Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Sáng thứ Bẩy 29 tháng Tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ cho các tín hữu Công Giáo Ai Cập tại một sân vận động của lực lượng phòng không Ai Cập.

Theo tường trình của tờ Los Angeles Time, Đức Thánh Cha đã tiến vào sân vận động lúc 9:30 sáng trong khi vô số những chiếc bong bóng màu vàng trắng là màu cờ của Vatican được thả lên trời và một dàn hợp xướng đang hát bài “Gloria”.

Nhiều người tham dự cho biết lần cuối cùng họ nhìn thấy một vị giáo hoàng cử hành Thánh Lễ ở sân vận động này là cách đây 17 năm, đó là Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Cảnh sát và lính nhảy dù Ai Cập đi lại đầy đường trong khi các máy bay trực thăng quân sự lượn đầy trên bầu trời, nhưng không khí tại sân vận động này vẫn là một bầu khí lễ hội với những bong bóng đầy đường và âm nhạc vang lừng cả một góc trời tràn ngập niềm vui.

Cha Raymond Tumba, một linh mục Nigeria đang học tiếng Ả Rập ở Cairo, nói: “Chưa bước vào, nghe những âm thanh của âm nhạc, bạn cũng có thể cảm nhận được niềm vui của cuộc gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng.”

Đức Thánh Cha Phanxicô vẫy tay chào đám đông khi ngoài lượn vòng quanh sân vận động trong một chiếc xe golf. Một số nữ tu giơ cao các bích chương “Đức Giáo Hoàng của Hòa Bình”, trong khi những người xem khác vẫy cờ Vatican và Ai Cập. Một lá cờ Ai Cập to lớn được treo một bên sân vận động.

Mặc dù có các mối quan ngại về an ninh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tỏ ra không chút e sợ, ngài di chuyển trên một chiếc xe golf lượn quanh sân vận động thể hiện lòng mong muốn được gần gũi với đàn chiên của mình bằng mọi giá. Đám đông reo vui cuồng nhiệt, và lắc lư theo những bài hát do dàn hợp xướng trình tấu.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

As-salamu alaykum! Bình an ở cùng anh chị em!

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ Ba Phục Sinh hôm nay nói với chúng ta về cuộc hành trình đến Emmaus của hai môn đệ đã rời khỏi Giêrusalem. Bài Tin Mừng này có thể được tóm lược trong ba chữ: cái chết, sự phục sinh và sự sống.

Cái chết.

Hai môn đệ đang trở lại với cuộc sống thường nhật với đầy những chán chường và thất vọng. Thầy đã chết và thế là chẳng còn gì để hy vọng. Họ cảm thấy chán chường và thất vọng. Cuộc hành trình của họ là một cuộc hành trình quay lại, khi họ để lại sau lưng những kinh nghiệm đau đớn về việc Chúa bị đóng đinh. Khủng hoảng của thập giá, thực sự là một “vụ tai tiếng” và một điều “điền rồ” (xem 1Cor 1:18, 2: 2) dường như đã vùi chôn mọi hy vọng của họ. Đấng mà họ đã dựa vào để xây dựng cuộc sống mình giờ đã chết; với thất bại của mình, Ngài đã mang xuống tuyền đài tất cả các ước mơ của họ.

Họ không thể tin rằng vị Thầy và Đấng Cứu Rỗi của họ, Đấng đã cho kẻ chết sống lại và chữa lành những người đau ốm, lại có thể bị treo trên thập giá một cách nhục nhã như thế. Họ không thể hiểu tại sao Thiên Chúa Toàn Năng đã không cứu Người khỏi cái chết đáng hổ thẹn đó. Thập giá Chúa Kitô là thập giá cho những ý tưởng của họ về Thiên Chúa; cái chết của Chúa Kitô là cái chết của những ý tưởng họ nghĩ về Thiên Chúa. Trên thực tế, chính họ đã chết, và được mai táng trong nấm mồ những hiểu biết hạn hẹp của mình.

Quá thường khi chúng ta làm tê liệt chính mình bằng cách từ chối vượt qua những ý tưởng của chúng ta về Thiên Chúa, trong đó chúng ta xem Ngài như một vị thần được tạo ra theo hình ảnh con người và giống như con người? Chúng ta tuyệt vọng đến mức nào khi từ chối tin rằng quyền năng vô biên của Thiên Chúa không phải là sức mạnh và uy quyền, nhưng là quyền năng của tình yêu, sự tha thứ và sự sống!

Các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài “bẻ bánh”, nghĩa là trong Bí Tích Thánh Thể. Trừ khi chúng ta xé toạc bức màn che khuất tầm nhìn của chúng ta và phá vỡ sự cứng rắn trong trái tim chúng ta và những định kiến của mình, chúng ta sẽ không bao giờ có thể nhận ra thiên nhan Chúa.

Sự Phục Sinh.

Trong mịt mù của đêm tăm tối nhất của họ, vào thời điểm tuyệt vọng nhất của họ, Chúa Giêsu tiếp cận hai môn đệ và bước đi bên cạnh họ, để làm cho họ thấy rằng Ngài là “Đường, là Chân lý và là Sự sống” (Ga 14: 6 ). Chúa Giêsu biến sự thất vọng của họ thành sự sống, vì khi niềm hy vọng phàm trần biến mất, niềm hy vọng thánh thiêng bắt đầu tỏa sáng. “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.” (Lc 18:27, xem 1:37). Khi chúng ta rơi đến tận vực sâu của sự thất bại và bất lực, khi chúng ta thoát ra khỏi cái ảo tưởng rằng chúng ta là giỏi nhất, có thể tự túc tự cường, và là trung tâm của thế giới chúng ta, thì lúc đó Thiên Chúa vươn đến chúng ta để biến đêm của chúng ta thành rạng đông, biến cái chết của chúng ta thành sự phục sinh. Ngài quay bước chúng ta trở lại Giêrusalem, trở lại với sự sống và với chiến thắng của Thập giá (xem Dt 11:34).

Sau khi gặp Chúa Phục Sinh, hai môn đệ trở lại lòng tràn đầy niềm vui, tự tin và nhiệt tình, sẵn sàng làm chứng. Đấng Phục Sinh đã làm cho họ trỗi dậy từ ngôi mộ của sự bất tín và nỗi buồn của họ. Khi gặp gỡ Chúa, Đấng đã chịu đóng đinh và sống lại, họ khám phá ra ý nghĩa và sự viên mãn của toàn bộ Kinh Thánh, Lề Luật và các Tiên Tri. Họ khám phá ra ý nghĩa của điều xem ra là một sự thất bại của thập giá.

Những ai không vượt qua được kinh nghiệm của thập giá để đến với chân lý phục sinh thì tự mình lên án mình trong tuyệt vọng! Chúng ta không thể gặp gỡ Thiên Chúa nếu trước hết chúng ta không đóng đinh những khái niệm hẹp hòi của chúng ta về một vị thần chỉ phản ảnh những hiểu biết của chính chúng ta về sức mạnh và quyền lực.

Sự sống.

Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Phục Sinh đã làm thay đổi cuộc sống của hai môn đệ này vì cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh biến đổi mọi sự sống và làm cho những gì là sa mạc khô cằn trở nên xum xuê hoa trái (xem Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, Buổi Tiếp Kiến Chung, ngày 11 tháng 4 năm 2007). Đức tin nơi sự phục sinh không phải là sản phẩm của Giáo Hội, nhưng chính Giáo Hội được sinh ra bởi đức tin nơi sự phục sinh. Như Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.” (1Cor 15:14).

Chúa Phục Sinh đã biến mất trước mắt các môn đệ để dạy chúng ta rằng chúng ta không thể giữ được Chúa Giêsu như Người đã xuất hiện trong lịch sử: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 21:29, xem 20: 17). Giáo Hội cần biết và tin rằng Chúa Giêsu sống trong Giáo Hội và trao ban sự sống của Ngài trong Bí Tích Thánh Thể, trong Kinh Thánh và trong các bí tích. Các môn đệ trên đường Emmaus nhận ra điều này, và trở lại Giêrusalem để chia sẻ kinh nghiệm của họ với những người khác: “Chúng tôi đã thấy Đấng Phục Sinh... Đúng vậy, Ngài thật sự đã sống lại!” (Lc 24:32).

Kinh nghiệm của các môn đệ trên đường Emmaus dạy chúng ta rằng thật là vô dụng khi lấp đầy những nơi thờ phượng của chúng ta nếu trái tim chúng ta trống rỗng vì sợ Thiên Chúa và sự hiện diện của Ngài. Thật là vô dụng khi cầu nguyện nếu lời cầu nguyện của chúng ta với Thiên Chúa không trở thành tình yêu đối với anh chị em mình. Tất cả các việc đạo đức của chúng ta đều là vô nghĩa trừ phi nó được linh hứng từ đức tin sâu xa và lòng bác ái. Thật là vô dụng khi chăm chuốt diện mạo của chúng ta, vì Thiên Chúa chỉ nhìn vào linh hồn và trái tim (xem 1 Sa-mu-ên 16: 7) và ghét sự giả hình (xem Lc 11: 37-54, Công-vụ 5: 3, 4 ) [1]. Đối với Thiên Chúa, thà đừng tin còn hơn là một tín hữu giả, một kẻ giả hình!

Đức tin chân thật là đức tin khiến chúng ta bác ái hơn, thương xót hơn, trung thực và nhân đạo hơn. Đức tin ấy làm rung động con tim của chúng ta để yêu thương mọi người mà không so đo tính toán hơn thiệt, không phân biệt và không chuộng người này bỏ người kia. Đức tin ấy làm cho chúng ta thấy tha nhân không phải là kẻ thù cần phải vượt qua, nhưng là anh chị em với mình để yêu thương, phục vụ và giúp đỡ. Đức tin ấy thúc đẩy chúng ta truyền bá, bảo vệ và sống một nền văn hoá gặp gỡ, đối thoại, tôn trọng và huynh đệ. Đức tin ấy cho chúng ta lòng dũng cảm để tha thứ cho những người đã làm khốn mình, để giang tay cho kẻ sa ngã, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho kẻ đói ăn, viếng kẻ tù rạc, giúp trẻ mồ côi, cho kẻ khát uống, giúp đỡ những người cao niên và những ai gặp khó khăn (xem Mt 25). Đức tin chân thật dẫn chúng ta đến việc bảo vệ quyền của người khác với cùng một nhiệt tình như khi chúng ta bảo vệ cho chính mình vậy. Thật thế, chúng ta càng tăng trưởng trong đức tin và tri thức, chúng ta càng lớn lên trong sự khiêm tốn và trong nhận thức về sự mọn hèn của chúng ta.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa chỉ vui trước một đức tin được loan báo bằng chính đời sống chúng ta, vì sự cuồng tín duy nhất các tín hữu có thể có là lòng bác ái! Bất kỳ thứ cuồng tín nào khác đều không đến từ Thiên Chúa và không làm hài lòng Người!

Vậy giờ đây, giống như các môn đệ trên đường Emmaus, lòng tràn ngập niềm vui, can đảm và đức tin, chúng ta hãy trở lại Giêrusalem của mình, nghĩa là trở lại với cuộc sống hàng ngày của anh chị em, gia đình, công việc và đất nước yêu dấu của anh chị em. Đừng sợ mở lòng mình ra với ánh sáng của Chúa Phục Sinh, và để cho Người biến đổi sự bất định của anh chị em thành một sức mạnh tích cực cho chính mình và cho người khác. Đừng ngại yêu mọi người, bạn bè và kẻ thù bởi vì sức mạnh và kho báu của người tín hữu chính là trong một cuộc sống yêu thương!

Nguyện xin Đức Mẹ và Thánh Gia, đã ngự đến vùng đất đáng kính này của anh chị em, soi sáng tâm hồn chúng ta và ban phước cho anh chị em và đất nước yêu quý Ai Cập này, là đất nước mà trong buổi bình minh của Kitô giáo đã chào mừng việc rao giảng của Thánh Máccô, và trong lịch sử của nó đã đưa ra rất nhiều các vị tử đạo và vô số những người nam nữ thánh thiện.

Al Masih qam! Bi-l-haqiqa qam!

Chúa Kitô đã sống lại! Ngài thật sự đã sống lại!