LỄ VƯỢT QUA VÀ LỄ PHỤC SINH
Lễ Vượt Qua là một đại lễ của người Do Thái và gần gũi nhất đối với các Ki Tô hữu. Đó là một lễ hội mừng được mùa, và là một lễ
hội tôn giáo rất phổ biến trong gia đình, được tổ chức mừng vào mùa Xuân hằng năm, kéo dài 7 ngày (tại đất nước Israel, 8 ngày trong Do thái lưu vong) để kỷ niệm ngày Xuất Hành ra khỏi Ai cập.
Phục Sinh là ngày lễ kỷ niệm quan trọng nhất của các Ki tô hữu mừng Chúa Giêsu sống lại. Nó được gọi là PASCHA (tiếng Hy lạp là VƯỢT QUA). Saldarini trong tác phẩm Chúa Giêsu và Lễ Vượt Qua đã viết: “Các nghi thức của lễ Phục Sinh liên quan đến Lễ Vượt Qua, vì Lễ Vượt Qua của người Do Thái và lễ kỷ niệm Chúa Giê su chịu chết và phục sinh của Ki Tô hữu hình thành từ cùng một niềm tin, nghi lễ giống nhau và có cùng truyền thống thần học. Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta như Thiên Chúa đã cứu dân Israel xưa” [1]. Trong bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ xem xét sự giống nhau giữa Lễ Vượt Qua và Lễ Phục Sinh, và ý tưởng của sự hy sinh và cứu độ được tìm thấy trong việc cử hành hy lễ.
1. Nguồn gốc lễ Vượt Qua.
Chữ tiếng Anh Passover được nhận từ tiếng Hy Lạp pesah, trong sách Xuất Hành chương 12 câu 13, “Ta sẽ Vượt Qua các ngươi… khi ta giáng hoạ trên đất Ai-cập”. Trong khi chữ Hy lạp pashcha, là nến tảng của từ Pasch hay Pascha. “Sách Xuất Hành chương 12 và 13 giải thích rằng: Lễ phát triển từ 3 cử hành riêng biệt: Hy Lễ Vượt Qua, tiệc bánh không men, và việc dâng con đầu lòng là nét riêng biệt của người Do thái trước đây và không liên quan gì đến việc trốn thoát khỏi Ai Cập” [2]. Những con vật đã được cạo lông, xẻ thịt để đem những phần ngon phục vụ cho bữa tiệc buổi lễ đó và phần thịt còn lại được dùng chuân bị cho bữa tối.
Theo Saldarini, “Lễ Vượt Qua bắt đầu như là một lễ hội mùa xuân giữa các mục đồng bán du mục trước khi người Do Thái tồn tại đã khá lâu. Nó tồn tại như một lễ hội của tôn giáo của người Do Thái kỷ niệm ngày thoát khỏi ách nô lệ tại Ai Cập. Và nó vẫn tồn tại trong các gia đình cũng như trong các hội đường ngày nay”[3]. Trước khi dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đã đánh phạt người Ai Cập bằng việc giết đứa con đầu lòng và các thú vật của người Ai Cập. Ngài đã hướng dẫn họ biết cách tránh cho đứa con khỏi cái chết cùng với các đứa con của người Ai cập, bằng cách phải giết một con cừu hoặc một con dê rồi lấy máu đó bôi lên cửa, để Thiên Chúa đi qua mà con cái họ sẽ không bị giết hại. Ông Mô se ghi nhận những lời truyền của Thiên Chúa rồi hướng dẫn lại dân chúng cho việc mừng lễ Vượt Qua trong tương lai.
Từ những gợi ý trong Cựu ước và lịch sử các tôn giáo, Saldarini đã sắp xếp lại hình thành một bản liệt kê nguyên thủy của lễ Vượt Qua. Hy lễ Vượt Qua dâng cho các vị thần minh để đảm bảo sự an toàn cho các đàn gia cầm đi lại an toàn từ thung lũng tới các cánh đồng cỏ triền núi đã được người Do Thái làm theo để kỷ niệm chuyến đi an toàn trong Isarel. Bữa tiệc Bánh không men đầu tiên ( một tuần mà người ta chỉ ăn bánh không men, để đánh dấu ngày bắt đầu mùa thu hoạch và cũng là để con người nhận ra mình phụ thuộc vào Thiên Chúa vì được ban cho đất đai màu mỡ.), tượng trưng cho việc bắt đầu cuộc sống mới. Câu chuyện kinh thánh qua việc thiếu men biểu trưng cho sự vội vàng rời khỏi Ai cập của người Do Thái.
Các loại hoa trái đầu mùa hay đứa con đầu lòng dâng cho Thiên Chúa để thừa nhận Thiên Chúa là Đấng ban ơn và là Đấng bảo vệ cho sự sống. Máu các con vật đầu lòng được dâng làm hiến tế được liên kết đến máu trong Hy Lễ Vượt Qua. Con người đã được ban tặng nhu cầu bảo vệ cho sự sống được tượng trưng qua những công việc họ làm, họ liên kết với những kinh nghiệm cụ thể trong lịch sử của dân Israel. Hành động trao ban sự sống và hành động bảo vệ sự sống trong đất Ai Cập của Thiên Chúa được liên kết hài hòa trong bữa tiệc Vượt Qua của người Do thái / tiệc Bánh không men [4]. Cùng với việc thống trị đền thờ, tiệc Vượt Qua đã thành một hy lễ long trọng tại Giêrusalem. Sau đó, qua việc tổ chức sắp xếp lại việc tế tự nơi đền thờ mà họ đã cho phá hủy hoặc xây dựng lại, thì lễ Vượt Qua đã trở thành ngày đầu tiên và quan trọng nhất của tuần lễ bánh không men và sau đó tên Vượt Qua đã được dùng để chỉ cả hai ngày lễ [5].
2. Lễ Vượt Qua thời Chúa Giê su
Vào thế kỷ I trước Công Nguyên, hy tế Vuợt Qua và bữa ăn chỉ diễn tại Giêrusalem vì con vật ( một con cừu hoặc một con dê ) phải bị giết trong Đến thờ. Sách Đệ nhị Luật đã mô tả là bữa tiệc của người Do Thái đã phải diễn ra tại Giêrusalem, là trung tâm chính trị và tôn giáo linh thiêng của đạo Do Thái. Lễ Vượt Qua là một ngày hội hành hương, đám đông dân chúng khắp các nơi trên đất nước Palestin tụ về để mừng lễ quan trọng nhất. Vào lúc 3 giờ, các linh mục bắt đầu thánh hiến các sinh vật không bị tì vết một năm tuổi, được các vị đứng đầu mỗi hộ gia đình đem tới khu vực Đền thờ. Các thầy Lê vi và các khách hành hương cùng hát thánh ca và thánh vịnh để ngợi khen và tạ ơn. Vào xế chiều, các gia đinh ăn bữa tiệc Vượt Qua. Tân Ước cho biết rằng Chúa Giêsu cũng đã lên Giêrusalem nhiều lần cùng với cha mẹ và cùng với các môn đệ của Ngài sau này. Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc các môn đệ đi tìm kiếm căn phòng để Thầy –Trò cùng nhau dùng bữa Vượt Qua tại đó. Chúa Giê su bảo môn đệ đi đến nhà một người đàn ông và hỏi mượn căn phòng đã được dọn sẵn để chuẩn bị cho bữa tiệc. Thông thường vì có nhiều người đến tụ về quá đông đến nỗi mà trong suốt thời gian lễ Vượt Qua, bữa tiệc có thể được ăn tại bất cứ nơi nào ở Giêrusalem hơn là chỉ tại Đền thờ. Tuyển tập các chú giải luật trong Kinh Thánh cho biết rằng các nhóm người đến ăn đông đủ, nên có thể ăn hết thịt con vật được sát tế. Vì thế, nhóm 10 đến 20 người tụ tập trong nhiều phòng đã thuê hay nhiều lều để nấu nướng và cùng ăn. Bữa ăn sẽ được ăn ngay khi trời tối, vì ngày của người Do Thái được bắt đầu khi mặt trời lặn. Lễ Vượt Qua bắt đầu vào buổi tối. Nhóm ăn các đồ ăn được qui định trong Kinh Thánh, đó là các phần thịt của con vật đã sát tế, thường là thịt cừu, bánh không men và rau đắng. Người ta uống rượu, vì thời điểm đó rượu là món uống thường được dùng. Bốn chén rượu là thiết yếu cho Nghi lễ tiệc vượt qua sau này, xuất phát từ việc dùng rượu trước đó. Tài liệu về các tập quán của lễ Vượt Qua thì sơ sài và một số tập quán đã thay đổi. Sách Xuất Hành nói rằng: khi ăn lễ Vượt Qua nên thắt đai lưng và đi giầy, cầm gậy trong tay và ăn vội vã. ( một mô phỏng bữa ăn cuối cùng trước khi rời khỏi Ai Cập ). Hơn nhiều thế kỷ, hình thức đã thay đổi và được nới lỏng; vì thế bây giờ nó là một lễ kỷ niệm nhàn nhã của gia đình. (Xinđọc Phụ lục I cho bữa ăn Seder Hiện Đại).
3. Nghi lễ tiệc Vượt qua
Từ “Seder” có nghĩa là “trật tự” trong tiếng Do thái. Nó có nghĩa là trật tự của nghi thức ( bao gồm việc cầu nguyện và nêu các biến cố ) của đêm đầu tiên của lễ Vượt Qua. Không chắc chắn là thứ tự của các biến cố nào được tuân thủ trong bữa tiệc Vượt Qua trong suốt thế kỷ đầu. Ngày càng nhiều hướng dẫn hoàn hảo hơn được tìm thấy trong “ dấu vết của Mishna có tên Pesachim kể từ cuối thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên; vì thế một vài thay đổi có thể có từ thời Đức Ki Tô”[6]. Có lẽ có những món khai vị như một món rau hoặc sà lách trộn giấm và một ít nước sốt tiếp theo sau là một chén rượu. Một phép lành trên bánh sẽ khởi đầu cho bữa ăn chính thức. Sau bữa ăn, người ta uống thêm một chén rượu. Những phép lành này là dịp công bố về Chúa Giêsu. Sau bữa ăn, người ta nói về ý nghĩa ngày lễ hoặc câu chuyện liên quan đến lễ Vượt Qua lần đầu tiên. Người ta hát các bài Thánh ca và thánh vịnh để ca tụng Thiên Chúa là Đấng giải thoát, đem họ ra khỏi đất Ai Cập. Ngay sau khi hát các thánh vịnh, người ta uống ly rượu cuối cùng. Đối với người Do Thái, bữa tiệc Vượt Qua giúp họ nhận thức lại họ là hậu duệ của Abraham, đã được Thiên Chuá cứu đưa ra khỏi Ai Cập, được Môi sê dẫn dắt cũng như được ban cho đất sống và cách sống. Điều đó bao gồm sự hy sinh, máu, bánh mì và cả khái niệm về cái chết. “ Thiên Chúa là trọng tâm của các lời kinh nguyện và các lễ nghi. Trong quá khứ, Thiên Chúa đã cứu dân Israel, Ngài chăm sóc họ trong hiện tại và sau cùng sẽ cứu chuộc họ trong ngày sau hết”[7]. Chúa Giêsu đã cử hành lễ Vượt Qua và dùng những yếu tố này để lập ra một nghi thức mới – Bí Tích Thánh Thể- và sau này trở thành Chiên Vượt Qua.
Lễ Vượt Qua là một lễ hội bao gồm rất nhiều lễ nghi được nói đến trong Ngũ thư. Lễ nghi này đã được các giáo sĩ Do Thái thêm thắt và rồi lại mở rộng do các tập quán địa phương. Tuyển tập các chú giải luật trong Kinh Thánh, việc biên soạn luật và qui định của người Do Thái lui ngày lại tới năm 200 sau Công Nguyên. Việc phá hủy đền thờ La Mã vào năm 70 sau Công Nguyên mang ý nghĩa: không có một hy tế nào khác được thực hiện tại Giêrusalem. Tuyển tập các chú giải luật trong Kinh Thánh cho rằng lễ Vượt Qua có thể được tổ chức mừng mà không cần đến hy lễ đã hình thành nên trung tâm điểm của bữa ăn, một thay đổi lớn trong tập quán cổ truyền của người Do Thái. Vì các Giáo sĩ Do Thái giáo đã đua việc nghiên cứu Kinh Thánh và lề luật làm trọng tâm của lối sống và việc thờ phượng (Việc giải thích Kinh Thánh theo Midrashic được đưa thêm vào ở những điểm đặc biệt), điểm cốt lõi của buổi lễ trở thành việc giải thích chương 26 sách Đệ Nhị Luật là Thiên Chúa đã cứu dân Israel như thế nào. “Vì vậy điều quan trọng là cuốn Kinh thánh này chú giải rằng lễ Nghi lễ tiệc Vượt Qua thường được gọi là lễ Vượt Qua Haggada. Haggada là giải thích phần Kinh Thánh không mang tính luật lệ, giải thích phần trình thuật trong Kinh Thánh”[8].
Theo Saldarini, bữa tiệc lễ Vượt Qua Seder cho nhiều yếu tố tương tự như việc thờ phượng của các Ki Tô hữu. “Sự cứu rỗi và cứu chuộc là trọng tâm, và bánh là biểu tượng chủ yếu. Kinh Thánh được đọc, được ghi nhớ và được sống động qua việc tham dự của cộng đồng. Việc cầu nguyện và cử hành nghi thức nhắm đến lòng thương của Thiên Chúa trong quá khứ và sự quan phòng của Ngài trong tương lai” [9]. Bữa tiệc Lễ Vượt Qua Seder kết hợp và tích hợp nhiều khía cạnh về niềm tin cũng như cuộc sống thực tế của người Do Thái. Những lời nói và hành động diễn tả sự việc đã xảy ra trong lễ Vượt Qua đầu tiên, và những gì mà người Do Thái đã làm kể từ đó. Bánh không men và rau diếp đắng biểu trưng cho sự nguy hiểm và đau khổ mà dân Israel đã gặp phải bên Ai Cập, cũng như là biểu trưng cho niềm hy vọng về việc cứu rỗi.
4. Lễ Vượt Qua trong Kinh Thánh
Cốt lõi của niềm tin Ki Tô Giáo là tin vào Chúa Giê su chết để chuộc tội cho con người, và sự Phục Sinh của Ngài đã cho chúng ta một cuộc sống mới được lớn lên trong niềm tin của người Do Thái. Các Ki Tô hữu đầu tiên đã liên kết những giờ phút cuối cùng của Chúa Giê su với việc kỷ niệm lễ Vượt Qua, và họ sử dụng những biểu tượng và ám chỉ để hiểu về những việc làm của Chúa Giê su. Trong việc thờ phượng hàng ngày, họ đọc Cựu Ước tiên báo về sự xuất hiện của Chúa Giê su, một Đâng Cứu thế.
Trong 4 cuốn Tin Mừng, có nhiều câu chuyện và lời dạy khác nhau về Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Nhất lãm, chúng ta tìm thấy nhiều sự liên quan đến lễ Vượt Qua trong câu chuyện nói về cái chết của Chúa Giê su và các biến cố quanh vấn đề đó. Chúa Giê su và cha mẹ của Ngài đã từng lên Gierusalem để mừng lễ Vượt Qua và các ngày lễ khác. Khi lên 12 tuổi, Chúa Giê su đã ở lại còn cha mẹ Ngài thì trở lại Nazaret. Sau đó, 2 ông bà đã quay lại tìm và thấy Ngài ngồi giữa các luật sĩ và đang trả lời các vấn đề một cách thông minh. ( Lc.2,41-50). Ngài giải thích cho bà Maria và ông Giuse biết về sự thất lạc của mình, là Ngài còn phải thi hành công việc do Cha Ngài trao phó.
Khởi đầu sứ vụ của mình ( ngay sau khi dự tiệc cưới tại Cana ), Chúa Giê su lại quay về Gierusalem để mừng lễ Vượt Qua. Ngài thấy người ta buôn bán những con vật để làm hiến tế và đổi tiền trong khuôn viên đền thờ. Ngài đánh đuổi họ và nói nhà của Cha Ngài không phải là nơi họp chợ. Tuy nhiên, việc buôn bán được chấp nhận ở vùng đất chung quanh Đền thờ., và thậm chí cần thiết cho những người bán những vật làm hy tế 10 ( Mc. 11,11, 15-17; Mt. 21, 12-13; Lc. 19,45-46; Ga. 2, 13-22). Trong chương 6 Tin Mừng Thánh Gioan, chúng ta thấy Chúa Giê su đi chung quanh biển Galilee ngay trước ngày lễ Vượt Qua. Ngài làm phép hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông người đến nghe Ngài giảng dạy. Ngài làm phép lạ lần thứ hai khi đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ.
Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê su đã dùng bữa cùng các môn đệ ( lễ Vượt Qua cuối cùng ) vào đêm trước lễ Vượt Qua và chịu đóng đinh vào ngày thứ nhất của lễ Vượt Qua. Điều cuối cùng thực sự khó khăn này đã làm các nhà nghiên cứu đến chỗ đặt vấn đề về các niên đại của Tin Mừng Nhất lãm nói chung, và Thánh sử Marco nói riêng; đồng thời truy vấn xem có phải chính Nghi lễ tiệc Vượt Qua, Chúa Giê su đã ở cùng các môn đệ hay chỉ làm một Lời chúc tụng (một phép lành trên bánh và rượu trong ngày Sabbath) [11]. Các nhà văn tôn giáo cho rằng các biến cố cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giê su thực hiện diễn ra trong khoảng thời gian 24 giờ từ bữa Tiệc ly tới đóng đinh trước ngày lễ Sabbath. Chúa Giê su đã sai 2 môn đệ vào thành Giêrusalem tìm một người đàn ông đặc biệt mà Thầy trò sẽ cùng nhau mừng lễ Vượt Qua tại nhà ông ta. Người đàn ông này có một căn phòng riêng trên lầu đã chuẩn bị sẵn vào việc dùng tiệc. Chắc chắn rằng thành phố có rất đông người tụ tập về, và không có phòng nào ở khu vực đền thờ có thể dùng vào việc tổ chức tiệc được.Các trình thuật Tin Mừng không nói gì về các chi tiết của bữa tiệc, thậm chí cũng không đề cập đến món thịt cừu nướng. Chúng ta không thấy nhóm người đi hiến tế một con vật nào. Không một ai đọc hay thuật lại chuyện dân di cư hay đặt câu hỏi. Sloyan đã viết những lời bình trong sách Lễ Vượt Qua trong Kinh Thánh: “Các nhà truyền giáo không nói về vấn đề thịt cừu trong lễ Vượt Qua, có lẽ bởi vì nó không có nằm trong một nghi thức Ki Tô Giáo nào”[12]. Chắc chắn rằng, việc phá hủy đền thờ Giêrusalem và đền thờ đã thay đổi việc cử hành lễ Vượt Qua. Thứ hai, là bản thân Chúa Giê su đã thay cho chiên hiến tế, tức là thành Con Chiên Thiên Chúa và là trung tâm của Tam Nhật Thánh Phục Sinh.
Những gì chúng ta đọc về bữa tiệc Lễ Vượt Qua Seder thì rất ít. Có bánh mì và rượu dọn sẵn trên bàn và có những ghế mà người ta có thể dựa ngữa. Ngoài ra còn có một cái đĩa dùng để đựng bánh. Trong các Tin Mừng (Ga.13,26; Mt.26,24; Mc.14,22; và Mt. 26.25; Lc.22,19) ghi nhận rằng Chúa Giê su làm phép bánh (tạ ơn Thiên Chúa, theo Thánh sử Luca ), rồi bẻ ra và nói: “ Đây là mình Thầy”. Thánh Luca thêm, “. .. .vì các con. Hảy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong Nghi lễ tiệc Vượt Qua, có Mozi Mazzah là lời chúc tụng trên bánh không men đã được phân phát cho người tham dự cùng ăn. Chúa Giê su cầm lấy ly rượu (nước ép của trái nho), đọc lời tạ ơn, đưa cho các môn đệ và nói: “…Đây là máu giao ước của tôi đổ ra cho nhiều người..”. Thánh sử Matheu thêm: “…cho nhiều người được tha tội..” (Mt.26,28), trong khi đó Thánh sử Luca nói: “ Chén này đổ ra cho anh em là Giao ước mới trong máu Thày” (Lc.22,20). Chén này tương ứng với lời Chúc tụng sau các bữa ăn được nói trên ly rượu thứ ba. Chỉ có thánh sử Marco đề cập tới việc hát các thánh vịnh Hallel có lẽ là vào cuối bữa ăn và trước khi cả nhóm lên núi Olives (Mc.14,26). Từ khi Chúa Giê su nói rằng Ngài sẽ không uống rượu cho đến lúc Ngài uống cùng các môn đệ tại Vương quốc mới. Ngài đã không uống chén rượu thứ tư sau khi hát tiếp Hallel (tức hát tiếp Tv.114-117).
Đêm Vọng Phục sinh phát sinh từ những qui định trong Kinh thánh cho nghi lễ Vượt Qua. Người Do Thái đã chờ đợi thâu đêm khi Thiên Chúa giết các con đầu lòng của người Ai Cập. Cuối cùng Pharaoh đã phải đống ý cho dân Do thái ra đi; và người dân Israel vẫn thức đêm để cầu nguyện tôn vinh Thiên Chúa trong đêm đó.
5. Lễ Phục Sinh thời kỳ đầu của Ki Tô giáo
Tuần Thánh đã không được tổ chức trong thế kỷ đầu và đầu thế kỷ thứ hai. Một buổi lễ Phục Sinh độc lập bắt đầu vào thế kỷ thứ hai. Việc rửa tội theo nghi thức mới vào buổi cầu nguyện đêm thứ bảy bắt đầu vào thế kỷ thư ba. Nước tượng trưng cho quyền năng cứu độ của Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ tới miền đất tự do và trở nên một Dân Thánh, và sau này nước chảy từ cạnh sườn Chúa Giê su để giải phóng họ khỏi ách tội lỗi. Nước rửa tội lau sạch các vết nhơ do tội đồng thời làm cho con người nên mới và giải thoát con người khỏi ách tội lỗi. Thứ sáu Tuần Thánh bắt đầu vào thế kỷ thứ tư.
Các Ki tô hữu tiên khởi sống tại Gierusalem cho đến năm 70 sau Công Nguyên đã mừng lễ Vượt Qua và dùng bữa tối sau đó theo cách thông thường. Dù chúng ta không có những bằng chứng trực tiếp, nhưng theo Sadarini cho rằng chắc chắn người Ki tô hữu đã đưa thêm vài nghi thức để kỷ niệm ngày Chúa Giê su chịu chết và sống lại đống thời hồi tưởng lại bữa ăn cuối cùng như là lễ Vượt Qua. Hai mươi năm sau ngày Chúa Giê su chịu chết đã có nhiều dân ngoại trở thành Ki Tô hữu. Những người không phải Do thái này đã không giữ luật của Do Thái cũng như không tuân giữ các ngày lễ. Tuy nhiên họ cũng đã hiểu về lễ Vượt Qua và ý nghĩa của ngày lễ đó. Trong thư gửi tín hữu Corinto ( 1.Cor.5,6-8), Thánh Phao lô có đề cập đến tạp tục dùng bánh không men ( lễ bánh không men ) và Chúa Giê su như là Hiến Tế Vượt Qua.
Các Ki Tô hữu gốc Do thái, các tín đồ phái Duy bần và phái Nazia tận hiến cho Giavê, của thế kỷ thứ hai bị các nhà lãnh đạo Giáo Hội coi là dị giáo. Họ bảo thủ về cách sống rất Do Thái và tuân giữ luật Môi se, do đó họ bác bỏ lời dạy của thánh Phao lô. Họ tuân thủ nghiêm nghiêm ngặt giữ ngày Sabbath, họ hướng mặt về Giêrusalem khi cầu nguyện, dùng bánh không men và nước để cử hành Bí Tích Thánh Thể. Họ thừa nhận Chúa Giê su là Đấng Messiah và là tiên tri chứ không phải là Thiên Chúa. Nhóm này vẫn còn tồn tại tới thế kỷ thư tư, đặc biệt tại Syria. Tại Syria và Tiểu Á, trong suốt 2 thế kỷ đầu, nhiều tín hữu Ki tô giáo đã mừng lễ Vượt Qua Ki Tô giáo đồng thời gian với lễ Vượt Qua của người Do Thái, bắt đầu vào ngày thứ 14 tháng Nisan. Các Quartodecimans (tiếng Latinh có nghĩa là:“các Ngày Mười bốn Nisan) đã không ăn mừng lễ Vượt Qua của người Do Thái, mà nhịn ăn để tưởng nhớ về cái chết của Chúa Giê su. Họ đọc những câu truyện được ghi ở chương 12 trong sách Xuất Hành. Vào sáng sớm ngày thứ 15, họ dùng bữa Bữa Tiệc Ly. Đây là những tài liệu xưa nhất mà chúng ta có được về mừng lễ Chúa Giê su sống lại của các Ki tô hữu.
Vào cuối thế kỷ thứ 2, ĐGH Victor I chính thức đặt 1 ngày lễ Chúa Nhật. Ngài đã chấm dứt việc cử hành các nghi thức Quartodecimans về việc mừng sự thương khó và sống lại của Chúa Giê su trong Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Mặc dù có sự ủng hộ của các văn sĩ lỗi lạc Ki Tô giáo, nhưng việc cử hành lễ Vượt Qua của Ki tô Giáo phương Đông đã dần dần không còn phổ biến trong khoảng 2, 3 thế kỷ tiếp theo nữa, vì các tập tục và lễ nghi của Giáo Hội phương Tây đã được phổ biến. Đến thế kỷ thứ 2, Lễ Chúa Nhật Phục Sinh đã được biết đến ở Roma và những nơi khác. Sang đến thế kỷ thứ 3,4 ngày lễ Phục Sinh được cả Giáo Hội Công Giáo Tây phương và Đông phương cử hành.
Lễ Vượt Qua của người Do Thái và Ki Tô giáo đã có ảnh hưởng lớn đến mừng lễ Chúa Nhật Phục Sinh, đầu tiên là bằng việc đón mừng lễ và ăn chay. Những bài đọc và lời cầu nguyện đã được đưa thêm các chi tiết. Ánh sáng của ngọn nến duy nhất để xua tan bóng đêm tượng trưng cho Chúa Giê su, Ánh Sáng của Trần Gian, đã khuất phục xua tan bóng đêm của tội ác. Các bài đọc sách Xuất hành dùng trong lê Vượt Qua của Ki tô giáo đã được đưa thêm vào. Phụng vụ thánh lễ ngày nay gồm 7 bài đọc Cựu ước gồm sách Xuất hành và sách tiên tri Ezekiel, nói về việc Thiên Chúa sẽ cứu Dân Người thoát khỏi ách lưu đầy, và thanh tẩy họ khỏi tội lỗi và sự bất tuân phục, qua Chúa Giêsu [13]. Trong thế kỷ thứ 3, Mùa Phục Sinh đã được mở rộng đến ngày Thăng Thiên (lễ Thất tuần của người Do Thái, hay là Lễ Tuần – còn gọi là Lễ vật hoa trái đầu mùa – năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua. Cả lể Vượt Qua và lễ lễ Thất tuần, (tiếng Hy lạp là pentekoste = ngày thứ năm mươi = lễ Ngũ tuần = mỗi tuần 10 ngày) đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Ban Ơn cho loài người, và là Chúa của mọi thời như đã được ghi trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl.26, 1-11) Các Ki Tô hữu đầu tiên đã chấp nhận ngày lễ 50 ngày này và đã tạo cho nó một nét đặc trưng hoàn toàn mới qua việc mừng Chúa chịu chết, sống lại rồi gửi Thánh Thần Ngôi Ba tới, đồng thời sáng lập Giáo Hội. Cũng như người Do thái đã được soi dẫn bởi cột lửa thì người Ki Tô hữu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và soi sáng [14].
Kết luận
Phụng Vụ lễ Phục Sinh bắt nguồn từ Phụng Vụ Lễ Vượt Qua.Ý nghĩa thần học của việc mừng lễ của cả hai đều giống nhau: Thiên Chúa đã dần dắt và giải cứu dân Israel cũng như Chúa Giê su đã cứu chuộc chúng ta. Lễ Vượt Qua đánh dấu sự hình thành dân Do Thái là một dân tộc thống nhất, một dân tộc được chọn để đi về Đất Hứa. Lễ Tam Nhật Thánh Phục Sinh đánh dấu sự bắt đầu của Ki Tô Giáo, nơi mà lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa được thực hiện qua cái chết của Chúa Giê su để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và cho chúng ta bước vào Vương Quốc của Thiên Chúa là Nước Trời.
Chú thích:
[1] Saldarini, Anthony J., JESUS and PASSOVER, page 1.
[2] Saldarini, page 5-6.
[3] Saldarini, page 3.
[4] Saldarini, page 7-8.
[5] Saldarini, page 15.
[6] Sloyan, Gerard s, The Paschal Feast in the Bible, page 95.
[7] Saldarini, page 50.
[8] Saldarini, page 42.
[9] Saldarini, page 43.
[10] Saldarini, page 73.
[11] Bowman, John, The Gospel of Mark, page 258-259.
[12] Sloyan, Gerard S., The Paschal Feast in the Bible, page 97.
[13] Saldarini, page 111-112.
[14] Ellebracht, Mary Pierre, The Easter Passage, page 202-203.
Lễ Vượt Qua là một đại lễ của người Do Thái và gần gũi nhất đối với các Ki Tô hữu. Đó là một lễ hội mừng được mùa, và là một lễ
Phục Sinh là ngày lễ kỷ niệm quan trọng nhất của các Ki tô hữu mừng Chúa Giêsu sống lại. Nó được gọi là PASCHA (tiếng Hy lạp là VƯỢT QUA). Saldarini trong tác phẩm Chúa Giêsu và Lễ Vượt Qua đã viết: “Các nghi thức của lễ Phục Sinh liên quan đến Lễ Vượt Qua, vì Lễ Vượt Qua của người Do Thái và lễ kỷ niệm Chúa Giê su chịu chết và phục sinh của Ki Tô hữu hình thành từ cùng một niềm tin, nghi lễ giống nhau và có cùng truyền thống thần học. Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta như Thiên Chúa đã cứu dân Israel xưa” [1]. Trong bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ xem xét sự giống nhau giữa Lễ Vượt Qua và Lễ Phục Sinh, và ý tưởng của sự hy sinh và cứu độ được tìm thấy trong việc cử hành hy lễ.
1. Nguồn gốc lễ Vượt Qua.
Chữ tiếng Anh Passover được nhận từ tiếng Hy Lạp pesah, trong sách Xuất Hành chương 12 câu 13, “Ta sẽ Vượt Qua các ngươi… khi ta giáng hoạ trên đất Ai-cập”. Trong khi chữ Hy lạp pashcha, là nến tảng của từ Pasch hay Pascha. “Sách Xuất Hành chương 12 và 13 giải thích rằng: Lễ phát triển từ 3 cử hành riêng biệt: Hy Lễ Vượt Qua, tiệc bánh không men, và việc dâng con đầu lòng là nét riêng biệt của người Do thái trước đây và không liên quan gì đến việc trốn thoát khỏi Ai Cập” [2]. Những con vật đã được cạo lông, xẻ thịt để đem những phần ngon phục vụ cho bữa tiệc buổi lễ đó và phần thịt còn lại được dùng chuân bị cho bữa tối.
Theo Saldarini, “Lễ Vượt Qua bắt đầu như là một lễ hội mùa xuân giữa các mục đồng bán du mục trước khi người Do Thái tồn tại đã khá lâu. Nó tồn tại như một lễ hội của tôn giáo của người Do Thái kỷ niệm ngày thoát khỏi ách nô lệ tại Ai Cập. Và nó vẫn tồn tại trong các gia đình cũng như trong các hội đường ngày nay”[3]. Trước khi dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đã đánh phạt người Ai Cập bằng việc giết đứa con đầu lòng và các thú vật của người Ai Cập. Ngài đã hướng dẫn họ biết cách tránh cho đứa con khỏi cái chết cùng với các đứa con của người Ai cập, bằng cách phải giết một con cừu hoặc một con dê rồi lấy máu đó bôi lên cửa, để Thiên Chúa đi qua mà con cái họ sẽ không bị giết hại. Ông Mô se ghi nhận những lời truyền của Thiên Chúa rồi hướng dẫn lại dân chúng cho việc mừng lễ Vượt Qua trong tương lai.
Từ những gợi ý trong Cựu ước và lịch sử các tôn giáo, Saldarini đã sắp xếp lại hình thành một bản liệt kê nguyên thủy của lễ Vượt Qua. Hy lễ Vượt Qua dâng cho các vị thần minh để đảm bảo sự an toàn cho các đàn gia cầm đi lại an toàn từ thung lũng tới các cánh đồng cỏ triền núi đã được người Do Thái làm theo để kỷ niệm chuyến đi an toàn trong Isarel. Bữa tiệc Bánh không men đầu tiên ( một tuần mà người ta chỉ ăn bánh không men, để đánh dấu ngày bắt đầu mùa thu hoạch và cũng là để con người nhận ra mình phụ thuộc vào Thiên Chúa vì được ban cho đất đai màu mỡ.), tượng trưng cho việc bắt đầu cuộc sống mới. Câu chuyện kinh thánh qua việc thiếu men biểu trưng cho sự vội vàng rời khỏi Ai cập của người Do Thái.
Các loại hoa trái đầu mùa hay đứa con đầu lòng dâng cho Thiên Chúa để thừa nhận Thiên Chúa là Đấng ban ơn và là Đấng bảo vệ cho sự sống. Máu các con vật đầu lòng được dâng làm hiến tế được liên kết đến máu trong Hy Lễ Vượt Qua. Con người đã được ban tặng nhu cầu bảo vệ cho sự sống được tượng trưng qua những công việc họ làm, họ liên kết với những kinh nghiệm cụ thể trong lịch sử của dân Israel. Hành động trao ban sự sống và hành động bảo vệ sự sống trong đất Ai Cập của Thiên Chúa được liên kết hài hòa trong bữa tiệc Vượt Qua của người Do thái / tiệc Bánh không men [4]. Cùng với việc thống trị đền thờ, tiệc Vượt Qua đã thành một hy lễ long trọng tại Giêrusalem. Sau đó, qua việc tổ chức sắp xếp lại việc tế tự nơi đền thờ mà họ đã cho phá hủy hoặc xây dựng lại, thì lễ Vượt Qua đã trở thành ngày đầu tiên và quan trọng nhất của tuần lễ bánh không men và sau đó tên Vượt Qua đã được dùng để chỉ cả hai ngày lễ [5].
2. Lễ Vượt Qua thời Chúa Giê su
Vào thế kỷ I trước Công Nguyên, hy tế Vuợt Qua và bữa ăn chỉ diễn tại Giêrusalem vì con vật ( một con cừu hoặc một con dê ) phải bị giết trong Đến thờ. Sách Đệ nhị Luật đã mô tả là bữa tiệc của người Do Thái đã phải diễn ra tại Giêrusalem, là trung tâm chính trị và tôn giáo linh thiêng của đạo Do Thái. Lễ Vượt Qua là một ngày hội hành hương, đám đông dân chúng khắp các nơi trên đất nước Palestin tụ về để mừng lễ quan trọng nhất. Vào lúc 3 giờ, các linh mục bắt đầu thánh hiến các sinh vật không bị tì vết một năm tuổi, được các vị đứng đầu mỗi hộ gia đình đem tới khu vực Đền thờ. Các thầy Lê vi và các khách hành hương cùng hát thánh ca và thánh vịnh để ngợi khen và tạ ơn. Vào xế chiều, các gia đinh ăn bữa tiệc Vượt Qua. Tân Ước cho biết rằng Chúa Giêsu cũng đã lên Giêrusalem nhiều lần cùng với cha mẹ và cùng với các môn đệ của Ngài sau này. Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc các môn đệ đi tìm kiếm căn phòng để Thầy –Trò cùng nhau dùng bữa Vượt Qua tại đó. Chúa Giê su bảo môn đệ đi đến nhà một người đàn ông và hỏi mượn căn phòng đã được dọn sẵn để chuẩn bị cho bữa tiệc. Thông thường vì có nhiều người đến tụ về quá đông đến nỗi mà trong suốt thời gian lễ Vượt Qua, bữa tiệc có thể được ăn tại bất cứ nơi nào ở Giêrusalem hơn là chỉ tại Đền thờ. Tuyển tập các chú giải luật trong Kinh Thánh cho biết rằng các nhóm người đến ăn đông đủ, nên có thể ăn hết thịt con vật được sát tế. Vì thế, nhóm 10 đến 20 người tụ tập trong nhiều phòng đã thuê hay nhiều lều để nấu nướng và cùng ăn. Bữa ăn sẽ được ăn ngay khi trời tối, vì ngày của người Do Thái được bắt đầu khi mặt trời lặn. Lễ Vượt Qua bắt đầu vào buổi tối. Nhóm ăn các đồ ăn được qui định trong Kinh Thánh, đó là các phần thịt của con vật đã sát tế, thường là thịt cừu, bánh không men và rau đắng. Người ta uống rượu, vì thời điểm đó rượu là món uống thường được dùng. Bốn chén rượu là thiết yếu cho Nghi lễ tiệc vượt qua sau này, xuất phát từ việc dùng rượu trước đó. Tài liệu về các tập quán của lễ Vượt Qua thì sơ sài và một số tập quán đã thay đổi. Sách Xuất Hành nói rằng: khi ăn lễ Vượt Qua nên thắt đai lưng và đi giầy, cầm gậy trong tay và ăn vội vã. ( một mô phỏng bữa ăn cuối cùng trước khi rời khỏi Ai Cập ). Hơn nhiều thế kỷ, hình thức đã thay đổi và được nới lỏng; vì thế bây giờ nó là một lễ kỷ niệm nhàn nhã của gia đình. (Xinđọc Phụ lục I cho bữa ăn Seder Hiện Đại).
3. Nghi lễ tiệc Vượt qua
Từ “Seder” có nghĩa là “trật tự” trong tiếng Do thái. Nó có nghĩa là trật tự của nghi thức ( bao gồm việc cầu nguyện và nêu các biến cố ) của đêm đầu tiên của lễ Vượt Qua. Không chắc chắn là thứ tự của các biến cố nào được tuân thủ trong bữa tiệc Vượt Qua trong suốt thế kỷ đầu. Ngày càng nhiều hướng dẫn hoàn hảo hơn được tìm thấy trong “ dấu vết của Mishna có tên Pesachim kể từ cuối thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên; vì thế một vài thay đổi có thể có từ thời Đức Ki Tô”[6]. Có lẽ có những món khai vị như một món rau hoặc sà lách trộn giấm và một ít nước sốt tiếp theo sau là một chén rượu. Một phép lành trên bánh sẽ khởi đầu cho bữa ăn chính thức. Sau bữa ăn, người ta uống thêm một chén rượu. Những phép lành này là dịp công bố về Chúa Giêsu. Sau bữa ăn, người ta nói về ý nghĩa ngày lễ hoặc câu chuyện liên quan đến lễ Vượt Qua lần đầu tiên. Người ta hát các bài Thánh ca và thánh vịnh để ca tụng Thiên Chúa là Đấng giải thoát, đem họ ra khỏi đất Ai Cập. Ngay sau khi hát các thánh vịnh, người ta uống ly rượu cuối cùng. Đối với người Do Thái, bữa tiệc Vượt Qua giúp họ nhận thức lại họ là hậu duệ của Abraham, đã được Thiên Chuá cứu đưa ra khỏi Ai Cập, được Môi sê dẫn dắt cũng như được ban cho đất sống và cách sống. Điều đó bao gồm sự hy sinh, máu, bánh mì và cả khái niệm về cái chết. “ Thiên Chúa là trọng tâm của các lời kinh nguyện và các lễ nghi. Trong quá khứ, Thiên Chúa đã cứu dân Israel, Ngài chăm sóc họ trong hiện tại và sau cùng sẽ cứu chuộc họ trong ngày sau hết”[7]. Chúa Giêsu đã cử hành lễ Vượt Qua và dùng những yếu tố này để lập ra một nghi thức mới – Bí Tích Thánh Thể- và sau này trở thành Chiên Vượt Qua.
Lễ Vượt Qua là một lễ hội bao gồm rất nhiều lễ nghi được nói đến trong Ngũ thư. Lễ nghi này đã được các giáo sĩ Do Thái thêm thắt và rồi lại mở rộng do các tập quán địa phương. Tuyển tập các chú giải luật trong Kinh Thánh, việc biên soạn luật và qui định của người Do Thái lui ngày lại tới năm 200 sau Công Nguyên. Việc phá hủy đền thờ La Mã vào năm 70 sau Công Nguyên mang ý nghĩa: không có một hy tế nào khác được thực hiện tại Giêrusalem. Tuyển tập các chú giải luật trong Kinh Thánh cho rằng lễ Vượt Qua có thể được tổ chức mừng mà không cần đến hy lễ đã hình thành nên trung tâm điểm của bữa ăn, một thay đổi lớn trong tập quán cổ truyền của người Do Thái. Vì các Giáo sĩ Do Thái giáo đã đua việc nghiên cứu Kinh Thánh và lề luật làm trọng tâm của lối sống và việc thờ phượng (Việc giải thích Kinh Thánh theo Midrashic được đưa thêm vào ở những điểm đặc biệt), điểm cốt lõi của buổi lễ trở thành việc giải thích chương 26 sách Đệ Nhị Luật là Thiên Chúa đã cứu dân Israel như thế nào. “Vì vậy điều quan trọng là cuốn Kinh thánh này chú giải rằng lễ Nghi lễ tiệc Vượt Qua thường được gọi là lễ Vượt Qua Haggada. Haggada là giải thích phần Kinh Thánh không mang tính luật lệ, giải thích phần trình thuật trong Kinh Thánh”[8].
Theo Saldarini, bữa tiệc lễ Vượt Qua Seder cho nhiều yếu tố tương tự như việc thờ phượng của các Ki Tô hữu. “Sự cứu rỗi và cứu chuộc là trọng tâm, và bánh là biểu tượng chủ yếu. Kinh Thánh được đọc, được ghi nhớ và được sống động qua việc tham dự của cộng đồng. Việc cầu nguyện và cử hành nghi thức nhắm đến lòng thương của Thiên Chúa trong quá khứ và sự quan phòng của Ngài trong tương lai” [9]. Bữa tiệc Lễ Vượt Qua Seder kết hợp và tích hợp nhiều khía cạnh về niềm tin cũng như cuộc sống thực tế của người Do Thái. Những lời nói và hành động diễn tả sự việc đã xảy ra trong lễ Vượt Qua đầu tiên, và những gì mà người Do Thái đã làm kể từ đó. Bánh không men và rau diếp đắng biểu trưng cho sự nguy hiểm và đau khổ mà dân Israel đã gặp phải bên Ai Cập, cũng như là biểu trưng cho niềm hy vọng về việc cứu rỗi.
4. Lễ Vượt Qua trong Kinh Thánh
Cốt lõi của niềm tin Ki Tô Giáo là tin vào Chúa Giê su chết để chuộc tội cho con người, và sự Phục Sinh của Ngài đã cho chúng ta một cuộc sống mới được lớn lên trong niềm tin của người Do Thái. Các Ki Tô hữu đầu tiên đã liên kết những giờ phút cuối cùng của Chúa Giê su với việc kỷ niệm lễ Vượt Qua, và họ sử dụng những biểu tượng và ám chỉ để hiểu về những việc làm của Chúa Giê su. Trong việc thờ phượng hàng ngày, họ đọc Cựu Ước tiên báo về sự xuất hiện của Chúa Giê su, một Đâng Cứu thế.
Trong 4 cuốn Tin Mừng, có nhiều câu chuyện và lời dạy khác nhau về Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Nhất lãm, chúng ta tìm thấy nhiều sự liên quan đến lễ Vượt Qua trong câu chuyện nói về cái chết của Chúa Giê su và các biến cố quanh vấn đề đó. Chúa Giê su và cha mẹ của Ngài đã từng lên Gierusalem để mừng lễ Vượt Qua và các ngày lễ khác. Khi lên 12 tuổi, Chúa Giê su đã ở lại còn cha mẹ Ngài thì trở lại Nazaret. Sau đó, 2 ông bà đã quay lại tìm và thấy Ngài ngồi giữa các luật sĩ và đang trả lời các vấn đề một cách thông minh. ( Lc.2,41-50). Ngài giải thích cho bà Maria và ông Giuse biết về sự thất lạc của mình, là Ngài còn phải thi hành công việc do Cha Ngài trao phó.
Khởi đầu sứ vụ của mình ( ngay sau khi dự tiệc cưới tại Cana ), Chúa Giê su lại quay về Gierusalem để mừng lễ Vượt Qua. Ngài thấy người ta buôn bán những con vật để làm hiến tế và đổi tiền trong khuôn viên đền thờ. Ngài đánh đuổi họ và nói nhà của Cha Ngài không phải là nơi họp chợ. Tuy nhiên, việc buôn bán được chấp nhận ở vùng đất chung quanh Đền thờ., và thậm chí cần thiết cho những người bán những vật làm hy tế 10 ( Mc. 11,11, 15-17; Mt. 21, 12-13; Lc. 19,45-46; Ga. 2, 13-22). Trong chương 6 Tin Mừng Thánh Gioan, chúng ta thấy Chúa Giê su đi chung quanh biển Galilee ngay trước ngày lễ Vượt Qua. Ngài làm phép hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông người đến nghe Ngài giảng dạy. Ngài làm phép lạ lần thứ hai khi đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ.
Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê su đã dùng bữa cùng các môn đệ ( lễ Vượt Qua cuối cùng ) vào đêm trước lễ Vượt Qua và chịu đóng đinh vào ngày thứ nhất của lễ Vượt Qua. Điều cuối cùng thực sự khó khăn này đã làm các nhà nghiên cứu đến chỗ đặt vấn đề về các niên đại của Tin Mừng Nhất lãm nói chung, và Thánh sử Marco nói riêng; đồng thời truy vấn xem có phải chính Nghi lễ tiệc Vượt Qua, Chúa Giê su đã ở cùng các môn đệ hay chỉ làm một Lời chúc tụng (một phép lành trên bánh và rượu trong ngày Sabbath) [11]. Các nhà văn tôn giáo cho rằng các biến cố cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giê su thực hiện diễn ra trong khoảng thời gian 24 giờ từ bữa Tiệc ly tới đóng đinh trước ngày lễ Sabbath. Chúa Giê su đã sai 2 môn đệ vào thành Giêrusalem tìm một người đàn ông đặc biệt mà Thầy trò sẽ cùng nhau mừng lễ Vượt Qua tại nhà ông ta. Người đàn ông này có một căn phòng riêng trên lầu đã chuẩn bị sẵn vào việc dùng tiệc. Chắc chắn rằng thành phố có rất đông người tụ tập về, và không có phòng nào ở khu vực đền thờ có thể dùng vào việc tổ chức tiệc được.Các trình thuật Tin Mừng không nói gì về các chi tiết của bữa tiệc, thậm chí cũng không đề cập đến món thịt cừu nướng. Chúng ta không thấy nhóm người đi hiến tế một con vật nào. Không một ai đọc hay thuật lại chuyện dân di cư hay đặt câu hỏi. Sloyan đã viết những lời bình trong sách Lễ Vượt Qua trong Kinh Thánh: “Các nhà truyền giáo không nói về vấn đề thịt cừu trong lễ Vượt Qua, có lẽ bởi vì nó không có nằm trong một nghi thức Ki Tô Giáo nào”[12]. Chắc chắn rằng, việc phá hủy đền thờ Giêrusalem và đền thờ đã thay đổi việc cử hành lễ Vượt Qua. Thứ hai, là bản thân Chúa Giê su đã thay cho chiên hiến tế, tức là thành Con Chiên Thiên Chúa và là trung tâm của Tam Nhật Thánh Phục Sinh.
Những gì chúng ta đọc về bữa tiệc Lễ Vượt Qua Seder thì rất ít. Có bánh mì và rượu dọn sẵn trên bàn và có những ghế mà người ta có thể dựa ngữa. Ngoài ra còn có một cái đĩa dùng để đựng bánh. Trong các Tin Mừng (Ga.13,26; Mt.26,24; Mc.14,22; và Mt. 26.25; Lc.22,19) ghi nhận rằng Chúa Giê su làm phép bánh (tạ ơn Thiên Chúa, theo Thánh sử Luca ), rồi bẻ ra và nói: “ Đây là mình Thầy”. Thánh Luca thêm, “. .. .vì các con. Hảy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong Nghi lễ tiệc Vượt Qua, có Mozi Mazzah là lời chúc tụng trên bánh không men đã được phân phát cho người tham dự cùng ăn. Chúa Giê su cầm lấy ly rượu (nước ép của trái nho), đọc lời tạ ơn, đưa cho các môn đệ và nói: “…Đây là máu giao ước của tôi đổ ra cho nhiều người..”. Thánh sử Matheu thêm: “…cho nhiều người được tha tội..” (Mt.26,28), trong khi đó Thánh sử Luca nói: “ Chén này đổ ra cho anh em là Giao ước mới trong máu Thày” (Lc.22,20). Chén này tương ứng với lời Chúc tụng sau các bữa ăn được nói trên ly rượu thứ ba. Chỉ có thánh sử Marco đề cập tới việc hát các thánh vịnh Hallel có lẽ là vào cuối bữa ăn và trước khi cả nhóm lên núi Olives (Mc.14,26). Từ khi Chúa Giê su nói rằng Ngài sẽ không uống rượu cho đến lúc Ngài uống cùng các môn đệ tại Vương quốc mới. Ngài đã không uống chén rượu thứ tư sau khi hát tiếp Hallel (tức hát tiếp Tv.114-117).
Đêm Vọng Phục sinh phát sinh từ những qui định trong Kinh thánh cho nghi lễ Vượt Qua. Người Do Thái đã chờ đợi thâu đêm khi Thiên Chúa giết các con đầu lòng của người Ai Cập. Cuối cùng Pharaoh đã phải đống ý cho dân Do thái ra đi; và người dân Israel vẫn thức đêm để cầu nguyện tôn vinh Thiên Chúa trong đêm đó.
5. Lễ Phục Sinh thời kỳ đầu của Ki Tô giáo
Tuần Thánh đã không được tổ chức trong thế kỷ đầu và đầu thế kỷ thứ hai. Một buổi lễ Phục Sinh độc lập bắt đầu vào thế kỷ thứ hai. Việc rửa tội theo nghi thức mới vào buổi cầu nguyện đêm thứ bảy bắt đầu vào thế kỷ thư ba. Nước tượng trưng cho quyền năng cứu độ của Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ tới miền đất tự do và trở nên một Dân Thánh, và sau này nước chảy từ cạnh sườn Chúa Giê su để giải phóng họ khỏi ách tội lỗi. Nước rửa tội lau sạch các vết nhơ do tội đồng thời làm cho con người nên mới và giải thoát con người khỏi ách tội lỗi. Thứ sáu Tuần Thánh bắt đầu vào thế kỷ thứ tư.
Các Ki tô hữu tiên khởi sống tại Gierusalem cho đến năm 70 sau Công Nguyên đã mừng lễ Vượt Qua và dùng bữa tối sau đó theo cách thông thường. Dù chúng ta không có những bằng chứng trực tiếp, nhưng theo Sadarini cho rằng chắc chắn người Ki tô hữu đã đưa thêm vài nghi thức để kỷ niệm ngày Chúa Giê su chịu chết và sống lại đống thời hồi tưởng lại bữa ăn cuối cùng như là lễ Vượt Qua. Hai mươi năm sau ngày Chúa Giê su chịu chết đã có nhiều dân ngoại trở thành Ki Tô hữu. Những người không phải Do thái này đã không giữ luật của Do Thái cũng như không tuân giữ các ngày lễ. Tuy nhiên họ cũng đã hiểu về lễ Vượt Qua và ý nghĩa của ngày lễ đó. Trong thư gửi tín hữu Corinto ( 1.Cor.5,6-8), Thánh Phao lô có đề cập đến tạp tục dùng bánh không men ( lễ bánh không men ) và Chúa Giê su như là Hiến Tế Vượt Qua.
Các Ki Tô hữu gốc Do thái, các tín đồ phái Duy bần và phái Nazia tận hiến cho Giavê, của thế kỷ thứ hai bị các nhà lãnh đạo Giáo Hội coi là dị giáo. Họ bảo thủ về cách sống rất Do Thái và tuân giữ luật Môi se, do đó họ bác bỏ lời dạy của thánh Phao lô. Họ tuân thủ nghiêm nghiêm ngặt giữ ngày Sabbath, họ hướng mặt về Giêrusalem khi cầu nguyện, dùng bánh không men và nước để cử hành Bí Tích Thánh Thể. Họ thừa nhận Chúa Giê su là Đấng Messiah và là tiên tri chứ không phải là Thiên Chúa. Nhóm này vẫn còn tồn tại tới thế kỷ thư tư, đặc biệt tại Syria. Tại Syria và Tiểu Á, trong suốt 2 thế kỷ đầu, nhiều tín hữu Ki tô giáo đã mừng lễ Vượt Qua Ki Tô giáo đồng thời gian với lễ Vượt Qua của người Do Thái, bắt đầu vào ngày thứ 14 tháng Nisan. Các Quartodecimans (tiếng Latinh có nghĩa là:“các Ngày Mười bốn Nisan) đã không ăn mừng lễ Vượt Qua của người Do Thái, mà nhịn ăn để tưởng nhớ về cái chết của Chúa Giê su. Họ đọc những câu truyện được ghi ở chương 12 trong sách Xuất Hành. Vào sáng sớm ngày thứ 15, họ dùng bữa Bữa Tiệc Ly. Đây là những tài liệu xưa nhất mà chúng ta có được về mừng lễ Chúa Giê su sống lại của các Ki tô hữu.
Vào cuối thế kỷ thứ 2, ĐGH Victor I chính thức đặt 1 ngày lễ Chúa Nhật. Ngài đã chấm dứt việc cử hành các nghi thức Quartodecimans về việc mừng sự thương khó và sống lại của Chúa Giê su trong Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Mặc dù có sự ủng hộ của các văn sĩ lỗi lạc Ki Tô giáo, nhưng việc cử hành lễ Vượt Qua của Ki tô Giáo phương Đông đã dần dần không còn phổ biến trong khoảng 2, 3 thế kỷ tiếp theo nữa, vì các tập tục và lễ nghi của Giáo Hội phương Tây đã được phổ biến. Đến thế kỷ thứ 2, Lễ Chúa Nhật Phục Sinh đã được biết đến ở Roma và những nơi khác. Sang đến thế kỷ thứ 3,4 ngày lễ Phục Sinh được cả Giáo Hội Công Giáo Tây phương và Đông phương cử hành.
Lễ Vượt Qua của người Do Thái và Ki Tô giáo đã có ảnh hưởng lớn đến mừng lễ Chúa Nhật Phục Sinh, đầu tiên là bằng việc đón mừng lễ và ăn chay. Những bài đọc và lời cầu nguyện đã được đưa thêm các chi tiết. Ánh sáng của ngọn nến duy nhất để xua tan bóng đêm tượng trưng cho Chúa Giê su, Ánh Sáng của Trần Gian, đã khuất phục xua tan bóng đêm của tội ác. Các bài đọc sách Xuất hành dùng trong lê Vượt Qua của Ki tô giáo đã được đưa thêm vào. Phụng vụ thánh lễ ngày nay gồm 7 bài đọc Cựu ước gồm sách Xuất hành và sách tiên tri Ezekiel, nói về việc Thiên Chúa sẽ cứu Dân Người thoát khỏi ách lưu đầy, và thanh tẩy họ khỏi tội lỗi và sự bất tuân phục, qua Chúa Giêsu [13]. Trong thế kỷ thứ 3, Mùa Phục Sinh đã được mở rộng đến ngày Thăng Thiên (lễ Thất tuần của người Do Thái, hay là Lễ Tuần – còn gọi là Lễ vật hoa trái đầu mùa – năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua. Cả lể Vượt Qua và lễ lễ Thất tuần, (tiếng Hy lạp là pentekoste = ngày thứ năm mươi = lễ Ngũ tuần = mỗi tuần 10 ngày) đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Ban Ơn cho loài người, và là Chúa của mọi thời như đã được ghi trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl.26, 1-11) Các Ki Tô hữu đầu tiên đã chấp nhận ngày lễ 50 ngày này và đã tạo cho nó một nét đặc trưng hoàn toàn mới qua việc mừng Chúa chịu chết, sống lại rồi gửi Thánh Thần Ngôi Ba tới, đồng thời sáng lập Giáo Hội. Cũng như người Do thái đã được soi dẫn bởi cột lửa thì người Ki Tô hữu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và soi sáng [14].
Kết luận
Phụng Vụ lễ Phục Sinh bắt nguồn từ Phụng Vụ Lễ Vượt Qua.Ý nghĩa thần học của việc mừng lễ của cả hai đều giống nhau: Thiên Chúa đã dần dắt và giải cứu dân Israel cũng như Chúa Giê su đã cứu chuộc chúng ta. Lễ Vượt Qua đánh dấu sự hình thành dân Do Thái là một dân tộc thống nhất, một dân tộc được chọn để đi về Đất Hứa. Lễ Tam Nhật Thánh Phục Sinh đánh dấu sự bắt đầu của Ki Tô Giáo, nơi mà lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa được thực hiện qua cái chết của Chúa Giê su để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và cho chúng ta bước vào Vương Quốc của Thiên Chúa là Nước Trời.
Chú thích:
[1] Saldarini, Anthony J., JESUS and PASSOVER, page 1.
[2] Saldarini, page 5-6.
[3] Saldarini, page 3.
[4] Saldarini, page 7-8.
[5] Saldarini, page 15.
[6] Sloyan, Gerard s, The Paschal Feast in the Bible, page 95.
[7] Saldarini, page 50.
[8] Saldarini, page 42.
[9] Saldarini, page 43.
[10] Saldarini, page 73.
[11] Bowman, John, The Gospel of Mark, page 258-259.
[12] Sloyan, Gerard S., The Paschal Feast in the Bible, page 97.
[13] Saldarini, page 111-112.
[14] Ellebracht, Mary Pierre, The Easter Passage, page 202-203.