Từ 6 quốc gia sáng lập ban đầu là Bỉ, Pháp, Tây Đức, Ý, Lục Xâm Bảo và Hà Lan, Liên Hiệp Âu Châu ngày nay gồm có 28 quốc gia thành viên, trải dài trên một diện tích rộng 4,475,757 cây số vuông với một dân số lên đến 510 triệu dân.
Nghị trình trong cuộc họp tại Rôma của các nhà lãnh đạo Âu Châu sẽ bao gồm việc thảo luận về tương lai của Liên minh trong 10 năm tới, sự rút lui của Anh, những chấn thương tài chính lặp đi lặp lại, làn sóng di cư và chủ nghĩa mị dân đang gia tăng nhanh chóng.
Lúc 6h chiều, tại phòng họp Sala Regia trong dinh Tông Tòa của Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo Âu Châu và đọc một diễn từ quan trọng nói lên quan điểm của Tòa Thánh về tương lai của đại lục này.
Sau diễn từ chào mừng Đức Thánh Cha của ông Paolo Gentiloni, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Italia, và ông Antonio Tajani, Chủ tịch Quốc hội Châu Âu, Đức Thánh Cha nói:
Kính thưa quý vị,
Tôi cảm ơn quý vị đã có mặt tại đây vào tối nay, trước khi kỷ niệm 60 năm ngày ký Hiệp định thành lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử Châu Âu. Tôi xin chuyển đến mỗi người trong quý vị tình yêu của Tòa Thánh đối với các quốc gia và cho toàn thể Châu Âu. Tương lai của Tòa Thánh, theo sự quan phòng của Chúa được liên kết không thể tách rời đối với lục địa này. Tôi đặc biệt biết ơn ông Paolo Gentiloni, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Italia, vì những lời chào mừng danh dự nhân danh quý vị, và vì những nỗ lực mà Italia đã thực hiện để chuẩn bị cho cuộc họp này. Tôi cũng cảm ơn Ngài Antonio Tajani, Chủ tịch Quốc hội Châu Âu, là người đã bày tỏ khát vọng của người dân trong Liên Hiệp Âu Châu vào dịp kỷ niệm này.
Quay lại Kinh Thành Rôma, sáu mươi năm sau, không thể chỉ đơn thuần là một sự tưởng nhớ những điều trong quá khứ nhưng còn là một biểu hiện cho mong muốn làm sống lại lại sự kiện đó ngõ hầu đánh giá cao tầm quan trọng của nó đối với hiện tại. Chúng ta cần phải đắm mình trong những thách thức của thời điểm lúc bấy giờ, để có thể đối mặt với những thách thức của ngày hôm nay và ngày mai. Kinh thánh, với những câu chuyện lịch sử phong phú, có thể dạy cho chúng ta một bài học cơ bản. Chúng ta không thể hiểu được thời đại của chúng ta một cách tách biệt với quá khứ, coi quá khứ chỉ là một tập hợp các sự kiện xa xôi, vì thực ra quá khứ là bạch huyết cầu cho cuộc sống hiện tại. Không nhận thức như thế, thực tế mất đi sự thống nhất của nó, lịch sử mất đi luận lý xuyên suốt của nó, và nhân loại mất đi cảm thức về hoạt động và tiến bộ của nó hướng về tương lai.
Ngày 25 tháng 3 năm 1957 là một ngày đầy những hy vọng, mong đợi, nhiệt tình và háo hức. Chỉ những sự kiện nào có ý nghĩa ngoại thường và đem đến những hệ quả lịch sử mới có thể trở nên độc đáo trong lịch sử loài người. Ký ức của ngày hôm đó liên quan đến những hy vọng ngày hôm nay và sự mong đợi của người dân Châu Âu, là những người đang kêu gọi một sự biện phân trong hiện tại, để cuộc hành trình đã được bắt đầu có thể tiếp tục với một nhiệt tình và một sự tự tin mới.
Điều này là rất rõ ràng đối với những người khai sáng và các nhà lãnh đạo, là những người đã ký kết hai Hiệp ước hình thành nên thực tại chính trị, kinh tế, văn hoá và nhân bản mà ngày nay chúng ta gọi là Liên minh châu Âu. Như P.H. Spaak, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bỉ đã nói, “đúng là, chúng ta nhắm đến một sự thịnh vượng vật chất của người dân, mở rộng nền kinh tế, các tiến bộ xã hội và các khả năng thương mại và công nghiệp hoàn toàn mới, nhưng trên hết là chúng ta hướng đến việc hoài thai một cuộc sống nhân bản, huynh đệ và công bình.[1]
Sau những năm đen tối và đổ máu của Thế chiến thứ hai, các nhà lãnh đạo thời đó đã tin tưởng vào khả năng có được một tương lai tốt đẹp hơn. “Họ không thiếu sự dũng cảm, cũng không hành động quá muộn. Ký ức về những bi kịch và thất bại vào thời điểm đó dường như đã truyền cảm hứng cho họ và mang đến cho họ một sự can đảm cần thiết để bỏ lại đằng sau những tranh chấp cũ giữa họ với nhau để có thể tư duy và hành động theo một phương thế hoàn toàn mới mẻ, hầu có thể mang lại sự chuyển đổi lớn nhất.. . của Châu Âu.”[2]
Những người khai sáng nhắc nhở chúng ta rằng châu Âu không phải là tập hợp các quy tắc phải tuân theo, hoặc một cuốn kim chỉ nam hướng dẫn về các quy trình và thủ tục phải được thực hiện. Đó là một lối sống, một cách để hiểu con người dựa trên phẩm giá siêu việt và bất khả nhượng của họ, như một cái gì đó không chỉ đơn giản là một tổng hợp các quyền cần phải được bảo vệ hoặc những đòi hỏi cần phải được thăng tiến. Nơi căn cội của ý tưởng về châu Âu, chúng ta thấy “bản chất và trách nhiệm của con người, với sự lên men của tình huynh đệ được đề cập trong Kinh Thánh..., cùng với ước vọng về chân lý và công lý, được tôi luyện trong những kinh nghiệm hàng ngàn năm”[3] Rôma, với ơn gọi của nó về tính phổ quát, [4] tượng trưng cho kinh nghiệm đó và do đó đã được chọn làm nơi ký kết Hiệp ước. - Như Bộ trưởng Ngoại giao Hà Lan, J. Luns, đã nhận xét - Rôma “đã đặt nền tảng chính trị, pháp lý và xã hội cho nền văn minh của chúng ta”.[5]
Rõ ràng, ngay từ đầu, trái tim của dự án chính trị châu Âu chính là con người. Rõ ràng rằng các Hiệp Ước có thể vẫn chỉ là những văn bản chết nếu chúng không có sinh khí. Yếu tố đầu tiên của sức sống châu Âu chính là tình đoàn kết. Như Thủ tướng Lục Xâm Bảo, J. Bech nói, “cộng đồng kinh tế châu Âu sẽ chỉ có thể tồn tại lâu dài và thành công nếu nó liên tục trung thành với tinh thần đoàn kết châu Âu đã tạo ra nó, và nếu ý chí chung của châu Âu được chứng minh là mạnh mẽ hơn ý chí của từng quốc gia”. [6] Tinh thần đó vẫn còn cần thiết ngày nay, khi chúng ta đối diện với các xung động ly tâm và sự cám dỗ để hạ giảm các lý tưởng sáng lập ra Liên minh vào các nhu cầu về sản xuất, kinh tế và tài chính mà thôi.
Đoàn kết tạo ra sự cởi mở đối với người khác. Thủ tướng Đức K. Adenauer nói: “Kế hoạch của chúng tôi không phải vì lợi ích cá nhân”[7]. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp, C. Pineau, đã lặp lại quan điểm này: “Chắc chắn các nước thống nhất.. . không có ý định cô lập mình khỏi phần còn lại của thế giới và vây quanh mình bằng những rào cản không thể vượt qua được”[8]. Trong một thế giới đã quá quen thuộc với bi kịch của các bức tường và những chia rẽ, điều quan trọng là phải hoạt động cho một Âu Châu thống nhất và mở rộng, và phải loại bỏ những hàng rào không tự nhiên chia cách châu lục này từ biển Baltic đến Adriatic. Những nỗ lực đã được thực hiện để phá bỏ bức tường đó! Tuy nhiên, ngày hôm nay ký ức về những nỗ lực đó đã bị lãng quên. Bi kịch của các gia đình bị chia cắt, của nghèo đói và lầm than phát sinh từ sự chia rẽ đó cũng bị quên lãng. Ở những nơi mà các thế hệ đang mong muốn được thấy sự sụp đổ của những dấu chỉ thù hằn, thì ngày này chúng ta lại tranh luận làm thế nào để tránh né “những nguy hiểm” của thời đại: bắt đầu với những hồ sơ dài các phụ nữ, những người đàn ông và các trẻ em đang chạy trốn chiến tranh và đói nghèo, là những người chỉ mong tìm kiếm được một tương lai cho bản thân và người thân của họ.
Trong thời đại đánh mất ký ức hôm nay, chúng ta thường quên đi một thành tựu to lớn khác của tình đoàn kết đã được phê chuẩn ngày 25 tháng 3 năm 1957: đó là thời kỳ hòa bình dài nhất trải qua nhiều thế kỷ. “Những người theo thời gian thường thấy mình trong các phe đối lập, chiến đấu chống lại nhau.. . bây giờ thấy mình thống nhất và được làm giàu bằng các đặc tính quốc gia đặc thù của họ”.[9] Hòa bình luôn là kết quả của sự đóng góp tự do và ý thức của tất cả mọi người. Tuy nhiên, “đối với nhiều người ngày nay, hòa bình xuất hiện như là một phước lành xem ra là đương nhiên”, [10] đến mức nhiều người xem thường nó. Nhưng thực ra, hòa bình là một điều tốt đẹp, quý giá và cần thiết, nếu không có hòa bình, chúng ta không thể xây dựng một tương lai cho bất cứ ai, và chúng ta sẽ lâm vào tình cảnh “sống ngày nào biết ngày ấy thôi”.
Dù là lần đầu tiên được thai nghén ra, Liên Hiệp Âu Châu đã được sinh ra từ một dự án rõ ràng, được xác định cẩn thận và được cân nhắc kỹ lưỡng. Mỗi dự án có giá trị đều hướng đến tương lai, và tương lai là của những người trẻ, là những người được kêu gọi thực hiện những hy vọng và hứa hẹn của mình.[11] Những người khai sáng đã có một cảm thức rõ ràng là các nỗ lực chung không phải chỉ vượt qua biên giới các quốc gia mà thôi, nhưng còn phải vượt qua cả biên giới thời gian, để gắn kết các thế hệ với nhau, tất cả đều chia sẻ trong việc xây dựng ngôi nhà chung.
Kính thưa quý vị,
Tôi đã dành phần đầu trong bài nói chuyện để nói về những người đã khai sáng ra Châu Âu, để chúng ta có thể bị thách thức bởi những lời nói của họ, về tính kịp thời trong tư duy của họ, lòng khao khát theo đuổi công ích của họ, lòng xác tín của họ trong việc chia sẻ một công cuộc vượt quá mỗi người trong chính họ, và chiều kích của những lý tưởng đã truyền cảm hứng cho họ. Mẫu số chung của họ là tinh thần phục vụ, kết hiệp với niềm đam mê chính trị và ý thức rằng “nguồn gốc của nền văn minh châu Âu có tính Kitô giáo”, [12] nếu không có tính chất này thì những giá trị về phẩm giá, tự do và công lý của phương Tây sẽ là những điều không thể hiểu nổi. Như thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Cả ngày nay, linh hồn của Âu Châu vẫn thống nhất, bởi vì, ngoài nguồn gốc chung của nó, những giá trị Kitô và nhân bản giống nhau vẫn sống động. Sự tôn trọng phẩm giá con người, ý thức sâu xa về công lý, tự do, siêng năng, tinh thần sáng kiến, tình yêu gia đình, tôn trọng cuộc sống, khoan dung, mong muốn hợp tác và hoà bình: tất cả đều là những dấu chỉ đặc thù của nó” [13] Trong thế giới đa văn hóa của chúng ta, những giá trị này sẽ tiếp tục có vị trí chính đáng của chúng nếu chúng tiếp tục duy trì mối quan hệ sống còn với nguồn gốc sâu xa của mình. Kết quả của sự kết nối này sẽ giúp xây dựng các xã hội “thế tục” thực sự, không có những mâu thuẫn ý thức hệ, với không gian bình đẳng cho người bản xứ và người nhập cư, cho những tín hữu và những người không tin.
Thế giới đã thay đổi rất nhiều trong sáu mươi năm qua. Nếu những người khai sáng ra Cộng Đồng Âu Châu, sau khi sống sót qua một cuộc xung đột tàn hại, đã được truyền cảm hứng bởi niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn và quyết tâm theo đuổi nó bằng cách tránh những xung đột mới, thì thời đại của chúng ta lại đang bị chi phối bởi khái niệm khủng hoảng. Chúng ta có cuộc khủng hoảng kinh tế ghi đậm dấu vết trong thập kỷ qua; cùng với cuộc khủng hoảng gia đình và các mô hình xã hội; chúng ta cũng có “một cuộc khủng hoảng các định chế” ngày lan rộng và cuộc khủng hoảng người di cư. Nhiều cuộc khủng hoảng gây ra lo sợ và hoang mang sâu sắc trong con người thời nay, là những người đang hoài mong một tầm nhìn tương lai mới. Tuy nhiên thuật ngữ “khủng hoảng” không nhất thiết là tiêu cực. Nó không chỉ đơn giản chỉ ra một khoảnh khắc đau đớn phải chịu đựng. Từ “khủng hoảng” có nguồn gốc từ động từ Hy Lạp kríno, nghĩa là biện phân, cân nhắc, và đánh giá. Thời đại của chúng ta hiện nay là khoảng thời gian của biện phân, một khoảng thời gian trong đó chúng ta được mời gọi xác định điều gì là thiết yếu để xây dựng trên đó. Đó là thời gian của thách đố và cơ hội.
Như thế, chìa khóa giải nghĩa cho việc đọc những khó khăn của hiện tại và tìm kiếm câu trả lời cho tương lai là gì? Trở lại với tư duy của các vị khai sáng sẽ không mang lại kết quả nào trừ phi nó có thể giúp chỉ ra một con đường và tạo ra động lực để đối diện với tương lai và đem lại một nguồn hy vọng. Khi một cơ thể mất đi cảm giác định hướng và không còn có thể nhìn về phía trước, nó sẽ trải qua một sự hồi quy và, về lâu dài, có nguy cơ chết dần mòn. Vậy thì cái gì là di sản của những người khai sáng? Đâu là những tiềm năng các vị đã chỉ ra để chúng ta có thể vượt qua những thách thức phía trước? Họ hy vọng gì cho châu Âu của ngày hôm nay và ngày mai?
Câu trả lời của họ được tìm thấy chính xác trong các trụ cột mà họ quyết tâm xây dựng cộng đồng kinh tế châu Âu. Tôi đã đề cập đến những điều này: đó là vị trí trung tâm của con người, sự liên đới hiệu quả, sự cởi mở với thế giới, theo đuổi hoà bình và phát triển, cởi mở với tương lai. Những người cai trị có trách nhiệm tìm hiểu những con đường hy vọng, xác định những cách thức cụ thể để bảo đảm rằng các bước đi quan trọng được thực hiện; những nỗ lực đó đến nay vẫn chưa hề bị lãng phí, nhưng chúng là những cam kết cho một cuộc hành trình dài và hiệu quả.
Châu Âu tìm thấy niềm hy vọng mới khi con người là trung tâm và trái tim các định chế của nó. Tôi tin rằng điều này đòi hỏi một sự sẵn sàng lắng nghe chu đáo và tin tưởng những mong đợi mà các cá nhân, xã hội và các dân tộc hình thành nên Liên Hiệp Âu Châu đã và đang lên tiếng. Đáng buồn thay, người ta thường có cảm giác rằng “sự chia rẽ” đang gia tăng giữa các công dân và các cơ quan của châu Âu, thường được coi là cách biệt với dân chúng và không chú ý đến những cảm giác khác nhau hiện diện trong Liên minh. Xác nhận tính trung tâm của con người cũng có nghĩa là khôi phục lại tinh thần gia đình, theo đó mỗi người đều tự do chia sẻ với gia đình theo khả năng và tài năng của mình. Điều này giúp ghi nhớ rằng châu Âu là một gia đình các dân tộc [14] và - như trong mỗi gia đình tốt - có những mức độ nhạy cảm khác nhau, nhưng tất cả đều có thể phát triển trong một sự hiệp nhất. Liên minh châu Âu được sinh ra như một sự thống nhất các khác biệt và một sự thống nhất trong sự khác biệt. Sự khác biệt không nên là một lý do gây ra sợ hãi, cũng không nên nghĩ rằng sự thống nhất được duy trì bởi tính đồng nhất. Sự thống nhất là một sự hòa hợp trong một cộng đồng. Các vị khai sáng đã chọn thuật ngữ đó làm dấu ấn cho các cơ quan phát sinh ra từ các Hiệp Ước và họ nhấn mạnh rằng các nguồn lực và tài năng của mỗi người hiện đang được tập hợp lại. Ngày nay, Liên minh Châu Âu cần khôi phục ý thức chủ yếu như là “cộng đồng” của con người và các dân tộc, để nhận ra rằng “toàn thể lớn hơn một phần, nhưng nó cũng lớn hơn tổng các phần của nó” [15] và do đó “chúng ta phải liên tục mở rộng tầm nhìn của mình để nhìn thấy những lợi ích lớn hơn sẽ đem lại lợi ích cho tất cả chúng ta” [16]. Những người khai sáng đã tìm kiếm sự hài hòa trong đó toàn thể có mặt trong mỗi bộ phận, và các bộ phận - theo cách riêng của nó - đều có trong toàn bộ.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới trong tình đoàn kết, đây cũng là loại thuốc giải độc hiệu quả nhất cho các hình thái mỵ dân hiện đại. Đoàn kết đòi hỏi phải nhận thức được mình là thành viên của một cơ thể duy nhất, trong khi đồng thời có khả năng chia sẻ thông tin với mọi người và với toàn thể. Khi một người đau khổ, tất cả đều khổ đau (xem 1 Cor 12:26). Hôm nay, cùng với Vương quốc Anh, chúng ta thương tiếc các nạn nhân của cuộc tấn công khủng bố diễn ra ở Luân Đôn hai ngày trước. Vì tình liên đới không chỉ là lý tưởng; Nó thể hiện trong các hành động cụ thể và các bước đưa chúng ta đến gần hơn với các nước láng giềng của chúng ta, bất kể họ gặp phải tình huống nào. Các hình thức của chủ nghĩa mỵ dân thay vào đó là kết quả của một chủ nghĩa ích kỷ giam hãm con người và ngăn ngừa họ vượt qua và “nhìn xa hơn” tầm nhìn hẹp hòi của họ. Cần phải bắt đầu suy nghĩ lại một lần nữa trong tư cách là người châu Âu, để tránh những nguy hiểm của sự đồng nhất đáng sợ hoặc thái độ vênh vang của chủ nghĩa đặc thù. Chính trị cần loại lãnh đạo này, là những người biết tránh xa việc vuốt ve các cảm xúc của quần chúng để mưu toan dành được sự đồng tình ủng hộ của họ, nhưng thay vào đó, trong tinh thần liên đới và tương nhượng, thảo ra các chính sách có thể làm cho toàn bộ Liên minh phát triển hài hòa. Kết quả là, những người chạy nhanh hơn có thể chìa ra một bàn tay cho những người chậm hơn, và những người gặp khó khăn hơn sẽ có thể bắt kịp những người dẫn đầu.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới khi nó từ chối khuất phục sự sợ hãi hoặc tự đóng kín mình dưới những hình thức an ninh giả tạo. Ngược lại, lịch sử của Châu Âu đã được xác định rất nhiều bởi các cuộc gặp gỡ với các dân tộc khác và các nền văn hóa khác; bản sắc của Châu Âu “là, và luôn luôn là một bản sắc năng động và đa văn hóa”. [17] Thế giới trông đợi dự án của châu Âu với một sự quan tâm lớn như trong ngày đầu tiên, khi đám đông tụ tập tại quảng trường Capitol của Rome với những thông điệp chúc mừng bùng nổ từ các quốc gia khác. Ngày nay, thậm chí còn đúng hơn nữa, nếu chúng ta nghĩ đến những quốc gia đã yêu cầu trở thành một phần của Liên hiệp và những quốc gia nhận được viện trợ rất hào phóng để chống lại các ảnh hưởng của đói nghèo, bệnh tật và chiến tranh. Sự mở cửa với thế giới bao hàm khả năng “đối thoại như là một hình thức gặp gỡ” [18] ở tất cả các cấp, bắt đầu với cuộc đối thoại giữa các quốc gia thành viên, giữa các tổ chức và công dân, và với rất nhiều những người nhập cư đang đổ xô vào bờ của Liên minh. Đối phó với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nhập cư trong những năm gần đây như thể đó chỉ là vấn đề về số lượng hoặc kinh tế, hoặc vấn đề về an ninh thôi thì chưa đủ. Vấn đề nhập cư đặt ra một câu hỏi sâu sắc hơn, đó là vấn đề chủ yếu về văn hoá. Châu Âu hiện nay đề xuất loại hình văn hoá nào? Sự sợ hãi, ngày càng trở nên rõ ràng hơn, có căn nguyên bắt nguồn từ việc đánh mất đi những lý tưởng của mình. Nếu không có cách đối phó được lấy cảm hứng từ những lý tưởng đó, chúng ta sẽ bị thống trị bởi nỗi sợ hãi rằng những người khác sẽ làm mất đi những thói quen thông thường của chúng ta, sẽ tước đoạt những tiện nghi quen thuộc, và bằng cách nào đó họ sẽ đặt vấn đề về lối sống của chúng ta, một lối sống mà thường chỉ co cụm trong sự giàu có về vật chất. Tuy nhiên, sự phong phú của châu Âu luôn luôn là sự cởi mở về tinh thần và khả năng dám đặt ra các câu hỏi cơ bản về ý nghĩa của cuộc sống. Sự cởi mở với cảm thức về sự vĩnh cửu cũng song hành với sự cởi mở tích cực với thế giới, dù đôi khi cũng có những căng thẳng và sai lầm. Tuy nhiên sự thịnh vượng ngày nay dường như đã cắt bớt đôi cánh của lục địa này và hạ thấp tầm nhìn của nó. Châu Âu có một di sản những lý tưởng và các giá trị tinh thần độc đáo trên thế giới, xứng đáng được đề xuất một lần nữa với sự nhiệt thành và sức sống mới, vì đây là thuốc giải độc tốt nhất chống lại khoảng trống các giá trị trong thời đại chúng ta, đang tạo ra một địa hình phì nhiêu cho các hình thái cực đoan. Đây là những lý tưởng hình thành nên châu Âu, một “bán đảo châu Á” trải dài từ rặng Urals đến Đại Tây Dương.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới khi đầu tư vào phát triển và hòa bình. Sự phát triển không phải là kết quả của việc kết hợp các hệ thống sản xuất khác nhau. Nó liên quan đến toàn bộ con người: phẩm giá lao động, điều kiện sống tốt đẹp, được tiếp cận với giáo dục và chăm sóc y tế cần thiết. “Sự phát triển là tên mới của hòa bình”, [19] Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục nói, vì không có hòa bình thật sự bất cứ khi nào con người bị bỏ quên hoặc bị buộc phải sống trong cảnh nghèo khó. Không có hòa bình nếu không có công ăn việc làm và những triển vọng kiếm được một mức lương xứng đáng. Không có hòa bình ở các vùng ngoại vi các thành phố của chúng ta, nếu tiếp tục còn sự lạm dụng ma túy và bạo lực.
Châu Âu tìm thấy hy vọng mới khi mở rộng cửa cho tương lai, khi mở cửa cho giới trẻ, đem lại cho họ những triển vọng nghiêm túc về giáo dục và những khả năng thực sự để bước vào lực lượng lao động, khi đầu tư vào gia đình, là tế bào đầu tiên và cơ bản của xã hội, khi tôn trọng lương tâm và lý tưởng của các công dân khi cho các bà mẹ có thể có con mà không sợ không thể hỗ trợ cho họ, khi bảo vệ cuộc sống trong tất cả sự thiêng liêng của nó.
Kính thưa quý vị,
Ngày nay, với sự gia tăng chung về tuổi thọ của mọi người, sáu mươi được xem là tuổi trưởng thành hoàn toàn, một thời điểm quan trọng khi chúng ta lại được kêu gọi tự vấn. Ngày hôm nay đây, Liên minh châu Âu cũng được mời gọi để tự vấn chính mình trong việc chăm sóc cho người yếu đau với những bệnh tật không thể tránh khỏi trong tuổi già, và trong việc tìm ra các phương thế mới xoay chuyển xu thế này. Tuy nhiên, không giống như con người, Liên minh châu Âu không phải đối mặt với một tuổi già không thể tránh khỏi, nhưng đối diện với khả năng của một sự trẻ trung mới. Thành công của nó sẽ phụ thuộc vào sự sẵn sàng để làm việc cùng nhau một lần nữa, và sự sẵn sàng của mình dám đánh cược với tương lai. Là những nhà lãnh đạo, quý vị được kêu gọi làm bừng sáng lên con đường của một “chủ nghĩa nhân bản mới của châu Âu” [20] được hình thành từ các lý tưởng và hành động cụ thể. Điều này có nghĩa là không sợ đưa ra các quyết định thiết thực có khả năng đáp ứng các vấn đề thực sự của con người, và có thể đứng vững với những thách đố của thời gian.
Về phần tôi, tôi sẵn sàng bảo đảm với quý vị về sự gần gũi của Tòa Thánh và Giáo Hội với Châu Âu như một tổng thể, với sự tăng trưởng mà Châu Âu đã, đang và sẽ luôn luôn tiếp tục đóng góp. Xin Chúa ban muôn ơn lành cho Âu Châu, và xin Ngài bảo vệ và ban cho Châu Âu ơn bình an và tiến bộ. Tôi xin mượn nơi đây những lời Joseph Bech đã tuyên bố trên Đồi Capitol của Rôma: Ceterum censeo Europam esse aedificandam - hơn nữa, tôi tin rằng châu Âu phải được dựng xây.
Cảm ơn quý vị.
[1] P.H. SPAAK, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[2] thượng dẫn
[3] A. DE GASPERI. La nostra patria Europa. Diễn văn tại Nghị viện Châu Âu, 21 tháng 4 năm 1954, Alcide De Gasperi e la politica internazionale, Cinque Lune, Rome, 1990, vol. III, 437-440.
[4] x. P.H. SPAAK, loc. Cit.
[5] J. LUNS, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[6] J. BECH, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[7] K. ADENAUER, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[8] C. PINEAU, Diễn văn trong lễ ký Hiệp ước Rôma, ngày 25 tháng 3 năm 1957.
[9] P.H. SPAAK, loc. Cit.
[10] Diễn từ trước Ngoại giao đoàn cạnh Tòa thánh, ngày 9 tháng 1 năm 2017.
[11] x. P.H. SPAAK, loc. Cit.
[12] A. DE GASPERI, loc. Cit.
[13] JOHN PAUL II, Diễn văn tại Santiago de Compostela, 9 tháng 11 năm 1982: AAS 75/1 (1983), 329.
[14] x. Diễn từ trước Quốc hội Châu Âu, Strasbourg, 25 tháng 11 năm 2014: AAS 106 (2014), 1000.
[15] Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 235.
[16] thượng dẫn.
[17] Diễn văn tại Lễ trao Giải thưởng Charlemagne, 6 tháng 5 năm 2016: L'Osservatore Romano, 6-7 tháng 5 năm 2016, tr. 4.
[18] Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 239.
[19] PAUL VI, Thông điệp Phát Triển Các Dân Tộc (Populorum Progressio), 26 Tháng ba 1967, 87: AAS 59 (1967), 299.
[20] Diễn văn tại Lễ trao Giải thưởng Charlemagne, loc. Cit., P. 5.