan tâm thăm viếng. Những con chiên buồn tủi, Cha đã chia sẻ, an ủi. Những con chiên lầm lạc, Cha đã khuyên bảo, đỡ nâng… Cha đã chăn dắt đoàn chiên của Cha rất cẩn thận, không bỏ qua một sơ sót nào. Cha đã cho đi tất cả không giữ lại cho mình một vật gì. Như tràng hạt của Cha cho con. Cha bảo ai giữ sẽ được nên Thánh. Dù đó là vật quý nhất, nhưng Cha vẫn sẵn sàng cho đi để cứu lấy một con chiên sa ngã. Suốt cuộc đời hy sinh quên mình để phục vụ tha nhân, luôn luôn vui vẻ, khiêm nhường, bác ái yêu thương nhất là những người bất hạnh. Sống một cuộc sống đơn sơ, nghèo hèn, giản dị … Ôi! Cha đã là Thánh khi còn sống, ai cũng bảo vậy. Nếu kể về việc làm nhân đức của Cha thì không có giấy bút nào tả xiết.

Cha kính yêu! Những ngày tháng cuối đời Cha là những đau đớn về thể xác mà Cha đã chịu đựng để thông phần đau khổ với Chúa Giêsu. Giờ đây con tin chắc rằng Mẹ đã đón Cha về thẳng thiên đàng rồi. Cha ơi! Khi còn sống Cha đã yêu thương đoàn chiên của Cha thế nào, rày cúi xin Cha hãy nhìn đến đoàn con cái của Cha đang còn lưu đày chốn trần gian đầy tội lỗi này mà xuống ơn phù giúp chúng con biết sống noi gương Cha, biết sống xứng đáng làm con cái Chúa, để khỏi phụ lòng Cha đã hy sinh suốt cuộc đời để dạy dỗ, sống bác ái, nêu gương cho đoàn con, hầu ngày sau chúng con được gặp lại Cha trên Thiên Quốc Cha nhé! Con cảm ơn Cha.

Ngày tử của Cha rất đặc biệt: Lúc 19h30 ngày 19/09/2009. Hình như Chúa đã chọn sẵn cho Cha, để chúng con dễ nhớ ngày giỗ Cha.

Con chiên của cha.

Maria Đoàn Hồng Phụng

ĂN QUẢ, NHỚ KẺ TRỒNG CÂY

_________________________________________________ ___________

GB: Huỳnh Minh Thanh, Giáo xứ Sơn Nguyên

Tâm tình tưởng nhớ và tri ân tiền nhân thì có thể ai cũng giống nhau. Có khác nhau là về cách biểu lộ lòng biết ơn đó. Riêng con, con chỉ biết ghi lại hồi ký này với những gì đã hằn sâu trong ký ức như một nén hương lòng kính dâng về Cha, người Cha già kính yêu của con, của gia đình con và của chung tất cả mọi người chúng con.

Như những gia đình Công giáo khác ở Hòa Nguyên, chúng con đến nơi đây theo chủ trương giản dân đi xây dựng vùng kinh tế mới của Nhà nước, từ những ngày đầu tháng 4 năm 1979. Chúng con là Giáo dân của nhiều Giáo xứ thuộc giáo hạt Cam Ranh, Giáo phận Nha Trang. Mỗi Chúa nhật chúng con về Tịnh Sơn tham dự thánh lễ. Những con đường mòn gần 10km, con đường mà trước đó chỉ dùng để đi thăm nương rẫy, nay lại được những người mới đến dùng vào mục đích mới, là đi về nhà Chúa. Hầu hết chúng con chưa hề biết Cha Phêrô, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, mỗi tuần đi lễ, dù đường xa vẫn thấy vui vì được đến với vị Cha Sở kính yêu của Giáo xứ Tịnh Sơn, giáo xứ mà chúng con mới được tháp nhập để đón nhận sự yêu thương chăm sóc đời sống đức tin của Giáo Hội từ bàn tay của Cha, nơi vùng đất hoàn toàn lạ lẫm này.

Chúng con rất ngạc nhiên khi nghe anh em ở địa phương nói về Cha qua những mẩu chuyện về đức bác ái, về sự hãm mình. Càng ngạc nhiên hơn nữa vì người kể lại là các anh em lương dân, vì chính họ là những người được Cha yêu thương như những anh em Công giáo khác. Để kết thúc câu chuyện của mình, ai ai cũng thường dùng một câu nghe quen thuộc: “Đó là ông Cha Thánh”. Vâng, để xem anh em quan niệm chữ “thánh” như thế nào, con đã hỏi họ và câu trả lời thường gần giống nhau như sau: “Ông sống rất thánh thiện không giống như Cha thường”. Lại hỏi tiếp:

– Cha thường là Cha nào?

– Thì mấy ông Cha khác mà mình biết… Chắc không Cha nào giống vậy được”.

Ngay từ những ngày đầu, chúng con đón nhận từ nơi Cha biết bao yêu thương, dạy dỗ, chăm sóc và hướng dẫn tận tình. Những việc nho nhỏ mà Cha đã giao cho, chúng con cũng đã làm hết sức mình để góp phần sinh lợi một nén bạc Chúa trao cho chúng con qua tay Cha. Để không phụ lòng Cha, chúng con không hề vùi nén bạc vào lòng đất.

Hơn 10 năm sau, giáo họ Sơn Nguyên cất được một nhà nguyện bằng tranh tre, thì thì Cha lại phải đi chính con đường trước đó chúng con đã đi mỗi tuần, để đến cử hành Thánh lễ cho chúng con. Sau đó Cha đã dành biết bao tâm huyết để xây dựng cho chúng con một ngôi Thánh Đường. Thánh đường được làm phép vào tháng 5/1992 và có Cha mới Giuse Lê Thu Châu về ở cùng chúng con. Cha Phêrô không chỉ lo về đời sống đức tin mà Cha còn chăm lo cho các thế hệ học sinh của Sơn Nguyên, xây dựng mới hai phòng để các em học sinh cấp 3 có nơi trọ học tại khuôn viên nhà thờ Củng Sơn. Trong đó có những đứa con của gia đình chúng con, cùng với các bạn trọ học, đã được Cha giáo dục nhân bản và gieo mầm ơn gọi.

Vào hạ tuần tháng 7/1996. Dì Năm Théophile Mỹ Hảo và Dì Ba Lorette Minh Đức đến thăm và cho biết: Cha già đang chữa bệnh tại Sài Gòn, gọi điện về bảo hai Dì xuống Sơn Nguyên hỏi xem: “Bé Đỗ Quyên con ông Tám Thanh có còn ý định đi tu không? Nếu đi thì hai Dì lo để đưa vào nhà Dòng”. Đỗ Quyên đã thưa cùng hai Dì:

– Con vẫn hằng ước muốn đi tu như trước đây con đã thưa cùng Cha già.

Dì Năm lại đặt câu hỏi:

– Vậy tại sao con lại đi thi Đại học, mà lại đậu cả 2 trường?

– Dạ con học xong cấp 3, đi thi là để biết khả năng của mình, vào Dòng, Nhà Dòng cho học thì con học, mà bảo con vào đệ tử ngay thì con cũng vâng theo.

Hai hôm sau Dì Năm cho biết là Cha già gọi điện về bảo trình Cha phó Giuse để Ngài giới thiệu vì Cha đã lớn tuổi rồi lại không có mặt tại Giáo xứ. Thế là ngày 12/8/1996 Dì Ba đã đưa Rosa Huỳnh Ngọc Đỗ Quyên vào tu ở Hội Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn với sự giới thiệu cho đi tu của Cha Giuse Lê Thu Thâu.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, chúng con sống trong tràn ngập yêu thương của Cha, thì vào tháng 8/1997. Đức Cha Giáo phận đưa Cha về làm Cha Sở Mằng Lăng. Ba tháng sau Cha lại về Tịnh Sơn. Dường như ý Chúa muốn để chúng con tập sống xa Cha dần dần. Tháng 8/1998, Cha chính thức rời xa Tịnh Sơn về làm Cha Sở Giáo xứ Đông Mỹ gần 3 năm. Sau đó bắt đầu những ngày tháng cha về hưu dưỡng, chúng con chỉ còn được gặp Cha ở những lần thăm viếng.

Lễ khấn Dòng 20/8/2004. Cha đang hưu dưỡng tại nhà hưu dưỡng Giáo phận Quy Nhơn, nhưng cũng đến hiệp dâng Thánh Lễ Khấn Dòng tại Nhà thờ Gò Thị. Hôm đó Rosa Đỗ Quyên được tuyên khấn lần đầu. Sau Thánh Lễ chúng con đến gặp Cha để lại được nghe những lời thăm hỏi ân cần và động viên nhắc nhở. Con kính mời Cha về thăm lại Giáo xứ cũ và hiệp dâng Thánh Lễ tạ ơn. Cha hỏi ngày giờ rồi cám ơn rồi nói với giọng hóm hỉnh: “Đâu cứ gì phải về hiệp dâng Thánh Lễ mới là tạ ơn, có khi hiệp ý cầu nguyện từ xa mà được Chúa nhận lời trước, đúng không?”. “Dạ con biết, mà có Cha về vẫn hơn ạ!” Cha cười: “Hơn gì? “mệt” hơn thì có!” Lúc đó con chẳng biết gì hơn ngoài lời cảm ơn Cha.

Ngày 19/9/2009, cha về với Chúa. Khi đến Dòng Đồng Công nhìn thấy quí Cha, quý Thầy lo lắng việc hậu sự cho Cha và nghe những mẩu chuyện kể lại về Cha ở những ngày hưu dưỡng tại đó, con mới hết băn khoăn về một suy nghĩ: “Sao Cha già không nghỉ hưu dưỡng tại Giáo phận Qui Nhơn cho gần”. Bấy giờ con mới biết ở đâu Cha cũng được tiếp đón và chăm sóc bởi những người hết lòng kính trọng và yêu thương Cha.

Thượng tuần tháng 3/2010, Đỗ Quyên viết thư thăm gia đình và xin cha mẹ góp ý về quyết định làm đơn xin khấn trọn đời. Quyên nói: “Con thấy đời tu của con sao suôn sẻ quá”. Một câu nhưng nhiều ý quá, suôn sẻ có thể hiểu là hoạn lộ thênh tang quá, cũng có thể hiểu là xưa nay suôn sẻ quá về sau gặp thử thách không biết đón nhận ra sao.

Con chỉ biết lấy chuyện cũ để góp ý với con mình như sau:

– Con có được một diễm phúc là được Cha già ươm mầm ơn gọi và quan tâm chăm sóc cho ơn gọi đó. Ngay những ngày đi chữa bệnh ở xa, Ngài vẫn nhớ đến và sắp xếp cho đứa con nhỏ bé của mình chuẩn bị bước vào Nhà Chúa. Rồi những tháng ngày hưu dưỡng của Cha tại Giáo phận, con lại thường xuyên được đón nhận những lời động viên nhắc nhở ân cần qua những lần thăm viếng Cha. Chúa đã gọi và chọn con vào Nhà Chúa qua nhân đức của Cha già kính yêu của chúng ta. Đó chính là nguồn động viên an ủi con trước mọi thử thách trong đời sống tu trì. Con hãy nguyện xin bắt chước được một phần nhỏ nhất nơi đời sống tu trì của Cha già, là con sẽ lướt thắng được tất cả. Ba tin chắc là như vậy.

5 giờ sáng ngày 2/8/2010. Thánh Lễ khấn Dòng tại Nhà thờ Chính Tòa Qui Nhơn – Rosa Đỗ Quyên được lãnh nhận hồng ân vĩnh khấn. Mặc dầu khi tham dự Thánh Lễ Quy Lăng và tiễn đưa Cha đến nghĩa trang Dòng Đức Mẹ Đồng Công ở Thủ Đức ngày 22/9/2009, con biết mình không còn được gặp Cha ở cõi đời này, con cứ dõi mắt nhìn đoàn đồng tế đi vào Thánh đường, mà mường tượng có Cha đang hiện diện như cách đây 6 năm và thầm ước muốn được gặp Cha, được nghe tiếng nói của Cha sau Thánh Lễ.

Cha ơi! Giáo xứ Tịnh Sơn mà Cha đã dày công xây đắp và vun trồng nền móng đạo đức suốt 27 năm, nay đã trở thành 3 giáo xứ: Tịnh Sơn, Sơn Nguyên và Trà Kê. “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Con đến nơi nào cũng thấy hình bóng Cha để lại, không chỉ ở cảnh vật mà ngay cả trong lòng mọi người khi nhắc về Cha, người Cha kính yêu của chúng con.

Cha ơi! Hoa quả đầu mùa của gia đình con dâng lên Thiên Chúa và được Chúa thương nhận lời, chính là nhờ công ơn Cha vun trồng. Con hứa không chỉ khi nhìn thấy quả mới nhớ công ơn người trồng, mà phải hết lòng chăm sóc cây để không phụ lòng Cha, Cha ơi!!!

“Viết để tưởng nhớ giáp 1 năm Chúa gọi Cha Phêrô Trần Nguyễn Cao Hiên”

GB: Huỳnh Minh Thanh Giáo xứ Sơn Nguyên

NHƯ CHƯA HỀ CÓ CUỘC CHIA LY

_______________________________________________

Lời nhóm sưu tầm

Kết thúc sưu tập này, xin gởi đến mọi người bài viết “LỜI TRI ÂN CỦA NGƯỜI CON NUÔI PHÊRÔ NGUYỄN THÁI HÙNG KỂ VỀ CHA PHÊRÔ NGUYỄN CAO HIÊN”. Chúng tôi dựa trên đoạn kết của lời kể để đặt tựa đề ngắn cho bài viết là “Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly”.

Cha kính yêu của con! Hôm nay là ngày 1 tháng 10 âm lịch là vừa tròn hai tháng Chúa đã gọi cha về với Chúa. Vậy là nơi dương trần con đã thật sự mất một người cha kính yêu, một gương sáng nhân đức, một điểm tựa tinh thần và thân xác. Nhưng con tin, cha đang ở bên Chúa bên Mẹ trên Thiên Quốc, luôn cầu bầu cho con và hướng dẫn vợ chồng con cùng hai cháu trên bước đường lữ thứ trần gian.

Cha ơi! Trên bước đường lữ thứ trần giang hôm nay hàng vạn sự cám dỗ lôi kéo con, con khó mà thắng được. Nhưng con tin rằng nhờ lời cầu bầu của cha với Chúa và bao gương sáng nhân đức cha để lại, con sẽ vững bước đi theo Chúa đến hết cuộc đời mình. Cha ơi, mỗi khi con nhìn nơi bức chân dung của cha nơi bàn thờ, con lại thấy khuôn mặt tươi sáng và đôi mắt dịu hiền của cha như đang nhìn con và muốn nhắc nhở con điều gì đó.

Thưa cha, con còn nhớ rõ mọi sự như in vào mùa xuân nước mắt và nụ cười năm 75. Con bị lạc mất cha mẹ trên tuyến đường bảy. Có một ân nhân đã cưu mang con, đưa về đất Sơn Hòa, giao cho một gia đình nhờ họ nuôi dạy con. Thế nhưng vì con ốm đau bệnh tật liên miên họ chuyền từ người này sang người khác. Đến người thứ ba là cô Ba Long thuộc họ đạo phường bà Tám Sơn Nguyên ngày nay. Khi cha về đây làm lễ, ghé vô thăm gia đình cô Ba, thấy gia đình cô Ba có ba người con đang bệnh và con là đứa thứ tư, đang nằm la liệt trên giường. Cha liền nói với cô Ba Long rằng:

- Cái Long cho cha bớt một đứa để cha nuôi đi.

Cô Ba Long liền đồng ý cho con cho cha. Thế là cha chở con trên xe đạp về nhà cha. Con đường thật gồ gề xấu xí, có chỗ cha phải dắt xe đạp, gặp những chỗ lầy lội cha phải cõng con trên vai mới về được đến nhà thờ Cũng Sơn. Về cùng cha khi ấy, con ốm đau bệnh tật, cha phải chăm sóc suốt gần ba tháng con mới được bình phục. Rồi cha đợi chờ suốt gần một năm. Có hơn mười người lạc con lạc cháu đến tìm con nhìn mặt, nhưng không một ai là người thân của con. Có người hỏi xin cha cho con về làm con nuôi của họ nhưng cha không đồng ý. Rồi đến ngày 26 tháng 12 năm 1976, ngày lễ Thánh Gia Thất, cha rửa tội cho con. Cha chọn cho con một người làm cha đỡ đầu, là Phêrô Đảng và một người mẹ đỡ đầu là bà Luxia Thanh. Cha dạy con kêu hai người là ba, là má.

Rồi ngày tháng trôi dần con bắt đầu khôn lớn trở thành một đứa trẻ vô cùng nghịch gợm.

Thưa cha! Đêm nay bỗng lòng con xao xuyến nhớ thương cha vô vàn. Con không sao con ngủ được. Ngồi ngẫm nghĩ lại đời mình sao quá nhiều ngang bướng. Biết bao lần con đã làm cha buồn và nhiều đêm cha đã thao thức cầu nguyện sớm tối cho con. Khi con còn thơ bé, cha là mẹ hiền săn sóc sớm tối cho đời con trong tất cả mọi việc. Khi con vừa có trí khôn, con là đứa con ngỗ nghịch. Khi đến tuổi thanh niên, con là đứa con không có đức tin. Khi con đi lập gia đình với đôi bàn tay trắng, cha đã phải lo lắng cho con đủ mọi điều, giữa lúc đang gánh nặng cho cả đoàn chiên của Chúa, tại một xứ đạo Tịnh Sơn miền núi đầy cực khổ thiếu thốn trăm bề. Hôm nay xứ đạo vừa tạm ổn, đường sá ngược xuôi được thuận tiện, nhà nhà đều có điện, biết bao người mong chờ cha về thăm một chuyến thế mà cha đã ra đi về với Chúa mất rồi.

Hồi tháng ba năm nay, cha và con gặp nhau nơi tòa giám mục Quy Nhơn. Cha con mình chuyện trò. Cha hỏi thăm nhiều người nơi giáo xứ Tịnh Sơn, Đông Mỹ. Cha còn bảo con cố gắng xây nhà, cha sẽ về thăm gia đình con và bà con giáo dân một lần cuối trước khi Chúa gọi cha về cùng Chúa. Nhưng nào đâu có ngờ! Tháng Năm cha ngã bệnh, tháng Chín cha vĩnh biệt nơi dương trần để về cùng Chúa. Giờ con đang ngẫm nghĩ viết lại trang nhật kí cuộc hành trình của cha và con từ năm 1975 đến năm 2009. Hôm nay cha đã ra đi. Con ngồi viết trang nhật kí này nói về đời linh mục của cha, 59 năm 5 tháng và 87 năm một đời người, với sứ vụ người mục tử đã cai quản bốn xứ đạo. Xứ đạo nào cha cai quản cũng có nhiều gian truân cùng với bao thử thách nhưng cha đều vượt thắng và nêu cao gương hi sinh mến Chúa yêu người. Từ Chủng viện Quy Nhơn rồi đến Quy Hải, Tịnh Sơn, Đông Mỹ đều còn đầy những kỉ niệm của cha, để lại cho đời con một tấm gương phục vụ và theo Chúa đến hơi thở cuối cùng. Nhưng trước lúc lâm chung, bên cha không có một người ruột thịt! Con cảm thấy đau xót, bổn phận mình là một đứa con mang nhiều công ơn cha, mà chưa sống tròn chữ hiếu, chưa đền đáp công ơn bao la của cha đã nuôi nấng dạy dỗ nên người.

Khi con thơ bé, cha ẵm bồng trên tay. Khi cắp sách đến trường cha là người dìu dắt. Sau mỗi giờ tan học, cha đón con ngoài cổng. Trong những lần con sa ngã, có lần cha phạt con, con bật òa lên khóc rồi cha thấy thương quá mà bỏ qua cho con. Con còn nhớ như in, trong một lần ăn cơm sáng năm 78 cha ăn chén cơm nguội thiu, để phần cơm ngon cho con. Cũng trong thời gian ấy, có nhiều người đến xin, cha liền cho họ hết. Dẫu chỉ còn vài đồng trong túi đủ tiền đi chợ hay cả phần gạo nấu cơm đủ bữa cha đều chia sẽ cho họ hết. Khi con bước lên mười, là đứa trẻ nghịch phá. Bước sang tuổi mười hai, con bỏ nhà đi hoang. Tám năm liền con biệt tăm, nơi quê nhà cha thao thức mong chờ con cùng năm tháng. Mãi đến năm 89 mới nhận được thư con, cha xuống bút hồi âm. Trong thư cha viết: cha mong con từng ngày, con hãy nhanh trở về nhé cái Hùng. Khi về đến gia đình con nào đâu chịu ở cùng ai, chỉ thích đời sống lông bông trên bãi vàng Trà Kê. Đức tin thì trống rỗng, không còn tin Chúa nữa. Cha thì thầm cầu nguyện với Chúa cho con được ơn trở lại.

Năm 94 cha về giảng tĩnh tâm cho từng giới nam nữ thanh niên tai họ đạo Trà Kê. Không thấy con đâu, cha liền sai người lên bãi vàng tìm con, con không chịu về, nhưng chiều tối con lại về nơi nhà nguyện Trà Kê, gặp cha đang lần hạt với tràng chuỗi trong tay đi xung quanh nhà thờ. Khi thấy con, cha mừng lắm, liền đến trước sân nhà nguyện kéo băng ra ngoài cha con, cùng trò chuyện thăm hỏi. Cha bảo cái Hùng nên xưng tội rước lễ lại đi. Con trả lời: “Đến bao giờ ơn Chúa giúp con một điều là cho con trúng được ít vàng trả hết nợ nần và còn dư một ít để làm vốn thì con mới xưng tôi rước lễ”. Cha liền nói: “Cha con ta cố gắng cầu nguyện rồi ơn Chúa sẽ đến cho con một ngày không xa.”

Lời nguyện cầu của con và cha được Thiên Chúa nhận lời. Chỉ hai tuần sau con đã làm trúng vàng, trả hết mọi nợ nần và còn dư một ít vốn như lời con đã ước nguyện. Cha hay tin mừng lắm. Thế là con bắt đầu xưng tội rước lễ. Đức tin triển nở dần trong con, con có phần sốt sắng hẳn. Cha thật là vui. Công việc của con cũng ổn định, con gởi cha giữ giùm được gần 5 chỉ.

Nhưng rồi sóng gió lại ập đến. Có một chuyện hết sức buồn, không tiện nói ra đây. Lòng con thật chán nản, không còn ham muốn sự gì. Con chia sẻ với cha và cha an ủi nhiều. Cùng thời gian ấy, giáo phận Qui Nhơn có khóa đào tạo giáo lý viên. Cha cho con đi dự cùng với bốn bạn khác. Cha bảo:

- Cha cho con đi học, trước là để con có một vốn liếng mà sống. Sau nữa, nếu con giúp được cho các em ở Trà Kê thì hay biết mấy.

Con vẫn còn quá buồn nên đi học không tập trung được. Mãn khóa về, các bạn kia ai cũng được điểm khá, còn con thì rất yếu. Cha cầm tờ chứng chỉ, mỉm cười an ủi:

- Không sao đâu con, cố gắng lên. Cha cho con đi học khóa giáo lý này là để con khuây khỏa nỗi buồn, rồi nếu có thể được, sẽ giúp các em.

Dù cha an ủi vậy, con vẫn cứ buồn. Thế rồi con quyết định xin cha đi tìm gia đình. Cha bảo ngày ra đi con còn quá nhỏ, nào đã biết gì, làm sao mà tìm được. Nhưng con thưa, xin cha cứ cho con đi một lần cho thỏa mãn. Nếu không gặp thì sẽ quay về Trà Kê làm ăn sinh sống, không bao giờ nghĩ tới nữa. Cha giao lại vốn liếng cho con rồi còn móc túi ra cho con thêm một ít. Cha bảo:

- Cha đưa thêm chút lộ phí để con đi tìm kiếm gia đình.

Con đem theo một chiếc xe đạp. Suốt một tháng, con ở đất Phú Bổn và Pleiku, tìm kiếm mọi ngóc ngách, chẳng được tin tức gì. Hết tiền, con đành phải quay về. Con ở trong một nhà giáo dân tại Trà Kê, còn cha thì ở nhà thờ giáo xứ Tịnh Sơn. Cha con vẫn thường liên lạc. Con bắt đầu trở thành một giảng viên giáo lý, cùng với các bạn khác giúp cho các em nhỏ.

Đến tuần tĩnh tâm các cha trong giáo phận năm 98, Đức Cha quyết định đổi cha về giáo xứ Đông Mỹ, còn cha xứ Đông Mỹ lại về Tịnh Sơn. Khi hay tin này, chính quyền các cấp và bà con lương giáo đều đến thăm cha và vô cùng thương mến. Rồi ngày chuyển đổi đã đến, cha về Đông Mỹ. Có biết bao người giáo dân rưng rưng từng giọt nước mắt vô cùng yêu mến cha, không muốn cha rời xa họ. Cùng thời gian ấy, con được cha gọi vào ở với cha và đi về Đông Mỹ phụ giúp cơm nước cho cha. Thời gian đầu chỉ có mình cha với con. Công việc mục vụ của cha gặp không ít khó khăn. Ít lâu sau cha xin được thầy Điệp từ giáo xứ Tuy Hòa về giúp việc với cha. Cha và thầy rất hòa đồng vui vẻ. Tuy nhiên trong lòng thầy Điệp còn một nỗi lo là đã nhiều năm qua biết bao nhiêu lần làm đơn xin phong chức không được chính quyền chấp thuận. Cha an ủi thầy Điệp:

- Tôi và thầy cố gắng cầu nguyện, biết đâu Chúa sẽ nhận lời, cho chính quyền chấp thuận đơn xin của thầy và thầy sẽ được phong chức trước khi kịp mừng kỉ niệm 25 năm chưa làm linh mục.

Ơn Chúa thật bất ngờ, đơn xin năm ấy được chính quyền chấp thuận. Được tin này, cha và thầy mừng vui. Thầy vội vã ra tòa giám mục để tĩnh tâm chờ ngày Đức Cha phong chức. Khi phong chức rồi cha Điệp về làm lễ mở tay tại nhà thờ Đông Mỹ có Đức Cha Các và nhiều cha về dự lễ. Đến phần cảm ơn, cha Điệp nghẹn nói không nên lời. Liền sau đó là bữa tiệc mừng vui. Cuộc tiệc tàn Đức Cha và các cha ra về. Tới chỗ tháp chuông nhà thờ, trước khi lên xe, Đức Cha cười nói:

- Cha Hiên mát tay quá. Con gửi cha Điệp lại đây cho cha. Rồi đây con sẽ gửi cho cha nuôi một vài thầy nữa.

Cha mĩm cười:

- Mọi sợ là ơn Chúa chứ con có làm được gì đâu.

Lúc này ở giáo xứ Tuy Hòa cần thêm cha phụ tá giúp xứ, cha Điệp về lại Tuy Hòa. Cũng thời gian này, có chị Phụng, chị Nhơn và chị Lâm lui tới cơm nước cho cha. Cha bảo rằng: “Cái Hùng nên ra ngoài tìm một người bạn lập gia đình đi”. Cha còn làm mai mối cho hai người em gái ở Tịnh Sơn nhưng con không ưng ý, chỉ thích một người bạn gái ở giáo xứ Đông Mỹ mà thôi. Cha khuyên nên tìm hiểu thật kĩ trước khi đến hôn nhân.

Khi cha Điêp về lại Tuy Hòa, thầy Thái bắt đầu sang Đông Mỹ giúp xứ với cha. Đến khoảng tháng 9 năm 99 có cả thầy Phú cùng về Đông Mỹ giúp xứ với cha. Đến tháng 7 năm 2000, thầy Thái được phong chức. Phong chức rồi cha Thái ở lại Đông Mỹ giúp việc với cha. Còn con, sau hai năm tìm hiểu, đến tháng 9 năm 2000, hai đứa kết hôn. Ttrước ngày con kết hôn cha bị té xe, nhức xương vai, phải vô Sài Gòn điều trị, nhưng cha vẫn dành riêng hai chỉ vàng cho ngày con lập gia đình. Thời gian điều trị đã mãn cha về lại Đông Mỹ, khuyên con nên về lại Trà Kê dễ sinh sống hơn. Đến tháng 2 năm 2001 con nghe lời cha về lại Trà Kê. Rồi đến tháng 4 thầy Phú chịu chức. Lại một lần nữa, con nhận thấy được ơn Chúa qua lời cầu nguyện của cha, như lời Đức cha nói trước đó 2 năm.

Qua tháng 6 cùng năm cha quyết định về hưu nghỉ ở làng sông Quy Nhơn. Trong một lần con ghé thăm cha tại làng Sông, con hỏi: “Sao cha không ở xứ mà về Làng Sông buồn quá vậy cha?” Cha cười bảo: “Mình tuổi đã già, nhường cho các cha trẻ ở xứ để các cha ấy trổ hết tài nghệ, chứ có mình các cha trẻ khó làm việc lắm.”

Ở Làng Sông được một thời gian, cha vô Gò Vấp. Sau cha về lại Quy Nhơn ít lâu rồi lại vô Sài Gòn, làm việc ở nhà hưu dưỡng ở Bùi Chu Sài Gòn, trước khi đến nhà Dòng Đồng Công ở Thủ Đức. Mỗi nơi cha đi qua, cha đều giúp vài việc, ai ai đều cũng biết, nhưng cha luôn mãi nhớ giáo phận Quy Nhơn thân yêu nơi cha đã sinh sống và làm việc suốt 37 năm trời. Vì nơi đây có nhiều người học trò của cha và có người con hoang đàng là con.

Rồi đến tuần tĩnh tâm 2009 của giáo phận Quy Nhơn cha đã về tĩnh tâm. Hay tin, vợ chồng con và hai cháu ra tòa giám mục để thăm cha. Cha hởi thăm nhiều điều của xứ đạo Tịnh Sơn và Đông Mỹ. Rồi con kể cho cha nghe câu chuyện chương trình “Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly” trên TV đang tìm giúp gia đình con. Cha bảo hãy cố gắng cầu nguyện biết đâu ơn Chúa sẽ giúp con đoàn tụ cùng với các anh em ruột thịt của mình. Con liền nói rằng:

- Cha hãy cầu nguyện giúp giùm con với, nếu có ngày đoàn tụ, con báo tin, cha có về thăm gia đình con không?

Cha bảo rằng:

- Đi chứ, nhưng trước hết cái Hùng cố gắng làm cái nhà, nhà xong cha sẽ về thăm chúng con và bà con giáo dân.

Sau lần trò chuyện ấy, cha vào phòng tĩnh tâm. Vợ chồng con ra về. Con cố gắng cất nhà để mong được cha về thăm gia đình và giáo xứ.

Tĩnh tâm song cha về lại Sài Gòn, rồi đến tháng năm cha đi Buôn Mê Thuột dự lễ tấn phong giám mục của một người học trò cũ, đó là Đức cha Bản.

Dự lễ xong, cha cảm thấy sức khỏe mình yếu đi. Cha về Sài Gòn tái khám, bác sĩ bảo cha đã bị ung thư lá lách giai đoạn cuối, rất khó chữa trị. Nhưng nhà dòng Đồng Công nơi cha ở vẫn đưa cha vào bệnh viện Chợ Rẫy, ra sức cứu chữa. Con hay tin, liền vào bệnh viện để thăm cha. Tuy bệnh nặng nhưng cha vẫn vui cười. Cảmđộng nhất là đang khi trò chuyện thì xảy đến một cơn đau, mặt cha tái xanh vì cơn đau hành hạ, thầy Quyền ở trong dòng Đồng Công đang nuôi cha thấy vậy, liền đi gọi bác sĩ đến để chích mũi thuốc giảm đau, nhưng cha lại không đồng ý. Cha bảo:

- Cứ để như vậy đi, cơn đau này có thấm vào đâu so với các roi đòn Chúa Giêsu xưa đã chịu.

Sau khi bệnh viện hết phương cứu chữa, cha về lại nhà Dòng Đồng Công, con về lại Trà Kê. Vào đầu tháng Chín, chương trình Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Li bảo con vô Sài Gòn để gặp mặt anh em, con báo tin cho cha, cha rất vui. Các anh em của con từ Gia Lai vô Sài Gòn, con từ Trà Kê cũng vô Sài Gòn để lên chương trình Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Li mừng ngày gia đình anh em được đoàn tụ. Vào sáng ngày chủ nhật ngày 5 tháng 9, bốn anh em chúng con nghé thăm cha. Được tin này cha ra tận ngoài cổng nhà dòng để đón anh em chúng con. Tuy cha đau bệnh, nhưng vẫn dành cho anh em chúng con một giờ trò chuyện. Ít có ai được nhà dòng cho phép trò chuyện với cha như vậy. Nhưng chúng con đã được Nhà Dòng ưu ái cho thường xuyên lui tới. Con xin phép cha ở lại bên cha vài hôm, cha bảo con:

- Nhà cửa xong chưa mà đòi ở lại, chưa xong thì về lo làm cho xong đừng chạy ra chạy vô tốn kém tiền bạc lắm, ở đây có các thầy lo cho cha là được rồi.

Anh em chúng con chia tay cha ra về. Con về lại Trà Kê để lo việc nhà cửa cho xong. Đến ngày 19 tháng 9 nhà cửa con hoàn tất. Đang lúc tổ chức bữa tiệc rượu rửa bay, cuộc tiệc bắt đầu mới hơn nửa giờ, con nghe chuông điện thoại reo, trong lòng bỗng thấy lo lo sợ sợ. Cầm lên xem thấy số điện thoại của Thầy Quyền nhà Dòng, tay con run, tim con đập mạnh. Giọng thầy Quyền nói thật là buồn:

- Hùng ơi! Cha cố đã về với Chúa cách đây vừa đúng hai phút, mình báo tin cho Hùng hay.

Con xem đồng hồ. Lúc đó là 19 giờ 17 phút ngày 19 tháng 9 năm 2009.

Tái bút

Trên đây là câu chuyện thật sự của con viết kể về cha, con viết vào nhật kí để làm kỉ niệm suốt đời con.

Hôm nay ngồi viết lại những dòng nhật kí này, con xót thương cha vô cùng. Con cảm thấy mình có lỗi quá nhiều với cha. Không biết nói gì hơn, con bước ra gian thờ, đốt lên một nén hương trầm nơi bàn thờ cha và cầu nguyện cùng với Chúa: “Lạy Chúa! Xin Chúa thương tha thứ những lỗi lầm của con và những lỗi lầm mà người cha kính yêu của con đã sai phạm trong cuộc đời nơi dương thế 87 tuổi một đời người, và gần 60 năm với thiên chức linh mục, mà tha thứ cho ngài và đón nhận ngài về Thiên Quốc hưởng Nhan Chúa, cùng với Mẹ Maria, Thánh cả Giuse và toàn thể các Thánh, xin Chúa nhậm lời con. Amen.”

Và trước bàn thờ, con thầm nguyện sẽ sống tốt lành thánh thiện để mai sau được gặp lại Cha trong cõi hạnh phúc đời đời, như chưa hề có cuộc chia ly.

Trà Kê, ngày 10 tháng 9 năm 2010

Nguyễn Thái Hùng

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Cha Bản hiện là Giám Mục Giáo Phận Ban Mê Thuột