Từ lâu bị Giáo hội lên án, thủ tục này đang khơi dậy sự quan tâm các bác sĩ
Giáo hội Công Giáo đã cảnh cáo từ lâu về những vấn đề luân lý thuộc thụ tinh nhân tạo. Bây giờ, cả các bác sĩ cũng đang cảnh cáo các đôi vợ chồng đừng có quá vội vã trong việc bắt đầu sử dụng IVF. Lời khuyên này đưa ra trong những nghi thức của hội nghị về Phôi-học và Quá trình Sinh sản Nhân bản thuộc Hiệp hội Âu châu, hội nghị họp ở đây tuần qua.
Bác sĩ David Dunson, thuộc Cơ chế Quốc gia chuyên những Khoa học chăm lo Sức Khỏa Môi trường ở Bắc Carolina, nhận xét rằng nhiều cặp vợ chồng bắt đầu chữa trị IVF khi họ có thể có một đứa con bằng những phương tiện tự nhiên, tờ London Times tường thuật ngày 4 /7.
Sự nghiên cứu chứng tỏ rằng hầu hết những người nữ không thụ thai được sau khi cố gắng làm như vậy--thời điểm mà nhiều bác sĩ khuyên chữa trị IVF--sẽ mang thai tự nhiên trong 12 tháng sau. Cả giữa số người nữ trong lứa tuổi muộn 30, ít hơn một trong 10 sẽ không mang thai sau hai năm, miễn là người chồng dưới 40.
Bác sĩ Dunson xác nhận rằng nhiều cặp vợ chồng giải thích sai sự nghiên cứu chứng tỏ khả năng sinh sản người nữ bắt đầu suy sụp từ những tuổi muộn 20, và mất hẳn trong những tuổi muộn 30.
Điều này chỉ có nghĩa là người nữ phải lâu ngày mới mang thai, chớ không phải không thể mang thai mà không cần sự trợ giúp y khoa, ông nói.
Các bác sĩ nên tránh cách điều trị sinh sản được trợ giúp nếu có thể vì những hâu quả phụ của nó, ông nói. Chữa trị khả năng sinh sản có thể đưa tới một sự nguy hiểm gia tăng là nhiều lần mang thai, các biến chứng mang thai, thiếu trọng lượng khi sinh, những khuyết điểm lớn hơn khi sinh và sự ốm yếu lâu dài nơi các em bé sống sót, ông cảnh cáo. Hơn nữa, cái may thành công với sự điều trị được giùp đỡ xuống thấp theo tuổi, đang khi những hậu quả bên lề tăng thêm nhiều.
Những phôi thai bị nguy
Một báo cáo sơm hơn từ hội nghị Vienna cảnh cáo rằng dùng nhiều phôi thai trong lúc chữa trị IVF không những không cần thiết, mà còn làm các em bé lâm nguy, BBC tường thuật ngày 1/7.
Hầu hết các sự chữa trị IVF bình thường cấy nhiều hơn một phôi thai trong tử cung, hầu bảo đảm việc thụ thai. Nhưng một cuộc nghiên cứu do các chuyên viên Pháp thực hiện, được trình bày tại hội nghị Vienna, khẳng định rằng dầu một phôi thai thôi cũng có thể cho cái may là thụ thai kết quả cũng như hai hay nhiều phôi thai hơn.
Sự nghiên cứu căn cứ trên một phân tích gần 25. 000 vụ thụ thai của các người nữ nào đã nhận sự chữa trị có giúp đỡ giữa 1986 và 1998. Những lần mang thai đó kết quả là sinh được 32. 389 em bé. Trong số này, 18. 235 là con sinh chiếc, 11. 905 là con sinh đôi và 1. 772 con sinh ba.
Sự mang thai nhiều là một yếu tố sinh nguy hiểm rất trầm trọng cho sức khỏe các em bé, nhà nghiên cứu lãnh đạo Emile Papiernik ở Bệnh viện Port Royald tại Paris, giải thích.
Tại một cuộc họp báo tổ chức ở Vienna, Dr. Karl Nygren, giáo sư đồng nghiệp về khoa sản và phụ khoa của Bệnh viện Sofiahemmet ở Stockholm, nói tỷ lệ tự nhiên của những vụ sinh nhiều là gần 1%, nhưng lên khoản giữa 20% và 40% đối với những người nữ nào đã dùng các kỷ thuật sinh sản có giúp đỡ.
Trong nhóm được nghiên cứu, gần chín trong 10 trẻ sinh ba, và hơn bốn trong 10 đứa sinh đôi, bị sinh ra sớm, so với hơn 8% em bé sinh chiếc. Hơn nữa, 57% những đứa bé, nhỏ xác sánh với thời gian mang thai, là sinh ba, gần 43% là sinh đôi và hơn 17% là sinh chiếc.
Những số tử vong trong thời kỳ sinh về phía trẻ sinh ba là năm lần so với những trẻ sinh chiếc--một tỷ lệ gần 40 phần 1000 sánh với dưới 8 phần 1000 về phía những trẻ sinh chiếc. Đối với những trẻ sinh đôi thì hơn 20 phần 1000.
Những lần mang thai nhiều không làm hại các em bé mà thôi. Những người nữ mang nhiều em bé thụ thai với IVF xem ra mắc phải điều kiện áp huyết cao trầm trọng hơn là những người nữ thụ thai nhiều cách tự nhiên, Reuters tường thuật Feb. 28.
Cơ quan báo chí trích dẫn một bản báo cáo phổ biến trong số tháng March về Khoa sản và Phụ sản. Cuộc nghiên cứu khám xét 528 bà mẹ đã sinh đôi, sinh ba hay sinh bốn giữa 1994 và 2000. Trong số những người nữ này, 69 đã thụ thai với kỷ thuật sinh sản có giúp đỡ, hay là ART.
Những người điều tra thấy rằng những phụ nữ nào sử dụng ART là bị chứng tiền-động kinh, xem ra nhiều hơn hai lần so với những người thụ thai cách tự nhiên, làm cho áp huyết lên cao tới mức nguy hiểm trong lúc mang thai. Và những người nữ nào sử dụng ART thì xem ra hầu như năm lần mắc hình thức trầm trọng tiền-động kinh, có thể đe dọa mạng sống, bản báo cáo chỉ rõ.
Nguy hiểm những dị dạng
Một số nghiên cứu khác cho thấy mức độ cao hơn trong những vấn đề sức khỏe đối với những em bé thụ thai qua các chương trình IVF. Theo báo cáo ngày 5 July do Liên đoàn Phát thanh Australian, sự nghiên cứu trong tiểu ban miền Tây Australian, thấy rằng có hai lần nguy hiểm về những khuyết điểm lớn khi sinh trong những em bé IVF, sánh với những em bé thụ thai tự nhiên
Một nghiên cứu, đồng thực hành bởi Michele Hansen tại Cơ chế Điều tra Sức khỏe Trẻ em, thấy rằng những em bé thụ thai qua sự thụ thai được giúp đỡ, có 9% nguy hiểm bị những khuyết tật lớn hơn khi sinh. Những nhà nghiên cứu bây giờ sẽ tiếp tục khám phá này với một chương trình theo dõi các em qua sáu tháng đầu cuộc sống.
Trước kia, một nghiên cứu phổ biến do nhật báo New England về Y khoa thấy rằng những em bé IVF chịu hai cái nguy hiểm, vừa bị khuyết tật khi sinh vừa thiếu trọng lượng khi sinh, tờ Post Whashington tường thuật hôm 7/3.
Số báo ghi chú rằng những phương thức do các bịnh viện về khả năng sinh sản sử dụng, không phải chịu sự trắc nghiệm chính phủ về tính an toàn của nó, như được đòi hỏi đối với ma túy. Cuộc nghiên cứu đến đúng lúc việc sinh sản được trợ giúp cách nhân tạo ngày càng được ưa thích tại Hiệp Chúng Quốc, với ước độ 82. 000 thủ tục (đưa đến việc sinh 29. 000 con) trong năm 1998, một gia tăng 12% so với năm trước.
Còn một nghiên cứu khác cũng kết luận rằng IVF đưa tới những vấn đề trong trẻ em dầu khi chỉ sinh chiếc. Một phúc trình hôm 22/1 do Health Scout News trích dẫn tác giả nghiên cứu Rebecca Jackson, giám đốc y khoa Trung tâm Sức khỏe người Nữ tại Bệnh viện Đa khoa San Francisco, đã cảnh cáo rằng nhiều vấn đề có thể xảy ra trong bất cứ bước nào của nhiều bước bao hàm trong IVF.
Một số yêu tố gây nguy hiểm bao gòm những thứ thuốc sử dụng để gây ra sự rụng trứng, tiến trình thụ tinh và làm cho phôi thai lớn lên trong ống nghiệm, quá trình cấy lại phôi thai trong tử cung, Dr. Jackson nói, bà trình bày những khám phá của bà trong buổi họp hằng năm của
Cuộc nghiên cứu của Jackson là một sự phân tích tổng hợp 13 cuộc nghiên cứu đã xem xét hơn 10. 000 vụ mang thai IVF và 1. 5 triệu vụ thụ thai tự nhiên. Mục đích của bà là so sánh những nguy hiểm của sự tử vong em bé, của sự sinh trước thời hạn, của sự sinh thiếu cân, và của sự nhỏ xác đối với thời gian mang thai giữa các con bé của những người nữ thụ thai cách tự nhiên và những người nữ mang thai vì dùng IVF.
Sau khi xem xét tuổi người mẹ, cũng như số lượng những vụ mang thai trước, Jackson nói cuộc nghiên cứu cho biết một tỷ lệ nhìn chung cao hơn đối với tất cả những phức tạp trong các đứa bé của những người nữ thụ thai qua IVF.
Một nghiên cứu khác, thực hiện tại Đại học Bệnh viện Con trẻ ở Uppsala, Sweden, khám phá rằng các đứa bé sinh ra như hậu quả của IVF thì xem ra ba lần phát triển những rối loạn thần kinh, kể cả chứng liệt não, hơn là những đứa bé được thụ thai cách tự nhiên, tờ nhật báo British Independent tường thuật hôm 8/2.
Sự nghiên cứu so sánh 5. 680 đứa con IVF, tuổi giữa 18 tháng và 14 năm với 11. 360 đứa con cùng một tuổi được thụ thai cách tự nhiên.
Các nhà khoa học liên can trong sự nghiên cứu, tin những khám phá có thể được giải thích qua các rắc rối thường xảy ra khi hai hay nhiều hơn IVF phôi thai chia sẻ chung một dạ, còn hơn là vì chính những kỷ thuật IVF.
Giáo hội thường cảnh cáo về những vấn đề luân lý cuả các kỷ thuật IVF, mà trong nhiều trường hợp giết những mạng sống nhỏ bé con người. Khoa học ngày nay cũng khám phá ra những trở ngại y khoa to tát .
Giáo hội Công Giáo đã cảnh cáo từ lâu về những vấn đề luân lý thuộc thụ tinh nhân tạo. Bây giờ, cả các bác sĩ cũng đang cảnh cáo các đôi vợ chồng đừng có quá vội vã trong việc bắt đầu sử dụng IVF. Lời khuyên này đưa ra trong những nghi thức của hội nghị về Phôi-học và Quá trình Sinh sản Nhân bản thuộc Hiệp hội Âu châu, hội nghị họp ở đây tuần qua.
Bác sĩ David Dunson, thuộc Cơ chế Quốc gia chuyên những Khoa học chăm lo Sức Khỏa Môi trường ở Bắc Carolina, nhận xét rằng nhiều cặp vợ chồng bắt đầu chữa trị IVF khi họ có thể có một đứa con bằng những phương tiện tự nhiên, tờ London Times tường thuật ngày 4 /7.
Sự nghiên cứu chứng tỏ rằng hầu hết những người nữ không thụ thai được sau khi cố gắng làm như vậy--thời điểm mà nhiều bác sĩ khuyên chữa trị IVF--sẽ mang thai tự nhiên trong 12 tháng sau. Cả giữa số người nữ trong lứa tuổi muộn 30, ít hơn một trong 10 sẽ không mang thai sau hai năm, miễn là người chồng dưới 40.
Bác sĩ Dunson xác nhận rằng nhiều cặp vợ chồng giải thích sai sự nghiên cứu chứng tỏ khả năng sinh sản người nữ bắt đầu suy sụp từ những tuổi muộn 20, và mất hẳn trong những tuổi muộn 30.
Điều này chỉ có nghĩa là người nữ phải lâu ngày mới mang thai, chớ không phải không thể mang thai mà không cần sự trợ giúp y khoa, ông nói.
Các bác sĩ nên tránh cách điều trị sinh sản được trợ giúp nếu có thể vì những hâu quả phụ của nó, ông nói. Chữa trị khả năng sinh sản có thể đưa tới một sự nguy hiểm gia tăng là nhiều lần mang thai, các biến chứng mang thai, thiếu trọng lượng khi sinh, những khuyết điểm lớn hơn khi sinh và sự ốm yếu lâu dài nơi các em bé sống sót, ông cảnh cáo. Hơn nữa, cái may thành công với sự điều trị được giùp đỡ xuống thấp theo tuổi, đang khi những hậu quả bên lề tăng thêm nhiều.
Những phôi thai bị nguy
Một báo cáo sơm hơn từ hội nghị Vienna cảnh cáo rằng dùng nhiều phôi thai trong lúc chữa trị IVF không những không cần thiết, mà còn làm các em bé lâm nguy, BBC tường thuật ngày 1/7.
Hầu hết các sự chữa trị IVF bình thường cấy nhiều hơn một phôi thai trong tử cung, hầu bảo đảm việc thụ thai. Nhưng một cuộc nghiên cứu do các chuyên viên Pháp thực hiện, được trình bày tại hội nghị Vienna, khẳng định rằng dầu một phôi thai thôi cũng có thể cho cái may là thụ thai kết quả cũng như hai hay nhiều phôi thai hơn.
Sự nghiên cứu căn cứ trên một phân tích gần 25. 000 vụ thụ thai của các người nữ nào đã nhận sự chữa trị có giúp đỡ giữa 1986 và 1998. Những lần mang thai đó kết quả là sinh được 32. 389 em bé. Trong số này, 18. 235 là con sinh chiếc, 11. 905 là con sinh đôi và 1. 772 con sinh ba.
Sự mang thai nhiều là một yếu tố sinh nguy hiểm rất trầm trọng cho sức khỏe các em bé, nhà nghiên cứu lãnh đạo Emile Papiernik ở Bệnh viện Port Royald tại Paris, giải thích.
Tại một cuộc họp báo tổ chức ở Vienna, Dr. Karl Nygren, giáo sư đồng nghiệp về khoa sản và phụ khoa của Bệnh viện Sofiahemmet ở Stockholm, nói tỷ lệ tự nhiên của những vụ sinh nhiều là gần 1%, nhưng lên khoản giữa 20% và 40% đối với những người nữ nào đã dùng các kỷ thuật sinh sản có giúp đỡ.
Trong nhóm được nghiên cứu, gần chín trong 10 trẻ sinh ba, và hơn bốn trong 10 đứa sinh đôi, bị sinh ra sớm, so với hơn 8% em bé sinh chiếc. Hơn nữa, 57% những đứa bé, nhỏ xác sánh với thời gian mang thai, là sinh ba, gần 43% là sinh đôi và hơn 17% là sinh chiếc.
Những số tử vong trong thời kỳ sinh về phía trẻ sinh ba là năm lần so với những trẻ sinh chiếc--một tỷ lệ gần 40 phần 1000 sánh với dưới 8 phần 1000 về phía những trẻ sinh chiếc. Đối với những trẻ sinh đôi thì hơn 20 phần 1000.
Những lần mang thai nhiều không làm hại các em bé mà thôi. Những người nữ mang nhiều em bé thụ thai với IVF xem ra mắc phải điều kiện áp huyết cao trầm trọng hơn là những người nữ thụ thai nhiều cách tự nhiên, Reuters tường thuật Feb. 28.
Cơ quan báo chí trích dẫn một bản báo cáo phổ biến trong số tháng March về Khoa sản và Phụ sản. Cuộc nghiên cứu khám xét 528 bà mẹ đã sinh đôi, sinh ba hay sinh bốn giữa 1994 và 2000. Trong số những người nữ này, 69 đã thụ thai với kỷ thuật sinh sản có giúp đỡ, hay là ART.
Những người điều tra thấy rằng những phụ nữ nào sử dụng ART là bị chứng tiền-động kinh, xem ra nhiều hơn hai lần so với những người thụ thai cách tự nhiên, làm cho áp huyết lên cao tới mức nguy hiểm trong lúc mang thai. Và những người nữ nào sử dụng ART thì xem ra hầu như năm lần mắc hình thức trầm trọng tiền-động kinh, có thể đe dọa mạng sống, bản báo cáo chỉ rõ.
Nguy hiểm những dị dạng
Một số nghiên cứu khác cho thấy mức độ cao hơn trong những vấn đề sức khỏe đối với những em bé thụ thai qua các chương trình IVF. Theo báo cáo ngày 5 July do Liên đoàn Phát thanh Australian, sự nghiên cứu trong tiểu ban miền Tây Australian, thấy rằng có hai lần nguy hiểm về những khuyết điểm lớn khi sinh trong những em bé IVF, sánh với những em bé thụ thai tự nhiên
Một nghiên cứu, đồng thực hành bởi Michele Hansen tại Cơ chế Điều tra Sức khỏe Trẻ em, thấy rằng những em bé thụ thai qua sự thụ thai được giúp đỡ, có 9% nguy hiểm bị những khuyết tật lớn hơn khi sinh. Những nhà nghiên cứu bây giờ sẽ tiếp tục khám phá này với một chương trình theo dõi các em qua sáu tháng đầu cuộc sống.
Trước kia, một nghiên cứu phổ biến do nhật báo New England về Y khoa thấy rằng những em bé IVF chịu hai cái nguy hiểm, vừa bị khuyết tật khi sinh vừa thiếu trọng lượng khi sinh, tờ Post Whashington tường thuật hôm 7/3.
Số báo ghi chú rằng những phương thức do các bịnh viện về khả năng sinh sản sử dụng, không phải chịu sự trắc nghiệm chính phủ về tính an toàn của nó, như được đòi hỏi đối với ma túy. Cuộc nghiên cứu đến đúng lúc việc sinh sản được trợ giúp cách nhân tạo ngày càng được ưa thích tại Hiệp Chúng Quốc, với ước độ 82. 000 thủ tục (đưa đến việc sinh 29. 000 con) trong năm 1998, một gia tăng 12% so với năm trước.
Còn một nghiên cứu khác cũng kết luận rằng IVF đưa tới những vấn đề trong trẻ em dầu khi chỉ sinh chiếc. Một phúc trình hôm 22/1 do Health Scout News trích dẫn tác giả nghiên cứu Rebecca Jackson, giám đốc y khoa Trung tâm Sức khỏe người Nữ tại Bệnh viện Đa khoa San Francisco, đã cảnh cáo rằng nhiều vấn đề có thể xảy ra trong bất cứ bước nào của nhiều bước bao hàm trong IVF.
Một số yêu tố gây nguy hiểm bao gòm những thứ thuốc sử dụng để gây ra sự rụng trứng, tiến trình thụ tinh và làm cho phôi thai lớn lên trong ống nghiệm, quá trình cấy lại phôi thai trong tử cung, Dr. Jackson nói, bà trình bày những khám phá của bà trong buổi họp hằng năm của
Cuộc nghiên cứu của Jackson là một sự phân tích tổng hợp 13 cuộc nghiên cứu đã xem xét hơn 10. 000 vụ mang thai IVF và 1. 5 triệu vụ thụ thai tự nhiên. Mục đích của bà là so sánh những nguy hiểm của sự tử vong em bé, của sự sinh trước thời hạn, của sự sinh thiếu cân, và của sự nhỏ xác đối với thời gian mang thai giữa các con bé của những người nữ thụ thai cách tự nhiên và những người nữ mang thai vì dùng IVF.
Sau khi xem xét tuổi người mẹ, cũng như số lượng những vụ mang thai trước, Jackson nói cuộc nghiên cứu cho biết một tỷ lệ nhìn chung cao hơn đối với tất cả những phức tạp trong các đứa bé của những người nữ thụ thai qua IVF.
Một nghiên cứu khác, thực hiện tại Đại học Bệnh viện Con trẻ ở Uppsala, Sweden, khám phá rằng các đứa bé sinh ra như hậu quả của IVF thì xem ra ba lần phát triển những rối loạn thần kinh, kể cả chứng liệt não, hơn là những đứa bé được thụ thai cách tự nhiên, tờ nhật báo British Independent tường thuật hôm 8/2.
Sự nghiên cứu so sánh 5. 680 đứa con IVF, tuổi giữa 18 tháng và 14 năm với 11. 360 đứa con cùng một tuổi được thụ thai cách tự nhiên.
Các nhà khoa học liên can trong sự nghiên cứu, tin những khám phá có thể được giải thích qua các rắc rối thường xảy ra khi hai hay nhiều hơn IVF phôi thai chia sẻ chung một dạ, còn hơn là vì chính những kỷ thuật IVF.
Giáo hội thường cảnh cáo về những vấn đề luân lý cuả các kỷ thuật IVF, mà trong nhiều trường hợp giết những mạng sống nhỏ bé con người. Khoa học ngày nay cũng khám phá ra những trở ngại y khoa to tát .