Cô bé Agnes Bojaxhiu của làng quê Albania ngày nào ít còn được ai nhắc đến tên. Trong một biến cải kỳ diệu hơn Cinderella nhiều, cô đã trở thành “người Công Giáo hình tượng nhất thế kỷ 20”, như lời David Van Biema, Báo Time, quả quyết, dưới danh xưng Mẹ Têrêsa thành Calcutta.
Ký giả trên là tác giả của tập sách “Mẹ Têrêsa: Vị Thánh Hiện Đại” (Mother Teresa: A Modern Saint) do Time xuất bản. Trong tác phẩm này, Biema ghi lại cuộc phỏng vấn vợ chồng Tiến Sĩ Marcilio Haddad Andrino, người được chữa lành chứng tụ mủ cục bộ ở óc, do lời cầu bầu của Mẹ Têrêsa và việc chữa lành này được công nhận là dấu chỉ Thiên Chúa muốn Giáo Hội của Người tôn vinh “cô bé lọ lem” Bojaxhiu lên hàng hiển thánh, hay anh thư của gần 1 tỷ ba trăm triệu người Công Giáo khắp thế giới.
Marcilio là một kỹ sư cơ khí người Ba Tây, có cao học (MA) và tiến sĩ (PhD), là giảm nghiệm viên các bằng sáng chế của chính phủ liên bang. Ông sinh ngày 29 tháng 8 năm 1973. Năm 2008, hai năm sau khi đậu tiến sĩ, ông cảm thấy các triệu chứng đầu tiên của căn bệnh quái ác: ông bị song thị (double vision), mất thăng bằng, tai có tiếng rung. Các bác sĩ chỉ đoán mò, không rõ căn nguyên của các triệu chứng này, nên ông không được chữa chạy chi. Gia đình đôi bên, dù lúc ấy, ông chưa chính thức kết hôn với Fernanda Nascimento Rocha, chỉ mới đính hôn, hết sức lo lắng.
Chính lúc ấy, hai người nhận được tuần cửu nhật kính Mẹ Têrêsa do một đồng nghiệp tặng. Bà này mắc chứng phình mạch ở óc và phải kinh qua một cuộc giải phẫu khó khăn và lâu dài và thành công mà bà cho là do sự cầu bầu của Mẹ Têrêsa.
Thoạt đầu, hai người, tuy có sử dụng tuần cửu nhật này, nhưng không mấy lưu tâm, cho tới lúc nhận được di vật của Mẹ.
Cũng nên biết, chính trong khung cảnh bệnh hoạn và lo lắng này của Marcilio (bị co giật đến bất tỉnh), Fernanda đã bằng lòng làm lễ thành hôn. Lời Fernanda: “Tôi không cảm thấy đây là một gánh nặng. Đúng, đây là một thời điểm khó khăn chúng tôi phải trải qua, nhưng tôi tin rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ lo liệu cả và ban cho chúng tôi giải pháp tốt nhất. Có rất nhiều bất trắc liên quan tới bệnh tình của Marcilio trước lễ cưới, chính lúc đó, Cha Elmira tặng tôi di vật (của Mẹ Têrêsa)".
Đó là ngày 5 tháng 9 năm 2008, sau khi Cha Elmira nhận được di vật trên từ các Nữ Tu Dòng Bác Ái Truyền Giáo, lúc cha tới nhà dòng dự lễ kính chân phúc Têrêsa. Di vật này là một tấm ảnh bọc nhựa, có hình Mẹ Têrêsa đang đan tay vào nhau và một mảnh vải cắt từ y phục của Mẹ, phía sau có một lời cầu nguyện.
Khi nhận được di vật này, Fernanda tin là một chuyện lạ thường, vì “đây là lần thứ hai Mẹ Têrêsa gặp chúng tôi giữa đường. Mẹ sẽ là giải pháp cho các khó khăn của chúng tôi. Đây sẽ là điều cứu vớt chúng tôi”. Họ bắt đầu đọc cả tuần cửu nhật lẫn lời kinh trên di vật của Mẹ. Nhất là di vật. “Đọc hàng ngày, mỗi ngày tới mấy lần. Đây là những thời điểm suy niệm, cầu xin, đầy đức tin, yêu thương và năng lực”.
Ngoài lời kinh in sẵn trên di vật, Fernanda thêm những ý chỉ khác, nhất là cho Marcilio được lành bệnh. Lời kinh trên di vật như sau: “Lạy chân phúc Têrêsa thành Calcutta, Mẹ đã để cho tình yêu khát khao Chúa Giêsu trên Thập Giá trở thành ngọn lửa sống động ở trong Mẹ, và nhờ thế, trở thành ánh sáng tình yêu của Người cho mọi người. Mẹ hãy nhận lãnh từ Trái Tim Chúa Giêsu, ‘Lạy Mẹ Têrêsa, xin Mẹ chữa lành Marcilio’. Xin Mẹ dạy con biết để Chúa Giêsu vào sâu và chiếm hữu trọn con người của con, một cách hoàn toàn đến nỗi cả đời sống con nữa cũng tỏa rạng ánh sáng và tình yêu của Người cho nhiều người khác”.
Vừa cầu nguyện, Fernanda vừa đặt di vật lên trán, lên đầu chỗ có tụ mủ của chồng. Họ cầu nguyện mỗi đêm. Bệnh tình Marcilio càng bi đát, họ càng cầu nguyện nhiều hơn.
Ngày 17 tháng 10, năm 2008, Marcilio bị một cơn co giật thật mạnh, phải đưa vào bệnh viện. Ông ở đó một tháng rưỡi. Rồi tới tháng 12, ông bị đau đầu dữ dội đến phải được chích morphine và làm cho hôn mê (induced coma) vì chỗ bị tụ mủ sưng to lên làm trở ngại việc thải nước khỏi óc. Ông được đưa vào phòng săn sóc đặc biệt (intensive care) và chuẩn bị để giải phẫu.
Trước khi đi vào hôn mê, Marcilio xin mọi người trong gia đình và bạn bè cầu cùng Mẹ Têrêsa cho mình, mong Mẹ chữa lành mình.
Đến lúc đó, các bác sĩ cũng chưa biết điều gì đang xẩy ra. Dù đã biết chứng tụ mủ, nhưng họ không đủ các lý lẽ vững chắc để quả quyết. Nên họ cho thực hiện một số thử nghiệm mới. Họ không trực tiếp cho biết viễn tượng không thể cứu chữa. Nhưng khi Marcilio không đáp ứng các cách điều trị mới, các y tá và đội y khoa đều nghĩ rất có thể không cứu được anh.
Người nhà nghĩ tới việc mời Cha Elmira ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho Marcilio. Tuy nhiên, Fernanda vẫn cương quyết không nói lời “vĩnh biệt” với Marcilio. Lời bà: “tôi luôn tin tưởng Thiên Chúa sẽ làm điều thích đáng ở lúc thích đáng, và Mẹ Têrêsa sẽ bắt đầu việc chữa lành của mẹ vào lúc thích đáng. Tôi không nói lời vĩnh biệt. Tôi có đức tin. Nói lời vĩnh biệt có nghĩa muốn nói: Thiên Chúa và Mẹ Têrêsa không cứu giúp chúng tôi đúng lúc”.
Fernanda quả quyết: lúc Marcilio vào phòng mổ “là lúc xấu nhất nhưng cũng là lúc tốt nhất. Khi Marcilio vào phòng mổ, bác sĩ nói anh ấy sẽ phải giải phẫu, nhưng nhân viên gây mê không muốn gây mê cho anh vì họ cho hay: Marcilio không thể sống thoát việc gây mê này. Đây quả là lúc xấu nhất, vì tôi nhận thấy rằng y khoa không thể làm được điều gì cho Marcilio nữa. Nhưng đây cũng là lúc tốt nhất, vì tôi hiểu ra rằng điều này nằm bên ngoài khả năng kiểm soát của con người, nó hoàn toàn nằm trong tay Thiên Chúa và Mẹ Têrêsa”.
Dĩ nhiên, lúc ấy Fernanda chỉ còn biết cầu nguyện. “Tôi cầu nguyện ngay ở bệnh viện khi chúng tôi được thông báo về cuộc giải phẫu. Trước nhất, tôi cầu xin Thiên Chúa và rồi cầu xin với Mẹ Têrêsa. Tôi xin Thiên Chúa chữa trị và chữa lành Marcilio. Và nếu anh không được chữa trị, thì xin Mẹ Têrêsa tháp tùng anh về nơi ngự muôn đời của Đấng Toàn Năng, xin cho anh an toàn về [nhà Cha]”.
Sau khi Marcilio vào phòng săn sóc đặc biệt, Fernanda trở về nhà bố mẹ, cùng gia đình, tiếp tục cầu nguyện cho anh, nài nỉ Mẹ Têrêsa cứu giúp anh, chữa lành anh. Những lúc như thế, bà cảm thấy Mẹ rất gần gũi, nên rất được bình an, an ủi và yêu thương.
Về phần mình, Marcilio cho hay: “Trước khi vào phòng mổ, tôi bị đau đầu rất mạnh, và bất tỉnh. Thế rồi, tôi thức giấc và thấy mình ở một nơi khác, và không thấy đau đầu nữa, tự hỏi ‘mình đang làm gì đây?’. Và tôi cảm thấy hết sức bình an”.
Sáng hôm sau, Fernanda trở lại bệnh viện. “Tôi đi một mình. Tôi rất vui và tin tưởng vì đêm qua, tôi không nhận được cú điện thoại nào, và tôi tin rằng anh ấy được bình an”.
Gặp nhân viên bệnh viện, “họ nói lý do chính anh ấy phải vào đó là chứng tụ mủ, nước không thoát khỏi óc được, gây nên chứng tràn dịch não (hydrocephaly) đe dọa tới sinh mạng. Nhưng nay họ bảo các chứng đau đầu đã biến mất. Và vì hết chứng đau khủng khiếp ấy rồi, nên anh ấy không cần nằm ở phòng săn sóc đặc biệt nữa, có thể ra phòng thông thường”.
Fernanda kể tiếp: nhân viên bệnh viện “rất đỗi ngạc nhiên. Họ không có bất cứ ý niệm gì về điều đã xẩy ra. Nếu các chứng đau đầu không còn nữa, thì câu kết luận của họ là: sự sưng phù và sự tụ mủ hẳn đã giảm, nhưng thực sự họ không biết. Nay thì tôi biết. Tôi biết Mẹ Têrêsa đã chữa Marcilio”.
“Lúc ấy, tôi chỉ biết khóc. Tôi khóc vì sung sướng, hài lòng, vui tươi và biết ơn. Tôi không qùy gối để cầu nguyện vì chúng tôi đang ở phòng săn sóc đặc biệt, nên không có cách chi qùy gối để cầu nguyện được, nhưng tôi cảm thấy vừa vui mừng vừa hạnh phúc. Tôi thấy anh ấy đang ngồi. Tôi không nhớ lời đầu tiên anh ấy nói với tôi là lời gì. Tôi tin tôi đã hỏi anh ấy ‘anh khỏe không?’ và tôi nghĩ anh ấy trả lời, “khỏe”. Nhưng tôi không nhớ. Sau khi anh ấy được ra khỏi phòng săn sóc đặc biệt, tôi ra khỏi phòng và gọi điện thoại cho mọi người trong gia đình, những người tôi vốn yêu cầu họ cầu nguyện, và nói với họ ‘anh ấy lành bệnh rồi, Mẹ Têrêsa đã ở với Marcilio suốt đêm!’ Không những đây là một phép lạ lớn trong đời anh mà cả trong đời chúng tôi nữa”.
Khỏi nói, Cha Elmira, cha sở giáo xứ của hai vợ chồng, người đã chủ sự lễ nghi hôn phối của hai người, cũng có cùng nhận định như Fernanda. Ngài bảo: “Này chị Fernanda, đúng là Mẹ Têrêsa rồi. Há tôi không nói với chị là ngài sẽ cứu giúp đó sao? Việc này xẩy ra là nhờ Mẹ Têrêsa. Ta hãy viết thư cho các Nữ Tu Dòng Truyền Giáo Bác ái để họ chuyển qua Vatican”.
Được hỏi ông có lo lắng khi phải xuất hiện trước tòa án Giáo Hội hồi tháng 8 năm 2015 để trả lời án phong thánh cho Mẹ Têrêsa hay không, Marcilio trả lời: không. Fernanda nói thêm: “Thực sự không. Toàn bộ bối cảnh của việc biết mình đã nhận được ơn từ Thiên Chúa và Mẹ Têrêsa làm chúng tôi suy nghĩ và biết chắc chắn rằng Thiên Chúa ở với chúng tôi và Mẹ Têrêsa trông xem chúng tôi”.
Bà cho biết, đối với những người không phải là Công Giáo, thì điều này có vẻ kỳ cục. “Nhưng đối với chúng tôi, người Công Giáo, hàng ngày tuyên xưng đức tin và luôn thổ lộ với các cha, các linh mục, thì việc này (ra trước tòa án phong thánh) không có gì là bất thường cả”.
Hai vợ chồng Marcilio và Fernanda hết sức vui mừng khi việc chữa lành của họ được công nhận là một phép lạ. Tin vui ấy được thông báo cho họ sau một chuyến hai người đi du lịch. Marcilio thổ lộ: “Tôi cực kỳ hạnh phúc khi phép lạ được nhìn nhận, và đây là quyết định đồng thanh của các bác sĩ, các nhà thần học và các Hồng Y của Tòa Thánh.Tôi cũng hài lòng thấy Mẹ Têrêsa vẫn quanh quẩn đâu đây với tôi”.
Đối với anh diễn trình phong thánh này không có gì là lâu la cả. “Nó khá nhanh. Nhanh, hợp lý và bình thường”.
Nhân dịp này, ông cũng xác nhận điều thỉnh cáo viên án phong thánh là Cha Brian Kolodiejchuk coi như phép lạ thứ hai: việc ông có khả năng sinh con. Ông cho biết: “lúc 19 tuổi, tôi phải ghép thận và từng dùng cortisone từ hồi lên 6 và thuốc ức chế miễn dịch (immunosuppressors) từ lúc 18 tuổi, và năm 2008, tôi phải sử dụng thuốc kháng sinh rất mạnh nữa. Và vì thế, sau khi rời bệnh viện, lúc tôi đã khỏi bệnh, các bác sĩ nói rằng ‘vì lượng thuốc men Marcilio đã sử dụng, tôi khuyân anh chị nên xem xét nhận con nuôi nếu anh chị nghĩ tới con cái [vì] chúng sẽ không bình thường vì lượng thuốc men Marcilio đã dùng’.
“Chúng tôi thực sự mong muốn có con, và năm 2009, tôi đã thực hiện hàng loạt thử nghiệm thì thấy xác xuất có con của tôi chỉ là 1 phần trăm. [Thế mà] Fernanda có mang ngay năm 2009. Qua năm 2010, chúng tôi có một con gái. Rồi nhà tôi bị sẩy thai. Và năm 2012, chúng tôi sinh một đứa con nữa, như thế là ba lần thai nghén, một lần không thành. Nhưng chúng tôi có hai đứa con. Các cháu mạnh khỏe”.
Fernanda: “Ngợi khen Chúa! Murilo sẽ lên 4 vào ngày 28 tháng 8 (vừa qua), còn sinh nhật của Mariana là ngày 26 tháng 2. Cháu sẽ được 6 tuổi rưỡi vào tháng 8”.
Lẽ dĩ nhiên, hai vợ chồng Marcilio và Fernanda được mời tham dự Lễ Phong Thánh của Mẹ Têrêsa, được gặp gỡ Đức Phanxicô. Họ sẽ mang theo cả hai đứa con. “Chúng tôi mang chúng theo chúng tôi tới mọi biến cố tôn giáo, để chúng biết các sự việc vận hành ra sao”. Họ tin rằng Mẹ Têrêsa rất hài lòng về biến cố này và họ nhắc lại câu nói đã trở thành cổ điển của ngài: “khi tôi chết, nếu có khi nào được trở thành một vị thánh, tôi sẽ là vị thánh của bóng tối. Thay vì ở thiên đàng, tôi muốn đi vào đêm tối để cứu vớt người ta”.
Được hỏi họ có tin là họ được phép lạ hay không, Fernanda cho hay: “tôi không tin. Mà là biết chắc trăm phần trăm. Và tôi tin rằng Dòng Truyền Giáo Bác Ái rất hài lòng, rạng rỡ khi nghe điều này. Mẹ Têrêsa năng đi tới những nơi có các nhu cầu lớn lao nhất; ngài trợ giúp những người túng thiếu nhất trong các người túng thiếu nhất, các người nghèo nhất trong các người nghèo. Cho nên, đây không những chỉ là một ơn phúc chúng tôi cảm nghiệm được, mà là ơn phúc dành cho mọi người, cho các Chị Dòng Truyền Giáo. Và tôi tin chắc ngài vẫn tiếp tục loại việc làm này”.
Về tình trạng sức khỏe hiện thời, Marcilio cho ký giả Biema của tờ Time hay: “Sức khỏe của tôi trăm phần trăm trở lại bình thường. Tôi đã đi làm trở lại. Tôi vẫn còn đôi chút mất thăng bằng và hơi song thị một chút, nhưng tôi đã quen như thế rồi”.
Và họ tiếp tục cầu nguyện “để cám ơn Mẹ Têrêsa về sự cầu bầu này. Bây giờ, chúng tôi cám ơn Mẹ, nhiều hơn là cầu xin Mẹ. Cám ơn ngài về ơn phúc sự sống, ơn phúc làm mẹ, sự kiện ngài tiếp tục hiện diện với chúng tôi và với những người thiếu thốn. Chúng tôi tiếp tục thăm viếng Nhà của Nữ Tu Bác Ái ở Rio, mang an ủi và đức tin [đến mọi người]. Tôi luôn nói với người ta phải giữ vững đức tin, đừng nghi ngờ gì rằng ơn Chúa là có cho mọi người, cho con cái chúng ta”.
Được hỏi nếu Marcilio không mắc chứng bệnh quái ác thì đức tin của họ có khác hơn nay hay không, thì Fernanda cho hay: “Tôi tin như thế. Chúng tôi kinh qua nhiều thời khắc khó khăn với căn bệnh của Marcilio đến nỗi chúng đã thẩm thấu vào đức tin của chúng tôi và củng cố đức tin này”.
Bà cũng cho biết bà luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, không hỏi tại sao chuyện này chuyện nọ xẩy ra cho mình mà không xẩy ra cho người khác. Như việc cha của bà bị bệnh: “Ba tôi bị tai nạn xe hơi khủng khiếp năm 1996. Lưng của ngài bị hư hại, tủy sống, dây thần kinh hông bị nén, nên bị đau 24 giờ mỗi ngày và người ta có thể nghe tiếng ngài kêu la từ cuối phố. Suốt 10 năm qua, tôi luôn cầu xin cho ngài được chữa lành, đi đứng trở lại. Nhưng tôi không bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa. Không bao giờ nêu câu hỏi: ‘tại sao việc này xẩy đến cho tôi, cho ba tôi, cho gia đình tôi?’ Khi ba tôi qua đời, tôi vẫn không hỏi ‘sao Chúa lại đem ba con đi, sao ba con lại phải chịu nhiều đau khổ đến thế?’ Và ngay lúc này đây, tôi cũng sẽ không hỏi ‘tại sao lại chúng con?’
"Đây là ý Thiên Chúa, và Thiên Chúa là người cha và Người muốn để ba tôi không được chữa khỏi, không được chữa lành; nhưng cũng chính Người muốn cho Marcilio được chữa khỏi, được chữa lành. Khi tôi đọc Kinh Lạy Cha, tôi đọc rằng ‘ý Cha thể hiện’. Bởi thế, tôi sẽ không bao giờ đặt câu hỏi “tại sao lại là con?’
“Ý Chúa là điều rất quan trọng và rất đặc biệt, nó cũng rất tối cao. Nên tôi sẽ không hỏi lý do, không bao giờ”.
Ký giả trên là tác giả của tập sách “Mẹ Têrêsa: Vị Thánh Hiện Đại” (Mother Teresa: A Modern Saint) do Time xuất bản. Trong tác phẩm này, Biema ghi lại cuộc phỏng vấn vợ chồng Tiến Sĩ Marcilio Haddad Andrino, người được chữa lành chứng tụ mủ cục bộ ở óc, do lời cầu bầu của Mẹ Têrêsa và việc chữa lành này được công nhận là dấu chỉ Thiên Chúa muốn Giáo Hội của Người tôn vinh “cô bé lọ lem” Bojaxhiu lên hàng hiển thánh, hay anh thư của gần 1 tỷ ba trăm triệu người Công Giáo khắp thế giới.
Marcilio là một kỹ sư cơ khí người Ba Tây, có cao học (MA) và tiến sĩ (PhD), là giảm nghiệm viên các bằng sáng chế của chính phủ liên bang. Ông sinh ngày 29 tháng 8 năm 1973. Năm 2008, hai năm sau khi đậu tiến sĩ, ông cảm thấy các triệu chứng đầu tiên của căn bệnh quái ác: ông bị song thị (double vision), mất thăng bằng, tai có tiếng rung. Các bác sĩ chỉ đoán mò, không rõ căn nguyên của các triệu chứng này, nên ông không được chữa chạy chi. Gia đình đôi bên, dù lúc ấy, ông chưa chính thức kết hôn với Fernanda Nascimento Rocha, chỉ mới đính hôn, hết sức lo lắng.
Chính lúc ấy, hai người nhận được tuần cửu nhật kính Mẹ Têrêsa do một đồng nghiệp tặng. Bà này mắc chứng phình mạch ở óc và phải kinh qua một cuộc giải phẫu khó khăn và lâu dài và thành công mà bà cho là do sự cầu bầu của Mẹ Têrêsa.
Thoạt đầu, hai người, tuy có sử dụng tuần cửu nhật này, nhưng không mấy lưu tâm, cho tới lúc nhận được di vật của Mẹ.
Cũng nên biết, chính trong khung cảnh bệnh hoạn và lo lắng này của Marcilio (bị co giật đến bất tỉnh), Fernanda đã bằng lòng làm lễ thành hôn. Lời Fernanda: “Tôi không cảm thấy đây là một gánh nặng. Đúng, đây là một thời điểm khó khăn chúng tôi phải trải qua, nhưng tôi tin rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ lo liệu cả và ban cho chúng tôi giải pháp tốt nhất. Có rất nhiều bất trắc liên quan tới bệnh tình của Marcilio trước lễ cưới, chính lúc đó, Cha Elmira tặng tôi di vật (của Mẹ Têrêsa)".
Đó là ngày 5 tháng 9 năm 2008, sau khi Cha Elmira nhận được di vật trên từ các Nữ Tu Dòng Bác Ái Truyền Giáo, lúc cha tới nhà dòng dự lễ kính chân phúc Têrêsa. Di vật này là một tấm ảnh bọc nhựa, có hình Mẹ Têrêsa đang đan tay vào nhau và một mảnh vải cắt từ y phục của Mẹ, phía sau có một lời cầu nguyện.
Khi nhận được di vật này, Fernanda tin là một chuyện lạ thường, vì “đây là lần thứ hai Mẹ Têrêsa gặp chúng tôi giữa đường. Mẹ sẽ là giải pháp cho các khó khăn của chúng tôi. Đây sẽ là điều cứu vớt chúng tôi”. Họ bắt đầu đọc cả tuần cửu nhật lẫn lời kinh trên di vật của Mẹ. Nhất là di vật. “Đọc hàng ngày, mỗi ngày tới mấy lần. Đây là những thời điểm suy niệm, cầu xin, đầy đức tin, yêu thương và năng lực”.
Ngoài lời kinh in sẵn trên di vật, Fernanda thêm những ý chỉ khác, nhất là cho Marcilio được lành bệnh. Lời kinh trên di vật như sau: “Lạy chân phúc Têrêsa thành Calcutta, Mẹ đã để cho tình yêu khát khao Chúa Giêsu trên Thập Giá trở thành ngọn lửa sống động ở trong Mẹ, và nhờ thế, trở thành ánh sáng tình yêu của Người cho mọi người. Mẹ hãy nhận lãnh từ Trái Tim Chúa Giêsu, ‘Lạy Mẹ Têrêsa, xin Mẹ chữa lành Marcilio’. Xin Mẹ dạy con biết để Chúa Giêsu vào sâu và chiếm hữu trọn con người của con, một cách hoàn toàn đến nỗi cả đời sống con nữa cũng tỏa rạng ánh sáng và tình yêu của Người cho nhiều người khác”.
Vừa cầu nguyện, Fernanda vừa đặt di vật lên trán, lên đầu chỗ có tụ mủ của chồng. Họ cầu nguyện mỗi đêm. Bệnh tình Marcilio càng bi đát, họ càng cầu nguyện nhiều hơn.
Ngày 17 tháng 10, năm 2008, Marcilio bị một cơn co giật thật mạnh, phải đưa vào bệnh viện. Ông ở đó một tháng rưỡi. Rồi tới tháng 12, ông bị đau đầu dữ dội đến phải được chích morphine và làm cho hôn mê (induced coma) vì chỗ bị tụ mủ sưng to lên làm trở ngại việc thải nước khỏi óc. Ông được đưa vào phòng săn sóc đặc biệt (intensive care) và chuẩn bị để giải phẫu.
Trước khi đi vào hôn mê, Marcilio xin mọi người trong gia đình và bạn bè cầu cùng Mẹ Têrêsa cho mình, mong Mẹ chữa lành mình.
Đến lúc đó, các bác sĩ cũng chưa biết điều gì đang xẩy ra. Dù đã biết chứng tụ mủ, nhưng họ không đủ các lý lẽ vững chắc để quả quyết. Nên họ cho thực hiện một số thử nghiệm mới. Họ không trực tiếp cho biết viễn tượng không thể cứu chữa. Nhưng khi Marcilio không đáp ứng các cách điều trị mới, các y tá và đội y khoa đều nghĩ rất có thể không cứu được anh.
Người nhà nghĩ tới việc mời Cha Elmira ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho Marcilio. Tuy nhiên, Fernanda vẫn cương quyết không nói lời “vĩnh biệt” với Marcilio. Lời bà: “tôi luôn tin tưởng Thiên Chúa sẽ làm điều thích đáng ở lúc thích đáng, và Mẹ Têrêsa sẽ bắt đầu việc chữa lành của mẹ vào lúc thích đáng. Tôi không nói lời vĩnh biệt. Tôi có đức tin. Nói lời vĩnh biệt có nghĩa muốn nói: Thiên Chúa và Mẹ Têrêsa không cứu giúp chúng tôi đúng lúc”.
Fernanda quả quyết: lúc Marcilio vào phòng mổ “là lúc xấu nhất nhưng cũng là lúc tốt nhất. Khi Marcilio vào phòng mổ, bác sĩ nói anh ấy sẽ phải giải phẫu, nhưng nhân viên gây mê không muốn gây mê cho anh vì họ cho hay: Marcilio không thể sống thoát việc gây mê này. Đây quả là lúc xấu nhất, vì tôi nhận thấy rằng y khoa không thể làm được điều gì cho Marcilio nữa. Nhưng đây cũng là lúc tốt nhất, vì tôi hiểu ra rằng điều này nằm bên ngoài khả năng kiểm soát của con người, nó hoàn toàn nằm trong tay Thiên Chúa và Mẹ Têrêsa”.
Dĩ nhiên, lúc ấy Fernanda chỉ còn biết cầu nguyện. “Tôi cầu nguyện ngay ở bệnh viện khi chúng tôi được thông báo về cuộc giải phẫu. Trước nhất, tôi cầu xin Thiên Chúa và rồi cầu xin với Mẹ Têrêsa. Tôi xin Thiên Chúa chữa trị và chữa lành Marcilio. Và nếu anh không được chữa trị, thì xin Mẹ Têrêsa tháp tùng anh về nơi ngự muôn đời của Đấng Toàn Năng, xin cho anh an toàn về [nhà Cha]”.
Sau khi Marcilio vào phòng săn sóc đặc biệt, Fernanda trở về nhà bố mẹ, cùng gia đình, tiếp tục cầu nguyện cho anh, nài nỉ Mẹ Têrêsa cứu giúp anh, chữa lành anh. Những lúc như thế, bà cảm thấy Mẹ rất gần gũi, nên rất được bình an, an ủi và yêu thương.
Về phần mình, Marcilio cho hay: “Trước khi vào phòng mổ, tôi bị đau đầu rất mạnh, và bất tỉnh. Thế rồi, tôi thức giấc và thấy mình ở một nơi khác, và không thấy đau đầu nữa, tự hỏi ‘mình đang làm gì đây?’. Và tôi cảm thấy hết sức bình an”.
Sáng hôm sau, Fernanda trở lại bệnh viện. “Tôi đi một mình. Tôi rất vui và tin tưởng vì đêm qua, tôi không nhận được cú điện thoại nào, và tôi tin rằng anh ấy được bình an”.
Gặp nhân viên bệnh viện, “họ nói lý do chính anh ấy phải vào đó là chứng tụ mủ, nước không thoát khỏi óc được, gây nên chứng tràn dịch não (hydrocephaly) đe dọa tới sinh mạng. Nhưng nay họ bảo các chứng đau đầu đã biến mất. Và vì hết chứng đau khủng khiếp ấy rồi, nên anh ấy không cần nằm ở phòng săn sóc đặc biệt nữa, có thể ra phòng thông thường”.
Fernanda kể tiếp: nhân viên bệnh viện “rất đỗi ngạc nhiên. Họ không có bất cứ ý niệm gì về điều đã xẩy ra. Nếu các chứng đau đầu không còn nữa, thì câu kết luận của họ là: sự sưng phù và sự tụ mủ hẳn đã giảm, nhưng thực sự họ không biết. Nay thì tôi biết. Tôi biết Mẹ Têrêsa đã chữa Marcilio”.
“Lúc ấy, tôi chỉ biết khóc. Tôi khóc vì sung sướng, hài lòng, vui tươi và biết ơn. Tôi không qùy gối để cầu nguyện vì chúng tôi đang ở phòng săn sóc đặc biệt, nên không có cách chi qùy gối để cầu nguyện được, nhưng tôi cảm thấy vừa vui mừng vừa hạnh phúc. Tôi thấy anh ấy đang ngồi. Tôi không nhớ lời đầu tiên anh ấy nói với tôi là lời gì. Tôi tin tôi đã hỏi anh ấy ‘anh khỏe không?’ và tôi nghĩ anh ấy trả lời, “khỏe”. Nhưng tôi không nhớ. Sau khi anh ấy được ra khỏi phòng săn sóc đặc biệt, tôi ra khỏi phòng và gọi điện thoại cho mọi người trong gia đình, những người tôi vốn yêu cầu họ cầu nguyện, và nói với họ ‘anh ấy lành bệnh rồi, Mẹ Têrêsa đã ở với Marcilio suốt đêm!’ Không những đây là một phép lạ lớn trong đời anh mà cả trong đời chúng tôi nữa”.
Khỏi nói, Cha Elmira, cha sở giáo xứ của hai vợ chồng, người đã chủ sự lễ nghi hôn phối của hai người, cũng có cùng nhận định như Fernanda. Ngài bảo: “Này chị Fernanda, đúng là Mẹ Têrêsa rồi. Há tôi không nói với chị là ngài sẽ cứu giúp đó sao? Việc này xẩy ra là nhờ Mẹ Têrêsa. Ta hãy viết thư cho các Nữ Tu Dòng Truyền Giáo Bác ái để họ chuyển qua Vatican”.
Được hỏi ông có lo lắng khi phải xuất hiện trước tòa án Giáo Hội hồi tháng 8 năm 2015 để trả lời án phong thánh cho Mẹ Têrêsa hay không, Marcilio trả lời: không. Fernanda nói thêm: “Thực sự không. Toàn bộ bối cảnh của việc biết mình đã nhận được ơn từ Thiên Chúa và Mẹ Têrêsa làm chúng tôi suy nghĩ và biết chắc chắn rằng Thiên Chúa ở với chúng tôi và Mẹ Têrêsa trông xem chúng tôi”.
Bà cho biết, đối với những người không phải là Công Giáo, thì điều này có vẻ kỳ cục. “Nhưng đối với chúng tôi, người Công Giáo, hàng ngày tuyên xưng đức tin và luôn thổ lộ với các cha, các linh mục, thì việc này (ra trước tòa án phong thánh) không có gì là bất thường cả”.
Hai vợ chồng Marcilio và Fernanda hết sức vui mừng khi việc chữa lành của họ được công nhận là một phép lạ. Tin vui ấy được thông báo cho họ sau một chuyến hai người đi du lịch. Marcilio thổ lộ: “Tôi cực kỳ hạnh phúc khi phép lạ được nhìn nhận, và đây là quyết định đồng thanh của các bác sĩ, các nhà thần học và các Hồng Y của Tòa Thánh.Tôi cũng hài lòng thấy Mẹ Têrêsa vẫn quanh quẩn đâu đây với tôi”.
Đối với anh diễn trình phong thánh này không có gì là lâu la cả. “Nó khá nhanh. Nhanh, hợp lý và bình thường”.
Nhân dịp này, ông cũng xác nhận điều thỉnh cáo viên án phong thánh là Cha Brian Kolodiejchuk coi như phép lạ thứ hai: việc ông có khả năng sinh con. Ông cho biết: “lúc 19 tuổi, tôi phải ghép thận và từng dùng cortisone từ hồi lên 6 và thuốc ức chế miễn dịch (immunosuppressors) từ lúc 18 tuổi, và năm 2008, tôi phải sử dụng thuốc kháng sinh rất mạnh nữa. Và vì thế, sau khi rời bệnh viện, lúc tôi đã khỏi bệnh, các bác sĩ nói rằng ‘vì lượng thuốc men Marcilio đã sử dụng, tôi khuyân anh chị nên xem xét nhận con nuôi nếu anh chị nghĩ tới con cái [vì] chúng sẽ không bình thường vì lượng thuốc men Marcilio đã dùng’.
“Chúng tôi thực sự mong muốn có con, và năm 2009, tôi đã thực hiện hàng loạt thử nghiệm thì thấy xác xuất có con của tôi chỉ là 1 phần trăm. [Thế mà] Fernanda có mang ngay năm 2009. Qua năm 2010, chúng tôi có một con gái. Rồi nhà tôi bị sẩy thai. Và năm 2012, chúng tôi sinh một đứa con nữa, như thế là ba lần thai nghén, một lần không thành. Nhưng chúng tôi có hai đứa con. Các cháu mạnh khỏe”.
Fernanda: “Ngợi khen Chúa! Murilo sẽ lên 4 vào ngày 28 tháng 8 (vừa qua), còn sinh nhật của Mariana là ngày 26 tháng 2. Cháu sẽ được 6 tuổi rưỡi vào tháng 8”.
Lẽ dĩ nhiên, hai vợ chồng Marcilio và Fernanda được mời tham dự Lễ Phong Thánh của Mẹ Têrêsa, được gặp gỡ Đức Phanxicô. Họ sẽ mang theo cả hai đứa con. “Chúng tôi mang chúng theo chúng tôi tới mọi biến cố tôn giáo, để chúng biết các sự việc vận hành ra sao”. Họ tin rằng Mẹ Têrêsa rất hài lòng về biến cố này và họ nhắc lại câu nói đã trở thành cổ điển của ngài: “khi tôi chết, nếu có khi nào được trở thành một vị thánh, tôi sẽ là vị thánh của bóng tối. Thay vì ở thiên đàng, tôi muốn đi vào đêm tối để cứu vớt người ta”.
Được hỏi họ có tin là họ được phép lạ hay không, Fernanda cho hay: “tôi không tin. Mà là biết chắc trăm phần trăm. Và tôi tin rằng Dòng Truyền Giáo Bác Ái rất hài lòng, rạng rỡ khi nghe điều này. Mẹ Têrêsa năng đi tới những nơi có các nhu cầu lớn lao nhất; ngài trợ giúp những người túng thiếu nhất trong các người túng thiếu nhất, các người nghèo nhất trong các người nghèo. Cho nên, đây không những chỉ là một ơn phúc chúng tôi cảm nghiệm được, mà là ơn phúc dành cho mọi người, cho các Chị Dòng Truyền Giáo. Và tôi tin chắc ngài vẫn tiếp tục loại việc làm này”.
Về tình trạng sức khỏe hiện thời, Marcilio cho ký giả Biema của tờ Time hay: “Sức khỏe của tôi trăm phần trăm trở lại bình thường. Tôi đã đi làm trở lại. Tôi vẫn còn đôi chút mất thăng bằng và hơi song thị một chút, nhưng tôi đã quen như thế rồi”.
Và họ tiếp tục cầu nguyện “để cám ơn Mẹ Têrêsa về sự cầu bầu này. Bây giờ, chúng tôi cám ơn Mẹ, nhiều hơn là cầu xin Mẹ. Cám ơn ngài về ơn phúc sự sống, ơn phúc làm mẹ, sự kiện ngài tiếp tục hiện diện với chúng tôi và với những người thiếu thốn. Chúng tôi tiếp tục thăm viếng Nhà của Nữ Tu Bác Ái ở Rio, mang an ủi và đức tin [đến mọi người]. Tôi luôn nói với người ta phải giữ vững đức tin, đừng nghi ngờ gì rằng ơn Chúa là có cho mọi người, cho con cái chúng ta”.
Được hỏi nếu Marcilio không mắc chứng bệnh quái ác thì đức tin của họ có khác hơn nay hay không, thì Fernanda cho hay: “Tôi tin như thế. Chúng tôi kinh qua nhiều thời khắc khó khăn với căn bệnh của Marcilio đến nỗi chúng đã thẩm thấu vào đức tin của chúng tôi và củng cố đức tin này”.
Bà cũng cho biết bà luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, không hỏi tại sao chuyện này chuyện nọ xẩy ra cho mình mà không xẩy ra cho người khác. Như việc cha của bà bị bệnh: “Ba tôi bị tai nạn xe hơi khủng khiếp năm 1996. Lưng của ngài bị hư hại, tủy sống, dây thần kinh hông bị nén, nên bị đau 24 giờ mỗi ngày và người ta có thể nghe tiếng ngài kêu la từ cuối phố. Suốt 10 năm qua, tôi luôn cầu xin cho ngài được chữa lành, đi đứng trở lại. Nhưng tôi không bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa. Không bao giờ nêu câu hỏi: ‘tại sao việc này xẩy đến cho tôi, cho ba tôi, cho gia đình tôi?’ Khi ba tôi qua đời, tôi vẫn không hỏi ‘sao Chúa lại đem ba con đi, sao ba con lại phải chịu nhiều đau khổ đến thế?’ Và ngay lúc này đây, tôi cũng sẽ không hỏi ‘tại sao lại chúng con?’
"Đây là ý Thiên Chúa, và Thiên Chúa là người cha và Người muốn để ba tôi không được chữa khỏi, không được chữa lành; nhưng cũng chính Người muốn cho Marcilio được chữa khỏi, được chữa lành. Khi tôi đọc Kinh Lạy Cha, tôi đọc rằng ‘ý Cha thể hiện’. Bởi thế, tôi sẽ không bao giờ đặt câu hỏi “tại sao lại là con?’
“Ý Chúa là điều rất quan trọng và rất đặc biệt, nó cũng rất tối cao. Nên tôi sẽ không hỏi lý do, không bao giờ”.