Selma Ottilia Lovisa Lagerlöf (20 tháng 11 -1858 – 16 tháng 3- 1940) là một nữ văn sĩ Thụy Điển, được biết tới nhiều qua cuốn sách 'Những chuyện phiêu lưu thần kỳ cuả thằng Nils' ('The Wonderful Adventures of Nils', ) là một cuốn sách dạy điạ lý cho trẻ em. Cốt truyện dùng một sự tích thần thoại để tạo ra những cuộc du hành xuyên qua tất cả các tỉnh cuả nước Thụy Điển.
Bà là người phụ nữ đầu tiên lãnh giải văn chương Nobel (1909), vì "những tác phẩm đặc trưng cho những lý tưởng cao cả, óc tưởng tượng sống động và những nhận thức tâm linh sâu sắc"
Những tác phẩm cuả Lagerlöf’s được dịch ra trên 50 thứ tiếng, và một thời gian đã là cảm hứng cho nhiều cuốn phim câm nổi tiếng như những phim The Phantom Carriage (Cỗ xe ma 1921) và Gösta Berling’s Saga (Chiến công cuả Berling 1924), do Greta Garbo thủ vai.
Xuất thân là một cô giáo và lớn lên trong phong cảnh rừng núi thần thoại, bà có một lối hành văn giản dị, chậm rãi để khêu gợi óc tò mò và trí tưởng tượng, nhất là cuả trẻ em. Những từ ngữ bà dùng thì dễ hiểu và gần guĩ với những sự vật hằng ngày.
Đêm chí thánh (The Holy Night) kể lại sự tích Giáng Sinh cho trẻ em, lồng trong khung cảnh lối sống và tâm tình cuả người Thuỵ Điển, và đệm thêm vào những nét thần thoại quen thuộc cuả người bản xứ.
Đêm chí thánh (The Holy Night) – Selma Lagerlöf
Có một người đàn ông mò mẫm đi trong đêm tối để tìm than hồng về làm mồi lửa. Từ mái nhà tranh này tới mái nhà tranh nọ ông ta đã gõ cửa. "Bạn mến, xin giúp tôi!" ông nói. "Vợ tôi vừa sinh được một đứa bé, và tôi cần có lửa để sưởi ấm cho hai mẹ con."
Nhưng lúc đó đã khuya lắm, mọi người đang mắc ngủ. Không ai thèm trả lời.
Người đó đi và đi. Cuối cùng ông nhìn thấy một tia lửa lấp ló ở cuối con đường dài. Ông đi theo và nhận ra có một đống củi đang cháy ở giữa đồng trống. Có nhiều con cừu ngủ vây quanh, và một mục tử già ngồi canh bầy gia súc.
Khi người mượn lửa đến gần đàn cừu, ông thấy ba con chó lớn đang nằm ngủ dưới chân người chăn cừu. Tất cả ba con chó chồm dậy khi ông ta đến gần và chúng cùng nhe những chiếc răng vĩ đại của chúng ra, như thể muốn sủa; nhưng không một âm thanh nào phát ra được. Người mượn lửa nhìn thấy các sợi lông trên gáy của chúng dựng đứng lên và hàm răng trắng hếu lấp lánh trong ánh lửa. Chúng lao về phía ông ta.
Ông cảm thấy một con cắn vào chân và một con cắm vào tay và một con khác ngoạm vào cổ. Nhưng hàm răng của chúng không nghe theo chúng, và ông ta không mảy may bị hề hấn gì.
Bấy giờ ông ta cố đi tới, đến những gì ông đang cần. Nhưng đàn cừu nằm sát lưng vào nhau không để chừa một lối đi nào. Do đó, ông ta bước trên lưng chúng mà tiến về phiá lửa. Và không một con cừu nào đã bị đánh thức dậy hoặc động đậy.
Khi ông ta tiến tới gần lửa, người chăn cừu nhìn lên. Đó là một lão cáu kỉnh, không thân thiện và khắc nghiệt đối với người khác. Và khi nhìn thấy người lạ đến, lão nắm lấy một cái gậy dài, nhọn, mà lão luôn luôn cầm trong tay khi dẫn đàn cừu đi, và phóng vào người lạ. Cây gậy lướt thẳng tới người lạ, nhưng, trước khi đạt đến đích, nó bay lệch sang một bên và tránh qua người, rớt xa ngoài bãi cỏ.
Bây giờ người đàn ông tìm lửa đi đến và nói với lão chăn cừu: "Thưa ông, xin giúp tôi, và cho tôi mượn một ít lửa. Vợ tôi vừa mới sinh một đứa bé, và tôi phải đốt lửa để sưởi ấm cho hai mẹ con!. "
Lão chăn cừu định nói không, nhưng lão suy nghĩ rằng những con chó không thể làm tổn thương đến người lạ, và đàn chiên không bị thức dậy, và rằng cây gậy đã không thể đâm vào ông ta, lão cảm thấy có một chút sợ hãi, và không dám từ chối.
"Lấy bao nhiêu thì lấy!" lão nói với người lạ.
Nhưng lúc đó thì lửa đã tàn. Không còn khúc củi nào chưa cháy hết, chỉ là một đống than hồng, và người lạ cũng không mang theo thuổng hay xẻng để xúc than nóng.
Khi lão chăn cừu thấy vậy, lão lại nói: "Lấy bao nhiêu thì lấy!" Và lão vui mừng nghĩ rằng người đàn ông lạ sẽ không thể lấy bất cứ miếng than nào.
Nhưng người đàn ông lạ cúi xuống và nhặt than từ đống tro tàn với hai bàn tay trần, và đặt chúng vào vạt áo. Và ông ta đã không bị cháy tay khi chạm vào than hồng, và than cũng không cháy sém lớp áo; nhưng ông ta đã mang được chúng đi, giống như mang những hạt dẻ hay quả táo.
Và khi lão chăn cừu, một người độc ác và cứng lòng như vậy, nhìn thấy tất cả những điều này, lão bắt đầu tự hỏi với chính mình. Đêm hôm nay là đêm gì vậy, khi mà những con chó không cắn được, con cừu không sợ, cây nhọn không giết, hoặc lửa không đốt? Lão gọi người lạ trở lại và nói: "Đêm hôm nay là đêm gì vậy? và tại sao mọi sự động lòng trắc ẩn với ông như thế?"
Lúc đó, người lạ mặt nói: "Tôi không thể cho bạn biết nếu bạn không tự mình nhìn thấy nó." Rồi ông ta tiếp tục đi, để có thể về sớm đốt lửa mà sưởi ấm cho vợ con.
Nhưng lão chăn cừu cũng không muốn mất dấu của người lạ trước khi lão hiểu được những điều lạ lùng này. Lão đứng dậy đi theo người lạ cho đến khi họ đến nơi ở.
Lúc đó, lão chăn cừu thấy rằng người lạ này không có gì để ở dù là một túp lều, người vợ và đứa bé đang nằm trong một hang núi, không có gì khác ngoài bức tường đá trơn và lạnh.
Lão chăn cừu nghĩ rằng đứa trẻ ngây thơ nghèo khổ có thể sẽ chết đông lạnh ở trong hang; và, mặc dù lão là một người đàn ông hà khắc, lão cũng thấy động lòng, và có ý nghĩ phải giúp đỡ đứa bé. Và lão đã mở cái gói đeo trên vai, lấy ra một tấm da cừu mềm mại màu trắng, đưa cho người đàn ông lạ, và nói rằng ông ta nên cho đứa bé ngủ ở trong đó.
Nhưng ngay sau khi lão thể hiện được lòng thương xót ấy, thì đôi mắt của lão đã được mở ra, và lão đã nhìn thấy những gì mà lão đã không thể nhìn thấy trước, và nghe những gì mà lão đã không thể nghe trước đây.
Lão thấy xung quanh lão đứng một vòng các thiên thần có đôi cánh bạc, và mỗi thiên thần cầm một cây đàn, và tất cả đang ca hát lớn tiếng rằng tối nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cứu chuộc thế giới thoát khỏi mọi tội lỗi.
Vì thế, lão đã hiểu tại sao tất cả mọi thứ đều hạnh phúc trong đêm nay đến nỗi không ai có thể làm bất cứ điều gì sai trái.
Và không chỉ xung quanh người chăn cừu mới có những thiên thần, nhưng lão nhìn thấy thiên thần ở khắp mọi nơi. Ngồi trong hang, ngồi bên ngoài trên núi, và bay dưới bầu trời. Các thiên thần diễu hành từng đoàn lớn, và, khi họ đi qua, họ dừng lại và liếc mắt nhìn vào con trẻ.
Đầy dẫy những hân hoan và vui mừng và ca hát và nhảy muá! Và tất cả điều này, lão đã nhìn thấy trong một đêm tối mà trước đó lão đã không thể tưởng tượng ra bất cứ điều gì. Lão rất hạnh phúc bởi vì đôi mắt của lão đã được mở ra và lão đã quì gối xuống và tạ ơn Chúa.
Những gì mà lão chăn cừu đã thấy, chúng ta cũng có thể thấy được, bởi vì các thiên thần vẫn bay từ trời xuống mỗi đêm Giáng Sinh, nếu con mắt chúng ta có thể mở ra mà nhìn thấy được.
Các em phải nhớ như thế, vì đó là sự thật, là đúng như tôi nhìn thấy các em và các em nhìn thấy tôi. Những điều đó không phát lộ ra dưới ánh đèn hoặc ánh nến, và cũng không phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời và mặt trăng; nhưng điều cần thiết là chúng ta phải biết mở lòng ra để nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa.