Thánh Lễ An Táng Cha Gabriel Lejeune Lê Hòa Lạc (Mep)
Hong Kong: Thứ Hai, ngày 12/11/2018 thánh lễ an táng cha Gabriel Lejeune Lê Hòa Lạc (MEP) tại giáo đường St.Margaret-HK. ĐGM Michael Yeung Ming Chueng chủ tế. Đồng tế có ĐHY Trần Nhật Quân và ĐHY Tong Hon, cùng hơn 30 linh mục nhiều quốc tịch đang phục vụ tại HK. Giáo dân đến dự lễ tiễn biệt Ngài gồm CĐ Việt Nam, CĐ Hong Kong, CĐ ngoại quốc ở HK và cả nhóm đến từ Trung Hoa.
Cha Gabriel Lejeune Lê Hòa Lạc sinh ngày 26-7-1926 tại miền Đông nước Pháp. Từ niên thiếu, Ngài thông minh lanh lợi hơn người, học hành sáng dạ, 13 tuổi đã gia nhập Hội thừa sai Paris. Ngài có gương mặt tuấn tú rạng ngời, thần thái mang vẻ kiêu hãnh bản năng của một người gốc Pháp, trí tuệ uyên bác. Trước khi thụ phong linh mục, được hỏi về ước nguyện muốn đi đâu truyền giáo, Ngài nói: “Đâu cũng được, ngoại trừ Việt Nam, vì VN có chiến tranh”
Nhưng Thánh ý Chúa lại tỏ bày: sau khi chịu chức ngày 28-5-1950, tân linh mục trẻ ngay lập tức nhận bài sai sang Việt Nam truyền giáo, điểm đến đầu tiên chính là Hưng Hóa, Sơn Tây, miền bắc Việt.
Xem Hình
Ngài nhanh chóng hội nhập phong tục tập quán VN, học thông viết thạo tiếng Việt, gần gũi giáo dân, hoạt động mục vụ và coi xứ trong 6 năm.
Năm 1956, Ngài bị nhà cầm quyền bắt giam 6 tháng rồi trục xuất khỏi Sơn Tây. Trở về Pháp, bề trên lại hỏi Ngài muốn đi đâu, câu trả lời lần này của Ngài là: “Đâu cũng được, nhưng phải là Việt Nam”. Thế là Ngài được đưa về miền Nam VN tiếp tục sứ vụ của mình.
Từ năm 1957 – 1968 Ngài làm cha phó tại giáo xứ thánh Franxico Xavie (nhà thờ cha Tam) Sài Gòn.
Từ 1968 Ngài làm cha xứ tại đây, Ngài cũng là linh mục người Pháp cuối cùng coi xứ này.
Đến năm 1976, vị thừa sai mẫn cán chính thức bị xua đuổi khỏi VN sau 26 năm cống hiến tài đức và nhiệt huyết tuổi xuân trên đất Việt.
Trong thời gian làm việc mục vụ với người Hoa ở Sài Gòn, Ngài đã nhanh chóng học biết tiếng Quảng Đông. Do vậy, khi phải rời VN, Ngài được đề nghị qua Hong Kong phục vụ.
Đến HK Ngài tiếp tục trau dồi ngôn ngữ bản địa. Từ 1977-1995, Ngài coi xứ Aberdeen, Kam Tin, Chai Wan.
Từ 1995, Ngài làm cha xứ Nhà thờ Chúa Cứu thế Tuen Mun trong 18 năm.
Năm 2013, cha được phép nghỉ hưu tại nhà an lão Aberdeen. Dù không muốn, nhưng Ngài cho rằng vào viện dưỡng lão là một sự tuân phục, vâng lời.
Ở tuổi 87, Ngài vẫn vô cùng minh mẫn, tuy đôi chân không còn đủ sức mang nổi tấm thân. Ngài thường phải dùng gậy đỡ hoặc xe lăn hỗ trợ khi đi lại một mình. Mỗi tháng một lần, Ngài tới dâng lễ tiếng Việt cho CĐCGVN tại HK. Ngài vẫn sử dụng cùng lúc nhiều ngôn ngữ rất mạch lạc rõ ràng, thông thạo máy tính và gõ chữ Hoa rất giỏi. Ngài đã dùng tam ngữ Việt – Pháp - Hoa để xuất bản 2 tập HỒI KÝ về những năm tháng ở VN.
Ngài thích thuốc lá 555, bia 33, bánh chưng Tết và cà phê Việt. Ở viện dưỡng lão, người ta “ưu ái” dành riêng một bộ bàn ghế ngoài hành lang cho Ngài hút thuốc. Mỗi lần đến thăm, chúng tôi thường quây quần quanh cha, nhìn khói thuốc bay và nghe Ngài kể chuyện “ngày xưa…”
Những câu chuyện của Ngài thường đưa ta trở về ký ức xa xôi thời phong kiến ở miền Bắc. Ngài rất tự hào với vốn tiếng Việt chuẩn và những kỷ niệm về từng giai đoạn sống trên dải đất hình chữ S. Dấu ấn sâu đậm nhất cuộc đời Ngài là dâng thánh lễ đầu tiên tại Sơn Tây vào ngày lễ các Thánh 1-11-1950.
Với gần 20 năm sinh sống và chứng kiến cuộc chiến tranh tại miền Nam, Ngài yêu thương dân Việt vô bờ bến, Ngài luôn mang theo trong trái tim một “Lời nguyện cho quê hương”, xin Đức Mẹ đoái thương nước VN.
Một trong những câu chuyện đáng nhớ của Ngài chính là việc đã ban bí tích hòa giải cuối cùng cho cố tổng thống Ngô Đình Diệm trong ngày định mệnh 2-11-1963, khi ông Diệm vào xưng tội ở nhà thờ Cha Tam, sau đó rời đi rồi bị mưu sát.
Tháng 10 năm 2017, Ngài ngã bệnh phải vào viện điều trị, sức khỏe suy sụp. Khi cảm thấy không còn được cống hiến ở trần gian, Ngài thường bày tỏ niềm ước mong “về nhà Cha”. Chúng tôi đùa: “Trên trời chưa có chỗ cho cha đâu. Chúa quên cha rồi”.
Vài tháng nay, Ngài phục hồi một cách diệu kỳ, có thể dâng lễ trong viện dưỡng lão, thường xuyên gặp gỡ các linh mục MEP, hàng ngày tiếp chuyện người đến thăm. Ngày lễ các Thánh 1-11-2018, Ngài vẫn xuống phố nhẩm trà, ăn trưa với giáo dân. Chừng 1h đêm rạng sáng ngày 2-11, Ngài lặng lẽ chìm sâu trong giấc ngủ. Ngài ra đi vào lúc chẳng ai ngờ, hưởng thọ 92 tuổi với 68 năm làm tôi trung của Chúa.
Hồi mới vào viện dưỡng lão năm 2013, Ngài từng khoe: “Tôi chuyển nhà cùng ngày với Đức Giáo Hoàng đấy.” Giờ đây, đứng bên linh cữu cúi chào cha lần cuối, nhìn khuôn mặt ngủ yên bình thản của Ngài, bất giác tôi mường tưởng như Ngài cũng đang khoe: “qua ngày lễ các Thánh, tôi đi cùng ngày với cố tổng thống Ngô Đình Diệm đấy”, nghe bâng khuâng như là một sự chọn lựa có chủ ý vậy.
Hôm nay, thân xác Ngài đã trở về đất Mẹ, linh hồn Ngài đã diện kiến Chúa Cha, trần gian từ nay sẽ vắng Ngài, chỉ còn gương trung kiên và con tim Ngài là vĩnh viễn để lại cho Việt Nam.
Nguyện xin Chúa đón Ngài vào hưởng vinh phúc nước trời như lòng Ngài mong ước. Amen.
Hong Kong: Thứ Hai, ngày 12/11/2018 thánh lễ an táng cha Gabriel Lejeune Lê Hòa Lạc (MEP) tại giáo đường St.Margaret-HK. ĐGM Michael Yeung Ming Chueng chủ tế. Đồng tế có ĐHY Trần Nhật Quân và ĐHY Tong Hon, cùng hơn 30 linh mục nhiều quốc tịch đang phục vụ tại HK. Giáo dân đến dự lễ tiễn biệt Ngài gồm CĐ Việt Nam, CĐ Hong Kong, CĐ ngoại quốc ở HK và cả nhóm đến từ Trung Hoa.
Nhưng Thánh ý Chúa lại tỏ bày: sau khi chịu chức ngày 28-5-1950, tân linh mục trẻ ngay lập tức nhận bài sai sang Việt Nam truyền giáo, điểm đến đầu tiên chính là Hưng Hóa, Sơn Tây, miền bắc Việt.
Xem Hình
Ngài nhanh chóng hội nhập phong tục tập quán VN, học thông viết thạo tiếng Việt, gần gũi giáo dân, hoạt động mục vụ và coi xứ trong 6 năm.
Năm 1956, Ngài bị nhà cầm quyền bắt giam 6 tháng rồi trục xuất khỏi Sơn Tây. Trở về Pháp, bề trên lại hỏi Ngài muốn đi đâu, câu trả lời lần này của Ngài là: “Đâu cũng được, nhưng phải là Việt Nam”. Thế là Ngài được đưa về miền Nam VN tiếp tục sứ vụ của mình.
Từ năm 1957 – 1968 Ngài làm cha phó tại giáo xứ thánh Franxico Xavie (nhà thờ cha Tam) Sài Gòn.
Từ 1968 Ngài làm cha xứ tại đây, Ngài cũng là linh mục người Pháp cuối cùng coi xứ này.
Đến năm 1976, vị thừa sai mẫn cán chính thức bị xua đuổi khỏi VN sau 26 năm cống hiến tài đức và nhiệt huyết tuổi xuân trên đất Việt.
Trong thời gian làm việc mục vụ với người Hoa ở Sài Gòn, Ngài đã nhanh chóng học biết tiếng Quảng Đông. Do vậy, khi phải rời VN, Ngài được đề nghị qua Hong Kong phục vụ.
Đến HK Ngài tiếp tục trau dồi ngôn ngữ bản địa. Từ 1977-1995, Ngài coi xứ Aberdeen, Kam Tin, Chai Wan.
Từ 1995, Ngài làm cha xứ Nhà thờ Chúa Cứu thế Tuen Mun trong 18 năm.
Năm 2013, cha được phép nghỉ hưu tại nhà an lão Aberdeen. Dù không muốn, nhưng Ngài cho rằng vào viện dưỡng lão là một sự tuân phục, vâng lời.
Ở tuổi 87, Ngài vẫn vô cùng minh mẫn, tuy đôi chân không còn đủ sức mang nổi tấm thân. Ngài thường phải dùng gậy đỡ hoặc xe lăn hỗ trợ khi đi lại một mình. Mỗi tháng một lần, Ngài tới dâng lễ tiếng Việt cho CĐCGVN tại HK. Ngài vẫn sử dụng cùng lúc nhiều ngôn ngữ rất mạch lạc rõ ràng, thông thạo máy tính và gõ chữ Hoa rất giỏi. Ngài đã dùng tam ngữ Việt – Pháp - Hoa để xuất bản 2 tập HỒI KÝ về những năm tháng ở VN.
Ngài thích thuốc lá 555, bia 33, bánh chưng Tết và cà phê Việt. Ở viện dưỡng lão, người ta “ưu ái” dành riêng một bộ bàn ghế ngoài hành lang cho Ngài hút thuốc. Mỗi lần đến thăm, chúng tôi thường quây quần quanh cha, nhìn khói thuốc bay và nghe Ngài kể chuyện “ngày xưa…”
Những câu chuyện của Ngài thường đưa ta trở về ký ức xa xôi thời phong kiến ở miền Bắc. Ngài rất tự hào với vốn tiếng Việt chuẩn và những kỷ niệm về từng giai đoạn sống trên dải đất hình chữ S. Dấu ấn sâu đậm nhất cuộc đời Ngài là dâng thánh lễ đầu tiên tại Sơn Tây vào ngày lễ các Thánh 1-11-1950.
Với gần 20 năm sinh sống và chứng kiến cuộc chiến tranh tại miền Nam, Ngài yêu thương dân Việt vô bờ bến, Ngài luôn mang theo trong trái tim một “Lời nguyện cho quê hương”, xin Đức Mẹ đoái thương nước VN.
Một trong những câu chuyện đáng nhớ của Ngài chính là việc đã ban bí tích hòa giải cuối cùng cho cố tổng thống Ngô Đình Diệm trong ngày định mệnh 2-11-1963, khi ông Diệm vào xưng tội ở nhà thờ Cha Tam, sau đó rời đi rồi bị mưu sát.
Tháng 10 năm 2017, Ngài ngã bệnh phải vào viện điều trị, sức khỏe suy sụp. Khi cảm thấy không còn được cống hiến ở trần gian, Ngài thường bày tỏ niềm ước mong “về nhà Cha”. Chúng tôi đùa: “Trên trời chưa có chỗ cho cha đâu. Chúa quên cha rồi”.
Vài tháng nay, Ngài phục hồi một cách diệu kỳ, có thể dâng lễ trong viện dưỡng lão, thường xuyên gặp gỡ các linh mục MEP, hàng ngày tiếp chuyện người đến thăm. Ngày lễ các Thánh 1-11-2018, Ngài vẫn xuống phố nhẩm trà, ăn trưa với giáo dân. Chừng 1h đêm rạng sáng ngày 2-11, Ngài lặng lẽ chìm sâu trong giấc ngủ. Ngài ra đi vào lúc chẳng ai ngờ, hưởng thọ 92 tuổi với 68 năm làm tôi trung của Chúa.
Hồi mới vào viện dưỡng lão năm 2013, Ngài từng khoe: “Tôi chuyển nhà cùng ngày với Đức Giáo Hoàng đấy.” Giờ đây, đứng bên linh cữu cúi chào cha lần cuối, nhìn khuôn mặt ngủ yên bình thản của Ngài, bất giác tôi mường tưởng như Ngài cũng đang khoe: “qua ngày lễ các Thánh, tôi đi cùng ngày với cố tổng thống Ngô Đình Diệm đấy”, nghe bâng khuâng như là một sự chọn lựa có chủ ý vậy.
Hôm nay, thân xác Ngài đã trở về đất Mẹ, linh hồn Ngài đã diện kiến Chúa Cha, trần gian từ nay sẽ vắng Ngài, chỉ còn gương trung kiên và con tim Ngài là vĩnh viễn để lại cho Việt Nam.
Nguyện xin Chúa đón Ngài vào hưởng vinh phúc nước trời như lòng Ngài mong ước. Amen.