Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Trong thánh lễ dầu các linh mục lặp lại những lời hứa các ngài đã tuyên thệ khi thụ phong linh mục. Sau đó, các loại dầu được làm phép để dùng trong suốt năm khi thực hiện các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức, Phong Chức Linh Mục, và Bí tích Xức Dầu.
BÀI ĐỌC I: Is 61, 1-3a. 6a. 8b-9
“Chúa đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, và cho họ dầu hoan lạc”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương; báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta; an ủi mọi kẻ ưu phiền, đem cho các kẻ buồn phiền ở Sion triều thiên thay tro bụi, dầu vui mừng thay tang chế, áo hân hoan thay tâm hồn sầu muộn.
Còn các ngươi, các ngươi sẽ được gọi là tư tế của Chúa, là thừa tác viên của Thiên Chúa chúng ta. Ta sẽ trung thành thưởng công cho chúng, sẽ thiết lập với chúng một giao ước vĩnh cửu. Dòng dõi chúng sẽ được nổi danh giữa các dân tộc, miêu duệ chúng sẽ được biết đến giữa chư dân. Tất cả những ai thấy họ, đều nhận biết họ là dòng dõi được Chúa chúc phúc.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 21-22. 25 và 27
Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
1) Ta đã gặp Đavit, tôi tớ của Ta, Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh Người. – Đáp.
2) Thành tín và ân sủng của Ta, hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và là Đá Tảng cứu độ của con”. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Kh 1, 5-8
“Người đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của người”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen.
Kià, Người đến trong đám mây, mọi con mắt sẽ nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen.
Chúa là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Đấng Toàn Năng phán: “Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh”.
Đó là lời Chúa.
BÀI TIN MỪNG: Lc 4, 16-21
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Anh em linh mục Giáo phận Rôma và các giáo phận khác trên khắp thế giới thân mến!
Khi đọc các bản văn phụng vụ ngày nay, tôi luôn liên tưởng đến một đoạn văn trong sách Đệ Nhị Luật: “Có dân tộc vĩ đại nào khác được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người hay không?”(4: 7). Tôi muốn đề cập đến sự gần gũi của Thiên Chúa ... sự gần gũi tông đồ của chúng ta.
Trong bài đọc trích sách tiên tri Isaia, những Người Tôi Tớ chúng ta, “được xức dầu và sai đi” giữa dân của mình, gần gũi với người nghèo, người bệnh, các tù nhân ... và Thánh Thần Chúa “ngự trên Người”, củng cố và đồng hành với Người trên hành trình của Người.
Trong Thánh Vịnh 88, Thiên Chúa gần gũi chúng ta biết chừng nào, Ngài là Đấng đã dẫn dắt Vua David tay trong tay khi Nhà Vua còn trẻ, và củng cố Người khi già yếu, vì lòng trung tín. Một sự gần gũi được duy trì xuyên suốt thời gian được gọi là lòng trung tín.
Sách Khải Huyền mang chúng ta đến gần với Chúa “Đấng” đích thân ngự đến - Erchómenos. Những lời này: “Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người.” làm cho chúng ta nhận ra rằng những vết thương của Chúa Phục Sinh luôn luôn nhìn thấy được. Chúa luôn luôn đến với chúng ta, nếu chúng ta sẵn lòng đến gần, như “hàng xóm”, với thân xác của tất cả những người đau khổ, đặc biệt là trẻ em.
Tại trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhìn thấy Chúa qua những đôi mắt của dân riêng Người, là những đôi mắt luôn “dán chặt vào Người” (Lc 4:20). Chúa Giêsu đứng dậy để đọc sách Thánh trong hội đường Do thái ở Nagiarét. Ngài được trao cho cuộn da chép sách tiên tri Isaia. Ngài mở cuộn da ra và tìm đến gần cuối, đoạn văn về Người Tôi Tớ. Người đọc to: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu và sai tôi ...” (Is 61: 1). Và Chúa Giêsu kết thúc bằng cách thách thức cử tọa nhận ra sự gần gũi trong những lời này: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).
Chúa Giêsu tìm thấy đoạn văn và đọc lên với sự thông thạo của một kinh sư. Ngài đã có thể trở thành một kinh sư hay một thầy thông luật, nhưng Chúa Giêsu muốn trở thành một nhà truyền giáo, một người rao giảng trên đường phố, “một người mang tin vui” đến cho dân Người, một nhà truyền giáo có đôi chân đẹp, như tiên tri Isaiah nói.
Đây là sự lựa chọn trọng đại của Thiên Chúa: Chúa đã chọn để được gần gũi với dân Người. Ba mươi năm sống cuộc sống ẩn dật! Chỉ sau đó Ngài mới bắt đầu rao giảng. Ở đây chúng ta thấy khoa sư phạm của Ngôi Lời Nhập thể, một phương pháp sư phạm hội nhập văn hoá, không chỉ trong các nền văn hoá nước ngoài mà còn trong các giáo xứ của chúng ta, trong nền văn hoá mới của những người trẻ ...
Sự gần gũi không chỉ đơn thuần là cái tên của một nhân đức cụ thể; đó là một thái độ gắn kết toàn thể cá nhân chúng ta, cách liên hệ của chúng ta, cách chúng ta quan tâm đến chính chúng ta và những người khác ... Khi người ta nói về một linh mục, “ngài gần gũi chúng ta”, họ thường muốn nói hai điều. Ý thứ nhất là “ngài luôn có mặt ở đó” (trái với việc không bao giờ thấy mặt mũi đâu: nếu xảy ra trường hợp như thế, họ luôn luôn bắt đầu cách thưa gởi như sau: “Thưa cha, con biết cha bận lắm ...”). Ý thứ hai là ngài luôn có một lời nào đó cho tất cả mọi người. Họ nói, “Ngài chuyện vãn với mọi người”, người lớn cũng như trẻ em, với người nghèo, và với cả những người không tin ... Những linh mục “gần gũi”, sẵn sàng, là những linh mục luôn có mặt khi người dân cần đến, những linh mục nói chuyện với mọi người ... các linh mục đường phố.
Một trong những người đã học được từ Chúa Giêsu cách làm thế nào để trở thành nhà truyền giáo đường phố là ông Philipphê. Trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc rằng ông đã truyền bá Phúc âm trong tất cả các thành phố và họ tràn đầy niềm vui (xem 8: 4.5-8). Ông Philipphê là một trong những người mà Chúa Thánh Thần có thể “tóm lấy” bất cứ lúc nào và sai ông đi loan báo Tin Mừng, di chuyển từ nơi này đến nơi khác, một người có thể làm phép rửa cho những người có đức tin tốt, như viên quan trong triều đình của Nữ hoàng Ethiopia, và thực hiện điều đó ngay bên vệ đường (xem Công-vụ 8: 5.36-40).
Sự gần gũi là rất quan trọng đối với một người rao giảng Phúc Âm vì đó là một thái độ chủ chốt trong Tin Mừng (Chúa đã sử dụng thái độ ấy để miêu tả Nước Thiên Chúa). Chúng ta có thể chắc chắn rằng sự gần gũi là chìa khóa của lòng thương xót, vì lòng thương xót sẽ không phải là lòng thương xót, trừ khi, như một người Samaritanô nhân lành, lòng thương xót ấy có thể rút ngắn được khoảng cách. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng chúng ta cần nhận ra rằng sự gần gũi cũng là chìa khóa của chân lý. Liệu những khoảng cách có thể được rút gọn không khi chúng ta đề cập đến chân lý? Vâng, chắc chắn là có thể. Sự thật là định nghĩa của các tình huống và các sự vật từ một khoảng cách nhất định, qua các lý luận trừu tượng và luận lý. Hơn thế nữa, chân lý cũng là sự trung tín (émeth). Nó khiến cho anh em gọi tên con người bằng danh xưng thật sự của họ, như Chúa đã gọi họ, trước khi phân loại họ hoặc định nghĩa các “tình huống của họ”.
Chúng ta phải cẩn thận đừng để rơi vào cám dỗ tạo ra các thần tượng về một số sự thật trừu tượng nhất định. Họ có thể là những thần tượng thoải mái, luôn ở trong tầm với; luôn mang đến một thứ uy tín và quyền lực nhất định và khó phân định nổi. Bởi vì cái “thần tượng chân lý” ấy bắt chước, khoác lên mình những lời của Tin Mừng, nhưng lại không để cho những lời đó chạm vào con tim. Tệ hơn nhiều, nó còn làm cho những người bình thường bị tách biệt khỏi sự gần gũi của lời nói và các bí tích của Chúa Giêsu.
Ở đây, chúng ta hãy quay về với Mẹ Maria, Mẹ của các linh mục. Chúng ta có thể gọi Mẹ là “Đức Bà của sự gần gũi”. “Là một bà mẹ thật sự, Mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ cuộc chiến đấu của chúng ta và luôn luôn bao quanh chúng ta với tình yêu của Thiên Chúa”, trong một cách thế mà không ai cảm thấy bị loại trừ (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, 286).
Mẹ của chúng ta không chỉ gần gũi khi Mẹ “vội vã” lên đường phục vụ, đó là một phương cách gần gũi, nhưng bên cạnh đó, Mẹ còn gần gũi bằng cách diễn đạt bản thân mình (thượng dẫn, 288). Vào đúng thời điểm trong tiệc cưới Cana, giọng Mẹ nói với các người phục vụ trong bữa tiệc, “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho bạn”, sẽ làm cho những lời này trở thành mô hình từ mẫu cho tất cả ngôn ngữ giáo hội. Nhưng để nói những lời như Mẹ nói, chúng ta không chỉ phải xin Mẹ ân sủng làm điều đó mà còn phải xin ơn để có thể hiện diện ở bất cứ nơi nào những điều quan trọng đang được “chế biến”: những điều quan trọng của mỗi trái tim, mỗi gia đình, mỗi nền văn hoá. Chỉ nhờ vào sự gần gũi này, chúng ta mới có thể nhận ra rằng rượu đã hết, và loại rượu tốt nhất mà Chúa muốn cung cấp là gì.
Tôi đề nghị anh em suy gẫm về ba lĩnh vực gần gũi của linh mục, nơi mà những lời “Hãy làm bất cứ điều gì Ngài truyền cho với bạn”, cần được lắng nghe - qua một ngàn cách khác nhau nhưng với cùng một giọng điệu từ mẫu – trong những con tim của tất cả những người mà chúng ta nói chuyện. Ba từ này là “đồng hành tinh thần”, “xưng tội” và “rao giảng”.
Gần gũi trong cuộc đối thoại linh đạo. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách phân tích cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người phụ nữ xứ Samaria. Trước tiên, Chúa dạy cô ấy phân định làm sao để thờ phượng, trong tinh thần và chân lý. Sau đó, Người nhẹ nhàng giúp cô thừa nhận tội lỗi của mình. Cuối cùng, Người lan truyền cho cô tinh thần truyền giáo của mình và đi cùng cô để truyền giáo cho cả làng của cô ấy. Chúa cho chúng ta một mô hình về đối thoại linh đạo; Người biết cách làm sao để đưa tội lỗi của người phụ nữ Samaritanô ra ánh sáng mà không tạo nên bóng đen trên kinh nguyện thờ lạy của cô và cũng không gieo nghi ngờ cho ơn gọi thừa sai của cô.
Sự gần gũi trong việc giải tội. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này bằng cách xem xét trình thuật về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Rõ ràng rằng trong trường hợp này sự gần gũi là tất cả mọi thứ. Chân lý của Chúa Giêsu luôn luôn tiếp cận và có thể được nói trực tiếp mặt đối mặt. Khi nhìn vào mắt người khác, giống như Chúa, Đấng sau khi đã quỳ bên cạnh người ngoại tình sắp bị ném đá, đã đứng dậy và nói với bà, “Tôi cũng không lên án bà” (Ga 8:11). Đây không phải là đi ngược lại lề luật. Chúng ta cũng có thể thêm vào, “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, không phải với một giọng điệu hợp luật khi nói về chân lý như một định nghĩa – đó là giọng điệu của những người cảm thấy rằng họ phải xác định bằng được các tham số của lòng thương xót Chúa. Ngược lại, những lời đó cần phải được nói bằng giọng điệu theo đó sự thật là sự trung tín [của Chúa], cho phép tội nhân nhìn về phía trước chứ không phải phía sau. Giai điệu đúng của những lời “đừng phạm tội nữa” được thấy nơi vị giải tội là người nói lên những lời ấy và sẵn sàng lặp lại những lời này bảy mươi lần bảy.
Sau cùng là sự gần gũi khi thuyết giảng. Chúng ta hãy suy ngẫm về điều này bằng cách nghĩ đến những người từ phương xa [đến Giêrusalem] và đang lắng nghe bài giảng đầu tiên của Phêrô, là một phần trong biến cố Hiện Xuống. Phêrô tuyên bố rằng đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho “tất cả những người ở xa” (Công-vụ 2:39), và ông rao giảng theo cách khiến họ “đau đớn trong lòng” trước những lời rao giảng của ông đến nỗi họ kêu lên “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Công vụ 2:37). Đó là một câu hỏi, như chúng ta đã nói, phải luôn luôn được nêu lên và trả lời theo một giai điệu Thánh Mẫu và Giáo hội học. Bài giảng là tiêu chuẩn “để đánh giá sự gần gũi của vị mục tử và khả năng giao tiếp với người dân của ngài” (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 135). Trong bài giảng, chúng ta có thể thấy chúng ta thân mật với Chúa đến đâu trong lời cầu nguyện; và gần gũi với người dân đến mức nào trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Tin Mừng hiện diện khi hai hình thức gần gũi này nuôi dưỡng và hỗ trợ lẫn nhau. Nếu anh em cảm thấy xa cách Thiên Chúa, hãy gần gũi hơn với dân chúng, là những người sẽ chữa lành anh em khỏi những ý thức hệ đang làm nguội lạnh lòng nhiệt thành của anh em. Những người bé nhỏ nhất sẽ dạy anh em nhìn Chúa Giêsu một cách khác. Vì trong mắt họ, con người của Chúa Giêsu thật hấp dẫn, gương sáng của Ngài có thẩm quyền luân lý, những lời giáo huấn của Ngài rất hữu ích cho cách chúng ta sống cuộc đời của mình. Nếu anh em cảm thấy xa cách mọi người, hãy tiếp cận Chúa và lời Người: trong Tin Mừng, Chúa Giêsu sẽ dạy anh em cách nhìn dân chúng, và trong mắt Người mỗi một cá nhân quý biết chừng nào đến mức Người đã đổ máu cho họ trên cây thập tự. Trong sự gần gũi với Thiên Chúa, Lời sẽ trở nên xác thịt trong anh em và anh em sẽ trở thành một linh mục gần gũi với tất cả con người. Qua sự gần gũi của anh em với dân Chúa, thể xác đau đớn của họ sẽ nói với trái tim anh em và anh em sẽ xúc động để thân thưa cùng Chúa. Anh em sẽ lại một lần nữa trở thành một linh mục chuyển cầu cho họ.
Một linh mục gần gũi với dân mình đi giữa họ với sự gần gũi và sự dịu dàng của một người mục tử tốt lành; khi chăn dắt họ, lúc thì ngài đi trước họ, lúc khác thì đi giữa họ và đôi khi đi sau họ. Không những người ta đánh giá cao một linh mục như thế; thậm chí còn hơn thế nữa, họ cảm thấy rằng có một cái gì đó đặc biệt về ngài: một cái gì đó họ chỉ cảm thấy nơi sự hiện diện của Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao việc phân định sự gần gũi của chúng ta với họ không chỉ đơn giản là một điều nữa phải làm thêm. Trong chuyện đó, chúng ta hoặc là làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống của nhân loại hoặc là giữ Ngài ở mức độ chỉ là những ý tưởng, những từ ngữ trên giấy, thâm nhập được cùng lắm là trong một vài hành vi tốt, dần dần trở thành thói quen.
Chúng ta hãy cầu xin Đức Maria là “Đức Bà của sự gần gũi” dẫn đưa chúng ta đến gần nhau hơn, và khi chúng ta cần nói với người dân “Hãy làm bất cứ điều gì Chúa Giêsu bảo họ”, hãy nói với cùng một giọng, để trong sự đa dạng những ý kiến của chúng ta, sự gần gũi từ mẫu của Mẹ có thể hiện diện vì Mẹ là Đấng, nhờ lời “xin vâng”, đã đưa chúng ta đến gần Chúa Giêsu mãi mãi.
Sau bài giảng, Đức Thánh Cha đã làm phép các loại dầu.
Dầu ôliu nguyên chất được Đức Giám Mục làm phép vào Thứ Năm Tuần Thánh được gọi là dầu thánh dùng vào việc thánh hiến các dụng cụ thánh và xức dầu trong một số bí tích. Có ba loại dầu khác nhau và phân biệt nhờ mầu sắc, mùi vị khác nhau. Mùi vị, mầu sắc có được là do dầu được pha trộn với một hợp chất tinh tuyền được lấy từ một số loại cây tuyển chọn, rồi dùng tinh dầu này pha với tinh dầu của trái ôliu.
Hàng năm trong Tuần Thánh linh mục địa phận quy tụ với giám mục địa phận trong lễ Truyền Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh. Sau khi truyền phép linh mục chánh xứ nhận dầu mang về giáo xứ để dùng trong năm. Dầu này được cất cẩn thận trong tủ khoá.
Trong Cựu Ước có nhiều đoạn ghi lại việc xử dụng dầu trong các nghi thức đăng quang quan trọng trong xã hội cũng như trong phụng vụ Giáo Hội. Nghi thức xức dầu dùng trong các ngày lễ vua đăng quang hay linh mục thượng phẩm. Muốn biết thêm chi tiết xin xem các đoạn trong sách Xuất hành chương 30 và sách Lêvi chương 8.
Nguồn gốc chữ Chrism có lẽ cùng nguồn gốc với chữ Christ có nghĩa ‘Đấng được Xức Dầu tấn phong). Các thánh giáo phụ ghi nhận việc xức dầu là dấu chỉ bề ngoài xác định niềm tin bên trong mắt thường không thể nhìn thấy nhưng nói lên đức tin của tâm hồn. Thánh Ambrô kính viếng dầu thánh như là dấu chỉ của ân sủng. Các vị khác coi dầu thánh như là vật thánh ban ân thánh hoá cho các Kitô hữu. Đức Giáo Hoàng Bênidictô 16 xác định
Dầu thánh được dùng trong các trường hợp thánh hiến thánh đường, chuông và bàn thờ, chén thánh, dĩa thánh bởi những dụng cụ này được dùng trong việc cử hành thánh lễ. Dầu thánh dùng trong bí tích thanh tẩy. Có hai lần xức dầu. Xức dầu lần đầu mang ý nghĩa thanh tẩy và thánh hiến em bé đó cho Thiên Chúa. Xức dầu lần hai mang ý nghĩa ban ơn sức mạnh để trong tương lai chu toàn ba nhiệm vụ của Kitô hữu đó là sứ vụ linh mục, tiên tri và vương đế. Bí tích thêm sức người đó được xức dầu để nhờ ơn Thánh Thần Chúa hướng dẫn đồng thời ban sức mạnh chu toàn tốt đẹp ba sứ vụ nêu trên. Xức dầu bệnh nhân giúp người bệnh được mạnh nếu điều đó làm đẹp lòng Chúa đồng thời tăng sinh lực chống lại các cám dỗ và nếu có tội thì được tha. Khi truyền chức linh mục giám mục xức dầu hai tay linh mục. Khi truyền chứ giám mục thì giám mục chủ tế sức dầu trên đầu vị tâm giám mục với ý nghĩa thánh hiến và thánh hoá con người và công việc người đó sẽ đảm trách.
Dầu thánh được dùng trong phụng vụ mang ý nghĩa đặc biệt. Dầu ôliu được chọn làm dầu thánh vì tự bản chất của dầu vừa tốt cả về phẩm lẫn ít bị thái hoá do khí hậu và thời gian nên dầu được chọn biểu trưng cho sự giầu mạnh, bền bỉ và tốt lành của ân sủng Chúa. Hương thơm được pha trộn tượng trưng cho các đức tính cao quí, ngạt ngào hương thơm, tốt lành trong đạo. Dầu tượng trưng cho sức mạnh trong khi hương thơm tượng trưng cho sự bền bỉ.
Việc sức dầu tượng trưng cho việc lãnh nhận ân sủng Chúa và sức mạnh tinh thần cần thiết giúp người Kitô hữu sống đạo, chống lại tàn phá, huỷ diệt của cơn cám dỗ đồng thời toả hương thơm Lời Chúa cho tha nhân.