HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C
Gs 5,9a.10-12 ; 2 Cr 5,17-21 ; Lc 15,1-3.11-32
Đáp Lại Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 15,1-3.11-32
(1) Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người. (2) Còn những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. (3) Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này. (11) “Một người kia có hai con trai. (12) Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. (13) Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (14) Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. (16) Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. (17) Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho Cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! (18) Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, (19) chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. (20) Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...” (22) Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. (23) Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! (24) Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy người con cả của ông đang ờ ngoài đồng. Khi anh ta về gần nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì.. (27) Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. (28) Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. (29) Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con ăn mừng với bạn bè. (30) Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. (31) Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. (32) Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một người cha (c 11-32) có thể chia ra hai phần chính như sau:
- THÁI ĐỘ BAO DUNG CỦA NGƯỜI CHA ĐỐI VỚI ĐỨA CON THỨ: thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu của đứa con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ chức bữa tiệc mừng con hoang trở về.
- THÁI ĐỘ HẸP HÒI CỦA CON TRƯỞNG: Sau khi biết em đã trở về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn mở tiệc ăn mừng, thì anh con trưởng đã tỏ ra có thái độ hẹp hòi và ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị đứa em bất hiếu, và đối xử bất công với anh là đứa con hiếu thảo. Cuối cùng người cha đã phải ra gặp và giải tỏa những lời trách móc của người con cả. Ông khuyên anh hãy noi gương ông để tỏ ra bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Những người thu thuế: Chỉ trong Tin mừng Nhất lãm (Mátthêu, Máccô, Luca) mới đề cập đến hạng người thu thuế này (x. Mt 9,9 ; Mc 2,14 ; Lc 5,27). Họ bị coi là tay sai của chính quyền Rôma và bị tố cáo đã lạm thu thuế để hưởng lời bất chính (x. Lc 19,8b). Dân Do thái liệt họ vào hạng người tội lỗi xấu xa, ngang hàng với bọn trộm cắp đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). + Những người tội lỗi đến nghe Đức Giêsu giảng: Đây là các tội nhân đã phạm tội công khai như: Gái điếm (x. Lc 7,37), người phụ nữ Samaria có cuộc hôn nhân bất chính (x. Ga 4,18), người đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,3), kẻ bị quỷ ám (x. Lc 8,2) kẻ chơi bời trác táng (x. Lc 15,13.30), hay tên gian phi (x. Lc 23,39). + Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư: Pharisêu (hay Biệt phái) là những người Do thái đạo đức, sống tách biệt khỏi quần chúng. Kinh sư (hay Luật sĩ) là những nhà trí thức, xuất thân từ trường Kinh thánh. Họ có quyền giải thích Kinh thánh trong các hội đường Do thái vào các ngày Sabát. Họ được dân chúng kính trọng gọi là “Rápbi”, nghĩa là “Thầy” (x. Mt 23,7). + Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng: Người Pharisêu và Kinh sư trách Đức Giêsu vì đã thu nhận Lêvi là người thu thuế làm môn đệ, rồi lại còn đến nhà đồng bàn ăn uống với bọn người thu thuế bạn bè của Lêvi (x. Lc 5,27-32).
- C 11-13: + Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn chỉ có trong Tin mừng Luca, nói lên lòng bao dung của một người cha ám chỉ Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu, ám chỉ các người thu thuế tội lỗi.
- C 14-16: + Đi ở cho một người dân trong vùng: Đứa con thứ này đã rơi vào hòan cảnh túng cực: tự bán mình làm nô lệ cho người dân ngoại và bị người này sai đi chăn heo. Heo là con vật bị Luật Môsê coi là nhơ uế, vì được dân ngọai dùng làm lễ vật cúng tế cho thần minh của họ (x. Đnl 14,8). + Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta giờ đây không bằng loài heo nhơ bẩn!
- C 17-20a: + Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ...: Hòan cảnh đói khổ làm cho đứa con thứ phải xét lại hành động sai trái của mình. + Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha: Anh trở về không phải do thương nhớ cha, mà chỉ là một hành động có tính tóan và đầy vụ lợi! Dụ ngôn đã không nhấn mạnh đến sự ăn năn sám hối của người con thứ mà chỉ muốn đề cao tình thương bao dung của người cha.
- C 20b-24: + Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành động sau đó. Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Naim (7,3) và câu chuyện người Samaritanô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp này, “chạnh lòng thương” nên đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tình thương tha thứ. Tình thương này được diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy và chủ động chạy ra ôm hôn con để biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện, tha ngay trước khi nó kịp nói lời thú tội. + Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây...: Người cha không muốn nghe đứa con nói hết câu xin lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá điều nó dám mong ước. Ý nghĩa của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St 41:42) cho thấy người cha đã trả lại địa vị làm con dù anh chỉ xin là người làm công cho cha. “Giết bò béo” (St 18:7; 1 Sam 28:24) cho thấy niềm vui tột đỉnh của người cha muốn chia sẻ niềm vui với người khác. + Chân đi dép: ám chỉ là một người tự do, khác với các nô lệ phải đi chân đất. Vậy, người cha đã đón nhận lại đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào lại không xót thương con cái mình (x. Tv 103:13).
- C 25-28: + Người con cả: Tượng trưng cho các đầu mục dân Do thái. + nổi giận và không chịu vào nhà: Anh nổi giận vì nghĩ rằng cha đã cư xử bất công với anh. Anh từ chối vào nhà để tỏ thái độ phản đối cách cư xử bao dung của cha, khi ông không những đón nhận thằng con bất hiếu mà còn mở tiệc để ăn mừng nó trở về.
- C 29-30: + Còn thằng con của cha đó: Người con cả không coi người kia là em mình nên dùng cách nói khinh dể, giống như người Pharisêu đã khinh dể người thu thuế trong dụ ngôn “hai người lên Đền thờ cầu nguyện” (x. Lc 18,11).
- C 31-32: + Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con: Người cha nhắc cho anh con cả ý thức về tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn được hưởng. + Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Người cha mời gọi anh con cả hãy bước vào ngôi nhà tình thương của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm trở về. + “Em con đây”: Ong chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt của người anh: “Thằng con của cha đó” bằng từ yêu thương “Em con đây”. + “Đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”: Câu này gián tiếp trả lời những tiếng xầm xì của người Pharisêu và mời họ chia sẻ tâm tình của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.
4. CÂU HỎI:
HỎI 1) ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA CÁC NGƯỜI PHARISÊU VÀ KINH SƯ LÀ GÌ?
ĐÁP:
* VỀ ƯU ĐIỂM: Các người Pharisêu và Kinh sư được đánh giá là những người có lòng đạo đức, thể hiện qua việc siêng năng ăn chay cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và tuân giữ Luật Môsê trong từng chi tiết, nhất là luật về ngày Hưu lễ (nghỉ việc ngày Sabát), luật Thanh tẩy (rửa tay, rửa bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa...). Về giáo lý họ cũng tin như Đức Giêsu: tin có thiên thần (x. Cv 23,6-8), tin linh hồn bất tử và thân xác lòai người sau này sẽ sống lại.
* VỀ KHUYẾT ĐIỂM: Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn nặng lời quở trách họ về thói đạo đức giả (x. Mt 23). Chẳng hạn: Chỉ tuân giữ Luật theo hình thức bề ngoài; Tranh nhau ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc và ghế đầu trong hội đường; Ăn mặc lụng thụng để được người ta kính trọng (x. Mt 23,5-6); Tự hào vì đã tuân giữ Lề luật; Tự mãn về sự hiểu biết Luật và khinh thường dân chúng dốt nát; Dẫn đường mù quáng và có thái độ cố chấp khi đề cao truyền thống và luật truyền khẩu, mà quên đi các điều chính yếu của Luật (x. Mt 23,23); Bắt dân chúng tuân giữ các điều khỏan Lề Luật từng chi tiết đang khi chính mình lại không hề tuân giữ (x. Mc 12,38-40).
HỎI 2) THÁI ĐỘ CỦA CÁC PHARISÊU VÀ KINH SƯ ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊSU THẾ NÀO?
ĐÁP: Vì không nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (x. Mc 11,27-33), nên họ thường dò xét, gài bẫy để thử thách và tìm bắt lỗi Người. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ vụ Thiên Sai (x. Mc 8,11). Họ xuyên tạc các phép lạ Người làm để dân chúng đừng tin theo Người và không gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập (x. Mc 3,23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng Hê-rô-đê, và Thượng Hội Đồng Do thái ở Giêrusalem để bắt bớ Đức Giêsu và đã kết án tử hình cho Người một cách bất công (x. Lc 22,47-53; 23,1-7.18-25). Họ tiếp tục chế giễu Người khi treo Người trên cây thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên, trong số các Pharisêu cũng có một số người tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và sau này trở thành môn đệ của Người như: Ông Nicôđêmô (x. Ga 3,1), Gamalien (x. Cv 5,34-39) và nhất là tông đồ Phaolô (x. Cv 22,3 ; 26,5).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG CHA BAO DUNG:
RISỚT PINĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐEVÍT (David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp với cha mẹ như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp nhận cho con về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!”.
Vài ngày sau, Đevít lên xe lửa để trở về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến gần nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé Đevít: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim Đevít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?” Được ông đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo ấy và cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào không nhé?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đevít nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả!” Thì ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ để cậu yên tâm trở về.
2) LÒNG MẸ THƯƠNG CON THỂ HIỆN RA SAO ?
Một cô bé 5 tuổi đang ngồi trong lòng mẹ, chợt lên tiếng hỏi: “Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy được lòng mẹ không ?”. Bà mẹ đáp : “Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem con thấy gì trong đó ?” Cô bé nhướng mắt chăm chú nhìn vào đôi mắt của mẹ, rồi em sung sướng kêu lên : “Mẹ ơi ! Con đã nhìn thấy lòng mẹ thương con rồi. Trong đó chỉ có duy nhất một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ”!
3) CẢM NGHIỆM ĐƯỢC TÌNH THƯƠNG CỦA CHA GIÚP CON DỄ DÀNG HOÁN CẢI:
Gandhi kể rằng khi ông được 15 tuổi, ông đã phạm tội ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông cảm thấy áy náy nên quyết định đến thú tội với cha mình. Ông lấy ra một tờ giấy, viết lên đó tội ăn cắp mình đã làm và xin cha tha thứ. Cuối thư cậu cũng hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bị bệnh phải nằm trên giường. Gandhi tiến lại đưa tờ giấy thứ tội cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha đã ngồi dậy, cầm tờ giấy đọc, trong lúc ông đang đọc thì Gandhi thấy hai dòng lệ từ đôi mắt cha chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha đã không hề nổi giận và cũng chẳng nói lời trách móc. Ông ôm chầm lấy con và thấy sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ của cha là một cảm nghiệm rất sâu sắc. Sau này Gandhi viết : "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về thứ tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó mà thôi".
4) THA THỨ LÀ QUÊN MỌI TỘI KẺ KHÁC ĐÃ XÚC PHẠM ĐẾN MÌNH:
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không ?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp :
- Bà hỏi thế nào ?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo :”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm :
- Vậy Chúa có trả lời không ?
- Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ đã lo lắng thật sự :
- Chúa nói sao ?
- Chúa nói :”Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
3. THẢO LUẬN: 1) Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất để nhận được ơn giao hòa với Chúa ? Tại sao ? 2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ ăn năn sám hối tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào ?
4. SUY NIỆM:
Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng tình thương của Chúa như sau: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính trong dụ ngôn để từ đó nhận biết mình phải làm gì :
1) Thái độ sám hối quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15,12-19) : Tội của đứa con thứ là tội bất hiếu khi đòi cha chia gia tài cho anh ngay khi ông còn đang sống. Sau đó anh ta đã bỏ nhà đi hoang và ăn chơi phóng đãng tiêu tán hết số tiền của cha. Đến khi anh lâm cảnh đói rách phải đi làm thuê làm mướn và bị người chủ thuộc dân ngoại khinh dể đối xử còn tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến anh phải hồi tâm suy nghĩ và giúp anh quyết tâm đứng dậy quay về nhà xin lỗi cha, với ước mong được cha đối xử như một người làm công thôi. Câu“Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với người cha thân yêu.
2) Thái độ bao dung của người cha nhân hậu (15,20-24): Về phần người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông buồn sầu nhớ thương, ngày ngày ngóng nhìn ra cổng chờ mong nó mau quay về nhà. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra và “chạnh lòng thương”: Ông không nỡ trách mắng hay trừng phạt con, mà chạy ngay tới ôm chầm lấy cổ con và hôn lấy hôn để, rồi mau mắn trả lại địa vị làm con cho nó khi thay áo mới cho nó, đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ giầy vào chân và còn soạn bữa tiệc đãi các bạn bè hàng xóm và mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng đứa con, với lý do: “Tưởng nó đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất nó mà nay lại tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con hoang đàng.
3) Thái độ hẹp hòi của người con trưởng (15,25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về và đã được cha không những tha tội mà còn mở tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ giận dỗi người cha bằng cách không thèm vào nhà. Khi gặp được cha, anh đã chỉ trích lối hành xử của cha là bất công và không thể chấp nhận được (15,29). Thái độ giận dỗi của anh khiến người cha phải xuống nước năn nỉ và cố gắng giải thích cho con hiểu và cảm thông với mình: ”Tất cả những gì của cha đều là của con “ (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời của người cha khuyên con hãy có lòng bao dung với đứa em lầm lỗi: “Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chính lòng nhân hậu, yêu thương và không chấp nhất tội lỗi của đứa con đi hoang đã khiến ông quên đi mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng đã gây ra, mà chỉ còn thấy trước mặt ông là đứa con yêu mà ông hằng mong đợi nó mau trở về, đứa con mà ông tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng đứa con trở về.
Còn thái độ của người anh cả khi đi làm về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát ăn mừng đứa em mới về, chẳng những anh không vui mà còn tỏ thái độ hỗn láo trách móc cha, khiến ông phải chịu ra phân trần, năn nỉ và mời anh ta vào nhà với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu con cả rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Qua câu chuyện về tình thương tha thứ của người cha, ta thấy tình thương của Thiên Chúa Cha thật quảng đại, “chậm bất bình và hết sức khoan dung”, một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tha thứ. Tình thương bao la của Thiên Chúa đã được Thánh thi diễn tả: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).
4) Làm gì để đáp lại Lòng Chúa Thương Xót ? :
+ Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Chúa đã yêu thương chúng ta với tình yêu bao la như một người cha nhân hậu, sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng ta là con cái của Người: Người tha thứ không mệt mỏi, tha vô điều kiện và tha luôn mãi !
+ Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng sám hối và quyết tâm trở về với Người.
+ Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do trở về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa ? Cần cấp thời sám hối ăn năn quay về làm hòa với Chúa và lãnh ơn giao hòa trong phép Giải tội; Hãy đáp lại lòng thương xót của Thiên Chúa bằng việc thương xót người đau khổ và quảng đại tha thứ lỗi lầm cho tha nhân; Hãy quan tâm giúp người thân trong gia đình và bạn bè đang lạc xa Chúa để họ cũng nhận được ơn sám hối và mau hồi tâm trở về với Người.
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA CỦA CON. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giêsu đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha đang mời gọi các tội nhân trong đó có chúng con mau quay về giao hòa với Cha.
- LẠY CHA, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn... chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên trình bày Cha như một “ông chủ” chỉ muốn trừng phạt để họ sợ mà phải hồi tâm sám hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng bạo lực sửa dạy đe nẹt con cái khi chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha biết yêu thương con cái giống như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm được tình thương của cha và sớm sám hối quay về giao hòa với Cha trong Mùa Chay thánh này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
Gs 5,9a.10-12 ; 2 Cr 5,17-21 ; Lc 15,1-3.11-32
Đáp Lại Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 15,1-3.11-32
(1) Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người. (2) Còn những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. (3) Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này. (11) “Một người kia có hai con trai. (12) Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. (13) Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (14) Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. (16) Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. (17) Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho Cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! (18) Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, (19) chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. (20) Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...” (22) Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. (23) Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! (24) Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy người con cả của ông đang ờ ngoài đồng. Khi anh ta về gần nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì.. (27) Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. (28) Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. (29) Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con ăn mừng với bạn bè. (30) Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. (31) Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. (32) Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một người cha (c 11-32) có thể chia ra hai phần chính như sau:
- THÁI ĐỘ BAO DUNG CỦA NGƯỜI CHA ĐỐI VỚI ĐỨA CON THỨ: thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu của đứa con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ chức bữa tiệc mừng con hoang trở về.
- THÁI ĐỘ HẸP HÒI CỦA CON TRƯỞNG: Sau khi biết em đã trở về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn mở tiệc ăn mừng, thì anh con trưởng đã tỏ ra có thái độ hẹp hòi và ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị đứa em bất hiếu, và đối xử bất công với anh là đứa con hiếu thảo. Cuối cùng người cha đã phải ra gặp và giải tỏa những lời trách móc của người con cả. Ông khuyên anh hãy noi gương ông để tỏ ra bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Những người thu thuế: Chỉ trong Tin mừng Nhất lãm (Mátthêu, Máccô, Luca) mới đề cập đến hạng người thu thuế này (x. Mt 9,9 ; Mc 2,14 ; Lc 5,27). Họ bị coi là tay sai của chính quyền Rôma và bị tố cáo đã lạm thu thuế để hưởng lời bất chính (x. Lc 19,8b). Dân Do thái liệt họ vào hạng người tội lỗi xấu xa, ngang hàng với bọn trộm cắp đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). + Những người tội lỗi đến nghe Đức Giêsu giảng: Đây là các tội nhân đã phạm tội công khai như: Gái điếm (x. Lc 7,37), người phụ nữ Samaria có cuộc hôn nhân bất chính (x. Ga 4,18), người đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,3), kẻ bị quỷ ám (x. Lc 8,2) kẻ chơi bời trác táng (x. Lc 15,13.30), hay tên gian phi (x. Lc 23,39). + Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư: Pharisêu (hay Biệt phái) là những người Do thái đạo đức, sống tách biệt khỏi quần chúng. Kinh sư (hay Luật sĩ) là những nhà trí thức, xuất thân từ trường Kinh thánh. Họ có quyền giải thích Kinh thánh trong các hội đường Do thái vào các ngày Sabát. Họ được dân chúng kính trọng gọi là “Rápbi”, nghĩa là “Thầy” (x. Mt 23,7). + Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng: Người Pharisêu và Kinh sư trách Đức Giêsu vì đã thu nhận Lêvi là người thu thuế làm môn đệ, rồi lại còn đến nhà đồng bàn ăn uống với bọn người thu thuế bạn bè của Lêvi (x. Lc 5,27-32).
- C 11-13: + Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn chỉ có trong Tin mừng Luca, nói lên lòng bao dung của một người cha ám chỉ Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu, ám chỉ các người thu thuế tội lỗi.
- C 14-16: + Đi ở cho một người dân trong vùng: Đứa con thứ này đã rơi vào hòan cảnh túng cực: tự bán mình làm nô lệ cho người dân ngoại và bị người này sai đi chăn heo. Heo là con vật bị Luật Môsê coi là nhơ uế, vì được dân ngọai dùng làm lễ vật cúng tế cho thần minh của họ (x. Đnl 14,8). + Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta giờ đây không bằng loài heo nhơ bẩn!
- C 17-20a: + Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ...: Hòan cảnh đói khổ làm cho đứa con thứ phải xét lại hành động sai trái của mình. + Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha: Anh trở về không phải do thương nhớ cha, mà chỉ là một hành động có tính tóan và đầy vụ lợi! Dụ ngôn đã không nhấn mạnh đến sự ăn năn sám hối của người con thứ mà chỉ muốn đề cao tình thương bao dung của người cha.
- C 20b-24: + Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành động sau đó. Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Naim (7,3) và câu chuyện người Samaritanô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp này, “chạnh lòng thương” nên đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tình thương tha thứ. Tình thương này được diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy và chủ động chạy ra ôm hôn con để biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện, tha ngay trước khi nó kịp nói lời thú tội. + Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây...: Người cha không muốn nghe đứa con nói hết câu xin lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá điều nó dám mong ước. Ý nghĩa của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St 41:42) cho thấy người cha đã trả lại địa vị làm con dù anh chỉ xin là người làm công cho cha. “Giết bò béo” (St 18:7; 1 Sam 28:24) cho thấy niềm vui tột đỉnh của người cha muốn chia sẻ niềm vui với người khác. + Chân đi dép: ám chỉ là một người tự do, khác với các nô lệ phải đi chân đất. Vậy, người cha đã đón nhận lại đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào lại không xót thương con cái mình (x. Tv 103:13).
- C 25-28: + Người con cả: Tượng trưng cho các đầu mục dân Do thái. + nổi giận và không chịu vào nhà: Anh nổi giận vì nghĩ rằng cha đã cư xử bất công với anh. Anh từ chối vào nhà để tỏ thái độ phản đối cách cư xử bao dung của cha, khi ông không những đón nhận thằng con bất hiếu mà còn mở tiệc để ăn mừng nó trở về.
- C 29-30: + Còn thằng con của cha đó: Người con cả không coi người kia là em mình nên dùng cách nói khinh dể, giống như người Pharisêu đã khinh dể người thu thuế trong dụ ngôn “hai người lên Đền thờ cầu nguyện” (x. Lc 18,11).
- C 31-32: + Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con: Người cha nhắc cho anh con cả ý thức về tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn được hưởng. + Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Người cha mời gọi anh con cả hãy bước vào ngôi nhà tình thương của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm trở về. + “Em con đây”: Ong chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt của người anh: “Thằng con của cha đó” bằng từ yêu thương “Em con đây”. + “Đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”: Câu này gián tiếp trả lời những tiếng xầm xì của người Pharisêu và mời họ chia sẻ tâm tình của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.
4. CÂU HỎI:
HỎI 1) ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA CÁC NGƯỜI PHARISÊU VÀ KINH SƯ LÀ GÌ?
ĐÁP:
* VỀ ƯU ĐIỂM: Các người Pharisêu và Kinh sư được đánh giá là những người có lòng đạo đức, thể hiện qua việc siêng năng ăn chay cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và tuân giữ Luật Môsê trong từng chi tiết, nhất là luật về ngày Hưu lễ (nghỉ việc ngày Sabát), luật Thanh tẩy (rửa tay, rửa bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa...). Về giáo lý họ cũng tin như Đức Giêsu: tin có thiên thần (x. Cv 23,6-8), tin linh hồn bất tử và thân xác lòai người sau này sẽ sống lại.
* VỀ KHUYẾT ĐIỂM: Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn nặng lời quở trách họ về thói đạo đức giả (x. Mt 23). Chẳng hạn: Chỉ tuân giữ Luật theo hình thức bề ngoài; Tranh nhau ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc và ghế đầu trong hội đường; Ăn mặc lụng thụng để được người ta kính trọng (x. Mt 23,5-6); Tự hào vì đã tuân giữ Lề luật; Tự mãn về sự hiểu biết Luật và khinh thường dân chúng dốt nát; Dẫn đường mù quáng và có thái độ cố chấp khi đề cao truyền thống và luật truyền khẩu, mà quên đi các điều chính yếu của Luật (x. Mt 23,23); Bắt dân chúng tuân giữ các điều khỏan Lề Luật từng chi tiết đang khi chính mình lại không hề tuân giữ (x. Mc 12,38-40).
HỎI 2) THÁI ĐỘ CỦA CÁC PHARISÊU VÀ KINH SƯ ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊSU THẾ NÀO?
ĐÁP: Vì không nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (x. Mc 11,27-33), nên họ thường dò xét, gài bẫy để thử thách và tìm bắt lỗi Người. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ vụ Thiên Sai (x. Mc 8,11). Họ xuyên tạc các phép lạ Người làm để dân chúng đừng tin theo Người và không gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập (x. Mc 3,23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng Hê-rô-đê, và Thượng Hội Đồng Do thái ở Giêrusalem để bắt bớ Đức Giêsu và đã kết án tử hình cho Người một cách bất công (x. Lc 22,47-53; 23,1-7.18-25). Họ tiếp tục chế giễu Người khi treo Người trên cây thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên, trong số các Pharisêu cũng có một số người tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và sau này trở thành môn đệ của Người như: Ông Nicôđêmô (x. Ga 3,1), Gamalien (x. Cv 5,34-39) và nhất là tông đồ Phaolô (x. Cv 22,3 ; 26,5).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG CHA BAO DUNG:
RISỚT PINĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐEVÍT (David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp với cha mẹ như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp nhận cho con về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!”.
Vài ngày sau, Đevít lên xe lửa để trở về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến gần nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé Đevít: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim Đevít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?” Được ông đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo ấy và cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào không nhé?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đevít nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả!” Thì ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ để cậu yên tâm trở về.
2) LÒNG MẸ THƯƠNG CON THỂ HIỆN RA SAO ?
Một cô bé 5 tuổi đang ngồi trong lòng mẹ, chợt lên tiếng hỏi: “Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy được lòng mẹ không ?”. Bà mẹ đáp : “Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem con thấy gì trong đó ?” Cô bé nhướng mắt chăm chú nhìn vào đôi mắt của mẹ, rồi em sung sướng kêu lên : “Mẹ ơi ! Con đã nhìn thấy lòng mẹ thương con rồi. Trong đó chỉ có duy nhất một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ”!
3) CẢM NGHIỆM ĐƯỢC TÌNH THƯƠNG CỦA CHA GIÚP CON DỄ DÀNG HOÁN CẢI:
Gandhi kể rằng khi ông được 15 tuổi, ông đã phạm tội ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông cảm thấy áy náy nên quyết định đến thú tội với cha mình. Ông lấy ra một tờ giấy, viết lên đó tội ăn cắp mình đã làm và xin cha tha thứ. Cuối thư cậu cũng hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bị bệnh phải nằm trên giường. Gandhi tiến lại đưa tờ giấy thứ tội cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha đã ngồi dậy, cầm tờ giấy đọc, trong lúc ông đang đọc thì Gandhi thấy hai dòng lệ từ đôi mắt cha chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha đã không hề nổi giận và cũng chẳng nói lời trách móc. Ông ôm chầm lấy con và thấy sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ của cha là một cảm nghiệm rất sâu sắc. Sau này Gandhi viết : "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về thứ tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó mà thôi".
4) THA THỨ LÀ QUÊN MỌI TỘI KẺ KHÁC ĐÃ XÚC PHẠM ĐẾN MÌNH:
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không ?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp :
- Bà hỏi thế nào ?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo :”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm :
- Vậy Chúa có trả lời không ?
- Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ đã lo lắng thật sự :
- Chúa nói sao ?
- Chúa nói :”Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
3. THẢO LUẬN: 1) Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất để nhận được ơn giao hòa với Chúa ? Tại sao ? 2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ ăn năn sám hối tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào ?
4. SUY NIỆM:
Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng tình thương của Chúa như sau: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính trong dụ ngôn để từ đó nhận biết mình phải làm gì :
1) Thái độ sám hối quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15,12-19) : Tội của đứa con thứ là tội bất hiếu khi đòi cha chia gia tài cho anh ngay khi ông còn đang sống. Sau đó anh ta đã bỏ nhà đi hoang và ăn chơi phóng đãng tiêu tán hết số tiền của cha. Đến khi anh lâm cảnh đói rách phải đi làm thuê làm mướn và bị người chủ thuộc dân ngoại khinh dể đối xử còn tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến anh phải hồi tâm suy nghĩ và giúp anh quyết tâm đứng dậy quay về nhà xin lỗi cha, với ước mong được cha đối xử như một người làm công thôi. Câu“Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với người cha thân yêu.
2) Thái độ bao dung của người cha nhân hậu (15,20-24): Về phần người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông buồn sầu nhớ thương, ngày ngày ngóng nhìn ra cổng chờ mong nó mau quay về nhà. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra và “chạnh lòng thương”: Ông không nỡ trách mắng hay trừng phạt con, mà chạy ngay tới ôm chầm lấy cổ con và hôn lấy hôn để, rồi mau mắn trả lại địa vị làm con cho nó khi thay áo mới cho nó, đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ giầy vào chân và còn soạn bữa tiệc đãi các bạn bè hàng xóm và mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng đứa con, với lý do: “Tưởng nó đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất nó mà nay lại tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con hoang đàng.
3) Thái độ hẹp hòi của người con trưởng (15,25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về và đã được cha không những tha tội mà còn mở tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ giận dỗi người cha bằng cách không thèm vào nhà. Khi gặp được cha, anh đã chỉ trích lối hành xử của cha là bất công và không thể chấp nhận được (15,29). Thái độ giận dỗi của anh khiến người cha phải xuống nước năn nỉ và cố gắng giải thích cho con hiểu và cảm thông với mình: ”Tất cả những gì của cha đều là của con “ (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời của người cha khuyên con hãy có lòng bao dung với đứa em lầm lỗi: “Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chính lòng nhân hậu, yêu thương và không chấp nhất tội lỗi của đứa con đi hoang đã khiến ông quên đi mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng đã gây ra, mà chỉ còn thấy trước mặt ông là đứa con yêu mà ông hằng mong đợi nó mau trở về, đứa con mà ông tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng đứa con trở về.
Còn thái độ của người anh cả khi đi làm về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát ăn mừng đứa em mới về, chẳng những anh không vui mà còn tỏ thái độ hỗn láo trách móc cha, khiến ông phải chịu ra phân trần, năn nỉ và mời anh ta vào nhà với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu con cả rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Qua câu chuyện về tình thương tha thứ của người cha, ta thấy tình thương của Thiên Chúa Cha thật quảng đại, “chậm bất bình và hết sức khoan dung”, một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tha thứ. Tình thương bao la của Thiên Chúa đã được Thánh thi diễn tả: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).
4) Làm gì để đáp lại Lòng Chúa Thương Xót ? :
+ Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Chúa đã yêu thương chúng ta với tình yêu bao la như một người cha nhân hậu, sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng ta là con cái của Người: Người tha thứ không mệt mỏi, tha vô điều kiện và tha luôn mãi !
+ Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng sám hối và quyết tâm trở về với Người.
+ Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do trở về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa ? Cần cấp thời sám hối ăn năn quay về làm hòa với Chúa và lãnh ơn giao hòa trong phép Giải tội; Hãy đáp lại lòng thương xót của Thiên Chúa bằng việc thương xót người đau khổ và quảng đại tha thứ lỗi lầm cho tha nhân; Hãy quan tâm giúp người thân trong gia đình và bạn bè đang lạc xa Chúa để họ cũng nhận được ơn sám hối và mau hồi tâm trở về với Người.
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA CỦA CON. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giêsu đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha đang mời gọi các tội nhân trong đó có chúng con mau quay về giao hòa với Cha.
- LẠY CHA, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn... chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên trình bày Cha như một “ông chủ” chỉ muốn trừng phạt để họ sợ mà phải hồi tâm sám hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng bạo lực sửa dạy đe nẹt con cái khi chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha biết yêu thương con cái giống như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm được tình thương của cha và sớm sám hối quay về giao hòa với Cha trong Mùa Chay thánh này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM