1. Tuyên bố của Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ về việc Đức Tổng Giám Mục Wilton Gregory được vinh thăng Hồng Y
Đức Tổng Giám Mục José Gomez của Los Angeles và là chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ đã ra một tuyên bố, sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô công bố quyết định vinh thăng Đức Tổng Giám Mục Wilton Gregory của tổng giáo phận Washington lên hàng Hồng Y.
Toàn văn tuyên bố của Đức Tổng Giám Mục Gomez như sau:
“Khi vinh thăng Đức Tổng Giám Mục Wilton Gregory lên hàng Hồng Y, Đức Thánh Cha Phanxicô gửi một thông điệp mạnh mẽ về hy vọng và sự hòa nhập tới Giáo hội ở Hoa Kỳ. Là một cựu chủ tịch hội đồng giám mục quốc gia chúng ta, Đức Tổng Giám Mục Gregory đã thể hiện một tài lãnh đạo quán xuyến và có nguyên tắc. Việc vinh thăng Hồng Y cho một người Mỹ gốc Phi đầu tiên tại Hoa Kỳ cho chúng ta cơ hội để dừng lại và cảm ơn vì những ân sủng mà người Công Giáo Mỹ gốc Phi đã mang đến cho Giáo hội tại Hoa Kỳ. Xin hãy cùng tôi cầu nguyện cho sứ vụ tiếp tục của Đức Tổng Giám Mục Gregory”.
Source:USCCB
2. COVID-19 hoành hoàng một cách đáng báo động trong hàng giáo phẩm Nga
Asia-News, cơ quan thông tin của Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo Hải Ngoại cho biết hồi mùa xuân năm nay, cha Smirnov đã định nghĩa coronavirus “rất hữu ích” để thúc đẩy các tội nhân thống hối. Nhưng hồi tháng Năm, chính cha bị lây nhiễm virus và chưa được phục hồi thì lại bị làn sóng virus thứ hai khiến cha tử vong.Russ
Trong thời gian hần đây, số người nhiễm coronavirus tại Nga đã ở mức đáng báo động, trung bình là 15,700 người, và lần đầu tiên vượt quá con số 300 người chết trong một ngày, nâng tổng số người chết lên hơn 25,000 người, và 1,500,000 người bị lây nhiễm. Nguyên tại thủ đô Mascơva có gần 5,000 người bị nhiễm trong một ngày.
Chính Đức Tổng Giám Mục Pezzi của tổng giáo phận Công Giáo Mẹ Thiên Chúa Mạc Tư Khoa đã thông báo qua một video rằng ngài đã nhiễm coronavirus, và cho biết đây cũng là dịp để “tập trung trong chiều sâu về những điều quan trọng nhất”. Đức Tổng Giám Mục cũng xác tín rằng “thời kỳ này, nếu được Thiên Chúa để như thế, sẽ mang lại những hoa trái cho toàn thể Giáo hội chúng ta, một Giáo hội đang rất cần ơn sủng và sự hiệp nhất”.
Theo hãng tin RIA ở Nga, Đức Thượng phụ Kirill, 73 tuổi, cho biết ngài không thể tham dự các buổi lễ với cộng đoàn tín hữu, theo lời các bác sĩ đề nghị ngài cách ly. Đến nay chưa rõ ngài có bị nhiễm coronavirus không nhưng các biện pháp đã được đưa ra sau khi ngài tiếp xúc với một người sau đó được xác nhận nhiễm coronavirus.
Source:Asia News
3. Vatican sẽ thảo luận về các hướng dẫn dành cho giáo xứ với các giám mục Đức, chứ không phải với ủy ban tiến trình công nghị Đức
Tòa Thánh đã nói với Hội Đồng Giám Mục Đức rằng một cuộc họp sắp tới tại Rôma để thảo luận về những quan ngại của Hội Đồng Giám Mục Đức, liên quan đến một hướng dẫn mới dành cho các giáo xứ, sẽ không bao gồm đại diện giáo dân của tiến trình công nghị ở Đức.
Một lá thư của Đức Hồng Y Beniamino Stella, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ, gửi riêng cho chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, là Đức Cha Georg Bätzing của Limburg đã bị rò rỉ ra cho báo chí, và hôm 26 tháng 10, một phát ngôn viên của Hội Đồng Giám Mục Đức đã xác nhận bức thư trên báo chí là thật.
Thư của Đức Hồng Y Stella được viết để đáp lại đề nghị của Giám mục Bätzing vào tháng 8 rằng ủy ban điều hành của tiến trình công nghị phải được đưa vào danh sách các tham dự viên một cuộc họp tại Vatican “vì các giám mục, linh mục, phó tế và giáo dân đều được đề cập như nhau trong chỉ thị”.
Hãng thông tấn Herder Korrespondenz của Đức cho biết Đức Hồng Y Stella trả lời: “Xét về thực tế là hướng dẫn này, vì bản chất của nó, chủ yếu được gửi đến các giám mục (xem điều 34 triệt 1 Bộ Giáo Luật ), ở giai đoạn này, tôi coi họ là những người đối thoại cần thiết của Bộ này.”
Đức Hồng Y nói rõ rằng để chuẩn bị cho lá thư dài 8 trang của mình, ngài đã “nói chuyện với Đức Thánh Cha vào ngày 7 tháng 9 năm 2020 về một phản ứng thích hợp với các giám mục Đức”.
Đức Hồng Y Stella cũng đáp lại những lời chỉ trích đến từ một số giám mục Đức về chỉ thị dành cho các giáo xứ do Bộ Giáo Sĩ ban hành vào tháng Bảy có tựa đề: “ Sự chuyển đổi mục vụ của cộng đồng giáo xứ nhằm phục vụ sứ mệnh Phúc âm hóa của Giáo hội”, trong đó nhấn mạnh rằng theo giáo luật chỉ có các linh mục mới có quyền chỉ đạo việc chăm sóc mục vụ của các giáo xứ.
Đức Cha Franz-Josef Bode, Giám Mục Osnabrück, phó chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, đã chỉ trích chỉ thị này, và mô tả văn bản như một “cản trở to lớn đối với động lực và sự đánh giá cao các dịch vụ của giáo dân”.
Đức Cha Bode nói rằng ngài lo sợ rằng văn bản chỉ đưa đến một “sự chuyển đổi sang chủ nghĩa giáo sĩ trị” bởi vì nó nhấn mạnh vai trò của linh mục trong việc chỉ đạo các giáo xứ.
Trong khi đó, Đức Hồng Y Walter Kasper bảo vệ sự can thiệp của Vatican. Ngài nói: “Lời chỉ trích của các Giám Mục Đức hoàn toàn bỏ lỡ mối quan tâm thực tế của chỉ thị này: đó là việc chuyển đổi mục vụ xây dựng trên cơ sở truyền giáo. Chính vì mối quan tâm cơ bản này mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đặt vấn đề lên tầm mức thời sự cao khi xét đến số lượng những người rời bỏ Giáo hội được công bố gần đây”.
Đức Hồng Y Kasper đã đề cập đến số liệu thống kê được công bố vào tháng trước cho thấy một số lượng kỷ lục người Công Giáo bỏ đạo ở Đức vào năm 2019.
Source:Catholic News Agency
4. Đức Cha Athanasius Schneider nhận định: Phân biệt “sống chung dân sự” và “kết hiệp dân sự” chỉ là trò chẻ dọc sợi tóc
Đức Cha Athanasius Schneider, năm nay 59 tuổi, là Giám Mục Phụ Tá của giáo phận Astana, Kazhakhstan. Dưới đây là ý kiến của ngài liên quan đến vụ “moviegate” đang gây nhiều hoang mang cho người Công Giáo.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong bộ phim tài liệu “Francesco” được công chiếu vào ngày 21 tháng 10 trong khuôn khổ Liên hoan phim Rôma, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã sử dụng cụm từ “convivencia civil” – “sống chung dân sự” thay vì “union civil” - “kết hiệp dân sự”, nhưng dẫu sao thì ngài cũng yêu cầu có một luật dân sự về việc chung sống giữa những người đồng tính luyến ái, để họ được bảo đảm về mặt pháp lý. Tuy nhiên, cả hai cụm từ “convivencia civil” và “union civil” về cơ bản có cùng một ý nghĩa, như nó đã từng được thể hiện trong luật pháp Á Căn Đình. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2002, một luật có tên là “Luật Chung sống Đồng tính”, tiếng Tây Ban Nha là “Ley de Convivencia Homosexual” số 3376 đã được phê duyệt ở Tỉnh Río Negro ở Á Căn Đình. Điều 1 của luật này quy định rằng “Các cặp đồng giới có thể tuyên thệ xác nhận việc chung sống (convivencia) của họ trước cơ quan có thẩm quyền”.
Các thuật ngữ pháp lý có thể khác nhau ở một số quốc gia, nhưng tất cả đều có nghĩa giống nhau về cơ bản, cụ thể là sự chung sống của một cặp đồng tính, nghĩa là một cuộc sống chung ổn định ngoài hôn nhân được nhà nước công nhận, như trong trường hợp sống chung của một cặp dị tính. Những thuật ngữ pháp lý tiêu biểu là: “same-sex unions”, “union civil”, “convivencia homosexual”, “convivencia civil”, “registered partnership”, “Eingetragene Partnerschaften” và những từ khác nữa.
Sự ủng hộ các hình thức pháp lý về một cuộc sống chung ổn định của hai người đồng tính, đồng thời khẳng định rằng các hành vi đồng tính là trái đạo đức và rằng hai người đồng tính được công nhận trong hình thức hợp pháp đó sẽ sống trong tình trạng kiêng khem tình dục, thể hiện một mâu thuẫn trên thực tế. Bất chấp sự khẳng định về mặt lý thuyết sự vô luân của các hành vi đồng tính luyến ái, một sự ủng hộ như vậy trên thực tế đã trở thành một phần của trào lưu tuyên truyền ý thức hệ và pháp lý nói chung nhằm hợp pháp hóa và thừa nhận lối sống đồng tính và các hành vi tình dục đồng giới là tốt lành. Hơn nữa, hoàn toàn ngây thơ và tách rời với thực tế khi cho rằng các hình thức chung sống dân sự ổn định của hai người đồng tính sẽ giúp họ tiết chế tình dục. Giả định như thế thì có khác gì cho rằng cần có một điều khoản trong quy chế pháp lý về chung sống đồng giới quy định đại loại như thế này: “Hai bên chung sống dân sự phải tiết chế tình dục”. Đúng là một trò chế giễu bông đùa. Không ai có đầu óc bình thường lại đi tin rằng hai người đồng tính đã đăng ký chung sống ổn định sẽ sống trong tình trạng tiết dục, cũng như không ai có thể tin rằng một cặp dị tính đã kết hôn chung sống ổn định lại đang sống trong tình trạng kiêng khem tình dục.
Mọi người có suy nghĩ bình thường đều hiểu cách diễn đạt mà Đức Giáo Hoàng sử dụng ở đây như một hình thức chung sống được nhà nước công nhận hợp pháp, như một cuộc sống chung ổn định (“Convivencia”) của một cặp đồng tính luyến ái, và do đó, là một sự thừa nhận hợp pháp lối sống đồng tính.
Cách chơi chữ với “sống chung dân sự”- tiếng Tây Ban Nha là “convivencia civil” - và “kết hiệp dân sự” - tiếng Tây Ban Nha là “union civil” - trong trường hợp này chỉ là ngụy biện, chẻ dọc sợi tóc làm đôi và lừa bịp. Nó gợi nhớ đến câu chuyện cổ tích về bộ quần áo mới của hoàng đế. Cách chơi chữ này cuối cùng không trung thực về mặt trí tuệ và không thuyết phục được bất kỳ ai.
Bất kỳ loại hình thức chung sống ổn định nào đã được công nhận hợp pháp của hai người đồng tính, dù bạn gọi nó là cái gì đi chăng nữa, đều là vô luân vì nó là một vụ tai tiếng công khai, một sự tuyên truyền cho lối sống đồng tính, một mối nguy hiểm thường xuyên và ngay lập tức gây ra tội lỗi chết người đối với hai người liên quan. Sự ủng hộ của một hình thức pháp lý như vậy là vô trách nhiệm về mặt đạo đức, gây nhầm lẫn, gây ra tai tiếng và gây ra hậu quả chết người. Yêu cầu bảo đảm cho một cặp đồng tính một số quyền dân sự như quyền thừa kế, thăm bệnh tại bệnh viện và các trường hợp tương tự, rõ ràng chỉ là một cái cớ. Trên thực tế, luật dân sự ở các nước dân chủ quy định đầy đủ cho mỗi công dân quyền lợi hợp pháp trong các vấn đề như thừa kế, chăm sóc pháp lý, v.v. mà không cần tạo ra một hình thức pháp lý nào về việc chung sống ổn định của hai người đồng tính. Nếu những người đồng tính luyến ái thành thực muốn sống trong tình dục hạn chế và thực hành đức khiết tịnh, họ sẽ không bao giờ đòi hỏi một hình thức chung sống ổn định hợp pháp, vì họ biết rằng sự gần gũi lẫn nhau như vậy sẽ khiến họ ngay lập tức có nguy cơ phạm tội trọng và thậm chí là có thói quen tội lỗi gian dâm. Nếu những người đồng tính luyến ái thành thật muốn sống trong tình trạng tiết chế tình dục, họ sẽ không tham gia vào bất kỳ hình thức chung sống dân sự nào, để tránh tình trạng nguy hơn là ngầm ủng hộ việc truyền bá ý thức hệ đồng tính, cũng như biện minh và hợp pháp hóa lối sống đồng tính luyến ái. Những người đồng tính thực lòng mong muốn được sống trong tình trạng tiết chế tình dục cũng sẽ biết rằng việc chung sống được pháp luật công nhận của họ sẽ gây ra tai tiếng.
Trong một thời đại mang tính toàn cầu, với đầy những trò tuyên truyền mạnh mẽ và lừa đảo nhằm hợp pháp hóa hành vi đồng tính luyến ái và tôn vinh các hành vi đồng tính là tốt về mặt đạo đức, thì những lời khẳng định của các giáo sĩ ủng hộ bất kỳ hình thức chung sống đồng tính nào được pháp luật công nhận, bất kể là với thuật ngữ nào (kết hiệp, chung sống, sống chung, quan hệ đối tác, v.v.) trên thực tế sẽ củng cố cho tuyên truyền này. Tiếng nói của Giáo hội nên làm điều ngược lại và phải can đảm chống lại bằng lời nói và cử chỉ đầy trong sáng, bình tĩnh và đàng hoàng rằng trò tuyên truyền ý thức hệ này nô dịch phẩm giá con người trong một lối sống trái với thánh ý Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc phẩm giá con người.
Sự trung thực về mặt trí tuệ và tình yêu chân thành đối với sự thật là điều cần thiết và đáng giá để tất cả các đại diện của Giáo hội luôn là nhân chứng đáng tin cậy của Lề Luật Thiên Chúa được viết ra trong bản tính và lý trí con người, và được mạc khải rõ ràng trong Lời Đức Chúa Trời ghi khắc trong Thánh Kinh và được Giáo hội dạy dỗ không thay đổi trong suốt hai nghìn năm qua.
Ngày 25 tháng 10 năm 2020
+ Giám Mục Athanasius Schneider
Source:Life Site NewsBishop Schneider: Deception via hairsplitting – civil ‘union’ vs ‘cohabitation’
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong bộ phim tài liệu “Francesco” được công chiếu vào ngày 21 tháng 10 trong khuôn khổ Liên hoan phim Rôma, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã sử dụng cụm từ “convivencia civil” – “sống chung dân sự” thay vì “union civil” - “kết hiệp dân sự”, nhưng dẫu sao thì ngài cũng yêu cầu có một luật dân sự về việc chung sống giữa những người đồng tính luyến ái, để họ được bảo đảm về mặt pháp lý. Tuy nhiên, cả hai cụm từ “convivencia civil” và “union civil” về cơ bản có cùng một ý nghĩa, như nó đã từng được thể hiện trong luật pháp Á Căn Đình. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2002, một luật có tên là “Luật Chung sống Đồng tính”, tiếng Tây Ban Nha là “Ley de Convivencia Homosexual” số 3376 đã được phê duyệt ở Tỉnh Río Negro ở Á Căn Đình. Điều 1 của luật này quy định rằng “Các cặp đồng giới có thể tuyên thệ xác nhận việc chung sống (convivencia) của họ trước cơ quan có thẩm quyền”.
Các thuật ngữ pháp lý có thể khác nhau ở một số quốc gia, nhưng tất cả đều có nghĩa giống nhau về cơ bản, cụ thể là sự chung sống của một cặp đồng tính, nghĩa là một cuộc sống chung ổn định ngoài hôn nhân được nhà nước công nhận, như trong trường hợp sống chung của một cặp dị tính. Những thuật ngữ pháp lý tiêu biểu là: “same-sex unions”, “union civil”, “convivencia homosexual”, “convivencia civil”, “registered partnership”, “Eingetragene Partnerschaften” và những từ khác nữa.
Sự ủng hộ các hình thức pháp lý về một cuộc sống chung ổn định của hai người đồng tính, đồng thời khẳng định rằng các hành vi đồng tính là trái đạo đức và rằng hai người đồng tính được công nhận trong hình thức hợp pháp đó sẽ sống trong tình trạng kiêng khem tình dục, thể hiện một mâu thuẫn trên thực tế. Bất chấp sự khẳng định về mặt lý thuyết sự vô luân của các hành vi đồng tính luyến ái, một sự ủng hộ như vậy trên thực tế đã trở thành một phần của trào lưu tuyên truyền ý thức hệ và pháp lý nói chung nhằm hợp pháp hóa và thừa nhận lối sống đồng tính và các hành vi tình dục đồng giới là tốt lành. Hơn nữa, hoàn toàn ngây thơ và tách rời với thực tế khi cho rằng các hình thức chung sống dân sự ổn định của hai người đồng tính sẽ giúp họ tiết chế tình dục. Giả định như thế thì có khác gì cho rằng cần có một điều khoản trong quy chế pháp lý về chung sống đồng giới quy định đại loại như thế này: “Hai bên chung sống dân sự phải tiết chế tình dục”. Đúng là một trò chế giễu bông đùa. Không ai có đầu óc bình thường lại đi tin rằng hai người đồng tính đã đăng ký chung sống ổn định sẽ sống trong tình trạng tiết dục, cũng như không ai có thể tin rằng một cặp dị tính đã kết hôn chung sống ổn định lại đang sống trong tình trạng kiêng khem tình dục.
Mọi người có suy nghĩ bình thường đều hiểu cách diễn đạt mà Đức Giáo Hoàng sử dụng ở đây như một hình thức chung sống được nhà nước công nhận hợp pháp, như một cuộc sống chung ổn định (“Convivencia”) của một cặp đồng tính luyến ái, và do đó, là một sự thừa nhận hợp pháp lối sống đồng tính.
Cách chơi chữ với “sống chung dân sự”- tiếng Tây Ban Nha là “convivencia civil” - và “kết hiệp dân sự” - tiếng Tây Ban Nha là “union civil” - trong trường hợp này chỉ là ngụy biện, chẻ dọc sợi tóc làm đôi và lừa bịp. Nó gợi nhớ đến câu chuyện cổ tích về bộ quần áo mới của hoàng đế. Cách chơi chữ này cuối cùng không trung thực về mặt trí tuệ và không thuyết phục được bất kỳ ai.
Bất kỳ loại hình thức chung sống ổn định nào đã được công nhận hợp pháp của hai người đồng tính, dù bạn gọi nó là cái gì đi chăng nữa, đều là vô luân vì nó là một vụ tai tiếng công khai, một sự tuyên truyền cho lối sống đồng tính, một mối nguy hiểm thường xuyên và ngay lập tức gây ra tội lỗi chết người đối với hai người liên quan. Sự ủng hộ của một hình thức pháp lý như vậy là vô trách nhiệm về mặt đạo đức, gây nhầm lẫn, gây ra tai tiếng và gây ra hậu quả chết người. Yêu cầu bảo đảm cho một cặp đồng tính một số quyền dân sự như quyền thừa kế, thăm bệnh tại bệnh viện và các trường hợp tương tự, rõ ràng chỉ là một cái cớ. Trên thực tế, luật dân sự ở các nước dân chủ quy định đầy đủ cho mỗi công dân quyền lợi hợp pháp trong các vấn đề như thừa kế, chăm sóc pháp lý, v.v. mà không cần tạo ra một hình thức pháp lý nào về việc chung sống ổn định của hai người đồng tính. Nếu những người đồng tính luyến ái thành thực muốn sống trong tình dục hạn chế và thực hành đức khiết tịnh, họ sẽ không bao giờ đòi hỏi một hình thức chung sống ổn định hợp pháp, vì họ biết rằng sự gần gũi lẫn nhau như vậy sẽ khiến họ ngay lập tức có nguy cơ phạm tội trọng và thậm chí là có thói quen tội lỗi gian dâm. Nếu những người đồng tính luyến ái thành thật muốn sống trong tình trạng tiết chế tình dục, họ sẽ không tham gia vào bất kỳ hình thức chung sống dân sự nào, để tránh tình trạng nguy hơn là ngầm ủng hộ việc truyền bá ý thức hệ đồng tính, cũng như biện minh và hợp pháp hóa lối sống đồng tính luyến ái. Những người đồng tính thực lòng mong muốn được sống trong tình trạng tiết chế tình dục cũng sẽ biết rằng việc chung sống được pháp luật công nhận của họ sẽ gây ra tai tiếng.
Trong một thời đại mang tính toàn cầu, với đầy những trò tuyên truyền mạnh mẽ và lừa đảo nhằm hợp pháp hóa hành vi đồng tính luyến ái và tôn vinh các hành vi đồng tính là tốt về mặt đạo đức, thì những lời khẳng định của các giáo sĩ ủng hộ bất kỳ hình thức chung sống đồng tính nào được pháp luật công nhận, bất kể là với thuật ngữ nào (kết hiệp, chung sống, sống chung, quan hệ đối tác, v.v.) trên thực tế sẽ củng cố cho tuyên truyền này. Tiếng nói của Giáo hội nên làm điều ngược lại và phải can đảm chống lại bằng lời nói và cử chỉ đầy trong sáng, bình tĩnh và đàng hoàng rằng trò tuyên truyền ý thức hệ này nô dịch phẩm giá con người trong một lối sống trái với thánh ý Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc phẩm giá con người.
Sự trung thực về mặt trí tuệ và tình yêu chân thành đối với sự thật là điều cần thiết và đáng giá để tất cả các đại diện của Giáo hội luôn là nhân chứng đáng tin cậy của Lề Luật Thiên Chúa được viết ra trong bản tính và lý trí con người, và được mạc khải rõ ràng trong Lời Đức Chúa Trời ghi khắc trong Thánh Kinh và được Giáo hội dạy dỗ không thay đổi trong suốt hai nghìn năm qua.
Ngày 25 tháng 10 năm 2020
+ Giám Mục Athanasius Schneider
Source:Life Site News
5. Cách tự vệ khỏi các cuộc tấn công của ma quỷ
Trong số ra ngày 27 tháng 10, tờ Aleteia, nghĩa là Chân lý tỏ tường, tác giả Philip Koloski đưa ra lời khuyên sau:
Nếu bạn đang cảm thấy bị bao vây bởi các thế lực tâm linh ác độc, thì đây là một số cách để tự vệ.
Trong thư gửi tín hữu thành Ê-phê-sô, Thánh Phao-lô viết: “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những thế lực thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ê-phê-sô 6: 12). Thánh nhân nhấn mạnh rằng chúng ta thường xuyên bị tấn công bởi các hồn phách ma quỷ và chúng ta cần phải sẵn sàng để chống lại chúng.
Mặc dù cuộc chiến tâm linh này có vẻ đáng sợ đối với một số người, nhưng điều đáng mừng là sức mạnh của chúng ta không đến từ chính chúng ta, mà đến từ Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có một mình Chúa mới có thể bảo đảm cho chúng ta được chiến thắng, nếu chỉ cậy nhờ vào sức riêng của chính chúng ta, chúng ta chắc chắn sẽ ngã gục.
Các nhà trừ tà đề xuất một số cách để bảo vệ bạn khỏi sự tấn công của ma quỷ. Một trong những cách phổ biến nhất đòi hỏi nỗ lực thường xuyên lãnh nhận các bí tích giải tội và bí tích Thánh Thể.
Cách phổ biến nhất mà một con quỷ có thể làm hại chúng ta là thông qua trạng thái thường xuyên phạm tội trọng. Càng xa cách Thiên Chúa vì tội lỗi, chúng ta càng dễ bị ma quỷ tấn công. Ngay cả những tội nhẹ cũng có thể làm mất đi mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và có thể khiến chúng ta phải đối mặt với những bước tiến của kẻ thù.
Vì vậy, xưng thú tội lỗi là cách chính yếu để chúng ta có thể chấm dứt cuộc đời tội lỗi của mình và bắt đầu trên một con đường mới. Không phải ngẫu nhiên mà ma quỷ không ngừng cố gắng hù dọa Thánh Gioan Vianney để ngài khỏi phải nghe lời xưng tội của những hối nhân cứng lòng. Thánh Vianney biết một người mắc những tội lỗi nặng nề sắp đến làng của ngài nếu đêm hôm trước ma quỷ không ngừng quấy rối và hù dọa ngài. Thói quen xưng tội có sức mạnh và ân sủng đến nỗi ma quỷ phải chạy trốn khỏi một người thường lui tới tòa giải tội.
Cùng với việc xưng tội, bí tích Thánh Thể còn có sức mạnh hơn trong việc xua đuổi ảnh hưởng của ma quỷ. Điều này có ý nghĩa hoàn hảo vì Chúa Giêsu Thánh Thể là sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu Kitô, và ma quỷ hoàn toàn không có quyền lực gì trước mặt Thiên Chúa.
Một cách khác để được bảo vệ khỏi sự tấn công của ma quỷ là làm cho việc cầu nguyện trở thành một thói quen và gắn bó với đời sống cầu nguyện một cách bền đỗ. Điều này đặt một người vào tình trạng nhận được ân sủng hàng ngày và có một mối quan hệ gắn bó với Chúa. Một người thường xuyên trò chuyện với Chúa không bao giờ phải sợ ma quỷ.
Satan và những tay sai của hắn có vẻ đáng sợ đối với chúng ta, và bóng tối trên thế giới thường khiến chúng ta lo lắng. Tuy nhiên, nếu chúng ta gắn bó với Chúa, chúng ta không có gì phải sợ hãi.
Source:Aleteia