Giu-đa đang biện hộ vì “Giu-đa vẫn còn sống!”
* Nhân đọc bài “Giu-đa vẫn còn sống!” của Linh mục Nguyễn Hữu Thy đăng trên VietCatholicNews ngày 09/01/2007, tôi viết bài này để đáp lại sau đây:
Người Công giáo Việt Nam chúng ta từ xưa tới nay vốn vẫn được nuôi dưỡng bởi dòng máu anh hùng của các Thánh tử đạo, nên luôn có những tấm gương hy sinh cao cả, giám chấp nhận sự hăm dọa, khủng bố cả về tinh thần và vật chất hay chấp nhận khước từ những lời mời gọi ngọt ngào đường mật, để vẫn giữ một lòng kiên trung với Chúa. Tên tuổi của những bậc tôn quý này tôi không kể ra đây thì mọi người chúng ta cũng đều đã rõ.
Sống đạo, giữ đạo, chấp nhận dấn bước theo chân Đức Giêsu là cả một chọn lựa mà không phải một sớm một chiều đương sự có thể được an bình bước đi trong tâm thái “ung dung tự tại”. Phải có một sự thanh lọc và chấp nhận lột xác, giám vứt bỏ những vương luyến thế tục mới xứng đáng làm môn đệ của Thầy Giêsu chí ái. “Ai yêu cha mẹ hơn thầy thì không đáng làm môn đệ của thầy, ai yêu con trai con gái hơn thầy thì không đáng làm môn đệ của thầy” (Mt 10,37), “Ai muốn đến với Ta, phải từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24)… Đó là một thực tế, một tiêu chí bất di dịch, trường tồn với thời gian và trở thành bản chất của người môn đệ Đức Giêsu. Để luôn giữ mãi được nét trinh trong và sự trung thành đó, người môn đệ Đức Giêsu phải có những bước thanh luyện rất đau đớn cho thể xác và tâm hồn, để trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống họ vẫn đứng vững và xứng đáng được Đức Giêsu giao cho trách nhiệm coi sóc và chăn dắt đàn chiên của Ngài.
Vượt thắng những thực tại tự nhiên và xã hội để đạt đến thực tại siêu nhiên, con đường chỉ có vậy và cứu cánh cũng chỉ có như thế. Nếu còn bị định hình và chế ước bởi thực tại tự nhiên và xã hội với vô số những cơ chế đa tạp của nó, người đó chưa thật xứng đáng với môn đệ của Đức Giêsu. Vì thế, trong các Đại chủng viện, các dòng tu, Giáo hội đã chuẩn bị cho các chủng sinh những hành trang cần thiết cả về tri thức, đạo đức và sức khỏe để có thể làm chứng và hơn thế còn loan báo Tin mừng và mở rộng nước Chúa trong mọi cảnh huống của xã hội. Như vậy, khả năng kháng lại những vi-rút có hại là điều cần phải có nơi một môn đệ Đức Giêsu, nếu không chính họ sẽ không làm vai trò của “men”, “muối” ướp mặn cho đời mà ngược lại, chính muối đã bị nhạt và đèn đã cạn dầu, chỉ có việc quẳng ra đường cho người ta dẫm lên mà thôi! Sống trong hoàn cảnh “triền miên phải đối mặt với mọi cám dỗ, mời mọc hay với đủ thứ đe dọa, giam cầm, bị khủng bố tinh thần lẫn thể xác, v.v…” mà phải chấp nhận “buông xuôi đầu hàng” thì đúng là “muối” đã nhạt và “đèn” đã cạn dầu. Không thể so sánh với hàng triệu người dân của các chế độ độc tài sống trong sự giam cầm vây hãm và bị tước đoạt hết quyền làm người, như dưới chế độ Stalin của Liên Xô, Mao Trạch Đông của Trung Quốc hay Kim Nhật Thành của Bắc Hàn được. Người dân ở đó là nạn nhân của một chế độ hà khắc, độc ác, họ bị tước hết mọi gia sản, bị vô sản hóa để chỉ còn biết phục tùng một “vị thánh” khát máu, háo sắc. Về điểm này, đúng như Linh mục Thy đã phân tích. Họ không hề được học biết những gì ngoài việc được trang bị một ít vốn liếng về tri thức để bảo vệ cho chế độ. Một trí thức như Tố Hữu cũng thấy việc mình làm thân phận khuyển mã bảo vệ cho chế độ là cần thiết và đã nức nở nghẹn ngào khóc Stalin:
“Stalin! Stalin!
Hỡi ôi! Ông mất, đất trời còn không?
Thương cha, thương mẹ, thương mình,
Thương chồng thương một, thương ông thương mười!”
Tố Hữu cũng là nạn nhân của chế độ? Hay ông thấy việc “khóc lóc” như thế là có chút để chấm mút!
Đổ cho hoàn cảnh, đổ cho môi trường sống là tự ngụy biện để tiếp tục Giu-đa vẫn là Giu-đa. Thực tế, cùng một hoàn cảnh mà Giám Mục Stefan Wyszynski chấp nhận bị quản thúc hàng bao nhiêu năm trường dưới triều đại Stalin, Linh Mục Jerzy Popieluszko bị mật vụ thủ tiêu, thì Giám Mục Stanilaw Wielgus ung dung xuất ngoại với nguồn học bổng thỏa đáng. Ở Việt Nam, bắt đầu từ những năm 1960, với Nghị quyết 49 ngày 21/06/1961 của UB Thường Vụ Quốc Hội về việc tập trung cải tạo những phần tử có hành động nguy hại cho xã hội, Nghị quyết này đã đẩy hàng loạt những người Công giáo bị nghi ngờ do Giu-đa làm chỉ điểm, vào trại tập trung cải tạo, có người phải lĩnh mức án hơn 20 năm – án cao su, và rất nhiều người bị chết. Trong hoàn cảnh đó, có những Linh Mục, Tu sĩ lại cộng tác với Công an để ung dung làm công tác “mục vụ = mật vụ”. Chúng tôi biết tại một giáo phận kia, được xếp vào hạng Giáo phận “đỏ”, nên việc đổi màu áo cho nhau từ “màu đen” của Linh mục sang “màu xanh” của công an là chuyện rất thường. Vào dịp tháng 10/2000, một Linh mục mới du học ở Rome về đã nói với một sinh viên: “Cha nhờ làm 8 năm ở UB Đoàn Kết Công giáo tỉnh… mà được đi du học”, bây giờ Ngài được UBMTTQ tỉnh trân trọng gọi là “đồng chí” (theo giấy mời làm Ban giám khảo cuộc thi tiếng hát của người Công giáo tỉnh năm 2005: “Sự có mặt của đồng chí…”). Thực tế, vị linh mục này không hề bị sách nhiễu, quấy rối, gây khó khăn gì trong công việc mục vụ ở giáo xứ, mà chỉ bị lôi cuốn cám dỗ mà không thể cưỡng lại được do háo danh, tham quyền chức nên đã chấp nhận nghe theo để làm cột ăng-ten cho chế độ cộng sản tìm cách chống phá Giáo hội. Vào quý III năm 2000, một Linh mục khác cũng thuộc cùng giáo phận, đã phát biểu ở Đại hội UBĐK Công giáo tỉnh như sau: “Theo tôi, nguyên nhân dẫn đến cuộc sống đói kém và dân trí thấp trong vùng giáo… là: Thứ nhất, do tổ chức lễ lạy quá nhiều, tiệc tùng linh đình tốn kém; thứ hai, do xây dựng nhà thờ nên giáo dân phải đóng góp nhiều; thứ ba, do sinh đẻ bừa bãi. Ba nguyên nhân đó đã làm cho dân đói kém kiệt quệ và dẫn tới dốt nát”. Khi nghe những câu giải thích như vậy phát ra từ miệng của một vị Linh mục đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người Công giáo trước chính quyền, chúng tôi thấy xót xa quá. Vị Linh mục này đã chăn chiên và được bú sữa chiên, nhưng có lẽ vì sữa chiên không đủ do ông chểnh mảng trong việc coi sóc để đàn chiên gầy yếu, nên ông đành bú sữa dê, khi sữa dê ngấm vào máu thịt nó sẽ chuyển hóa thành những nếp nghĩ và lối phát ngôn phản bội như thế, thậm chí còn có những kiểu vụng trộm rất… dê. Tất cả là do tham chức quyền, địa vị mà thôi.
Tấm gương về sự khước từ những lời mời gọi cộng tác với chế độ như Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền và ĐGM Nguyễn Văn Thuận vẫn còn đó. Với những vị này, chúng tôi ngạc nhiên vì kính phục, bởi khi soi lại mình, chúng tôi thấy xấu hổ; còn đối với những vị chạy theo đuôi CS để được hưởng một vài chút quyền lợi tức thời, chúng tôi cũng lấy làm “ngạc nhiên” và hơn thế còn sửng sốt, vì tại sao khi đã chấp nhận từ bỏ hết tất cả, không vợ con, không gia đình… mà vẫn cứ sợ những mất mát khác. Chúng tôi ngạc nhiên vì sự giả dối của họ.
Giáo hội không sợ sự thật và cuối cùng sự thật sẽ thắng. Tin tưởng như vậy, chúng tôi tin rằng Giu-đa sẽ phải chết để không còn những tên chỉ điểm, những tên giao chỉ điểm, vì Giu-đa còn sống Giu-đa sẽ tiếp tục biện hộ để Giu-đa vẫn là Giu-đa luôn tìm cách nộp Thầy mình dưới nhiều chiêu bài ma quái ngon ngọt khó phân định.
(viết từ Miền Trung Việt Nam)