Gần đây, trên mạng và báo chí có những bài như “Nghề đi tu” hay “Đời sống xa hoa của một giám mục” v.v… Những bài này nhằm phản ánh dư luận của dân chúng về phong thái của những người đi tu, để nhắc nhở cho giới tu hành rằng phải xem xét lại lối sống của mình sao cho đích đáng. Vì thế, thiết tưởng đây là lúc nên đặt lại vấn đề “Linh mục và của cải trần gian” theo các chỉ dẫn của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm họp tại Roma năm 1971. Thời gian tài liệu đó ra đời tính đến nay đã hơn 40 năm, nhưng giá trị và tính thời sự của nó vẫn không thay đổi, vì đó là đề tài cần thiết và lâu lâu cần phải được nhắc lại.
Thật vậy, trong các đòi hỏi phải từ bỏ của Chúa Giê-su đưa ra cho các Tông Đồ, có một đòi hỏi về vật chất, đặc biệt là tiền của (Mc 10,21; Lc, 18,22}. Đó cũng là một đòi hỏi được gửi đến mọi Ki-tô hữu theo tinh thần nghèo khó, nghĩa là gỡ lòng mình cho khỏi dính bén của cải để có thể thanh thản phụng thờ Chúa và quảng đại phục vụ tha nhân. Nghèo khó là một hình thức cam kết dựa vào lòng tin vào Chúa Giê-su và lòng mến dành cho Người. Hình thức này đòi phải có sự thực tập, một sự từ bỏ của cải tương ứng với đời sống và bậc đời của mỗi người theo ơn gọi ki-tô hữu, với tư cách riêng của mỗi cá nhân hay chung của một cộng đoàn thánh hiến. Tinh thần nghèo khó có giá trị đối với mọi người. Mỗi người phải thực hiện theo cách nào đó cho phù hợp với Tin Mừng.
Đức nghèo khó mà Chúa Giê-su yêu cầu các Tông Đồ thực hành là một mạch suối tu đức không vơi cạn. Đức này không dành cho những nhóm đặc biệt mà thôi, vì tinh thần nghèo khó cần cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Thiếu sót trong vấn đề này là đi ngược lại với giáo huấn của Tin Mừng. Tuy nhiên, trung thành với tinh thần này không có nghĩa là phải từ bỏ mọi sở hữu hay bãi bỏ quyển sở hữu cải vật chất đối với các Ki-tô hữu hay các linh mục. Nhiều lần Huấn Quyền đã kết án những ai chủ trương như thế và tìm cách hướng dẫn tư tưởng và hành động theo đường lối thích hợp. Trong nhiều trường hợp phải đứng trước những tình trạng khó khăn, Hội Thánh đã tìm cách vượt qua bằng nhiều hình thức, nhất là bằng cách kêu gọi lòng hảo tâm của các tín hữu để có phương tiện lo việc thờ phượng, hoạt động bác ái, nuôi dưỡng linh mục, làm việc truyền giáo v.v…
Đúc nghèo khó theo Tin Mừng không hề khinh chê của cải trần gian vì những thứ này được ban cho con người là để sống và hợp tác với chương trình sáng tạo của hiên Chúa. Theo Công Đồng Va-ti-ca-nô II, linh mục cũng như mọi Ki-tô hữu, vì có nhiệm vụ ca tụng và tạ ơn, nên phải nhìn nhận và tán dương lòng quảng đại của Cha trên Trời được biểu lộ trong các của cải trần gian (PO 17). Nhưng Công Đồng còn nói thêm là các linh mục đang khi sống ở giữa thế gian phải luôn luôn nhớ rằng mình không thuộc về thế gian này (Ga 17,14-16) và phải gỡ mình ra cho khỏi mọi ràng buộc quá đáng, hầu đạt được một tư thế thiêng liêng thích hợp và quân bình với thế gian và những sự đời (Pastores do vobis 30).
Đó là một vấn đề tế nhị, vì Hội Thánh thi hành sứ vụ giữa thế gian và của cải vật chất là hoàn toàn cần thiết cho con người để được phát triển. Chúa Giê-su đã không cấm các Tông Đồ nhận các thứ cần thiết cho đời sống ở trần gian. Người cũng xác nhận quyền của các ông khi sai các ông đi rao giảng : “Người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công.” (Lc 10,7; x. Mt 10,10). Thánh Phao-lô cũng nhắc cho tín hữu Co-rin-tô : “Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng (1 Cr 9,14) ; Người được học lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình.” (Gl 6,6)
Vì thế, các linh mục có của cải vật chất để sử dụng là điều chính đáng, theo lệnh truyền của Chúa và giáo huấn của Hội Thánh (PO 17). Về điểm này, Công Đồng đưa ra những chỉ dẫn cụ thể sau đây :
Trước hết, việc quản trị tài sản chính thức của Hội Thánh phải được bảo dảm theo các luật lệ hiện hành, với sự trợ giúp của các giáo dân thành thạo. Những của cải này phải luôn luôn được sử dụng để lo công việc thờ phượng, bảo đảm cho linh mục một mức sống vừa đủ, yểm trợ các công việc tông đồ, bác ái, đặc biệt giúp người nghèo. Những nguồn lợi do công việc đạo đức hay chức vụ linh mục mang lại phải được dùng, trước hết để bảo đảm đời sống và hoàn thành những bổn phận của đấng bậc mình. Phần còn lại phải dùng để phục vụ Hội Thánh và những công việc bác ái. Phải đặc biệt nhấn mạnh đến điều này là bất cứ một chức vụ nào trong Hội Thánh được trao cho các linh mục và cả các giám mục nữa, không bao giờ được coi đó là một cơ hội để làm giầu cho cá nhân hay gia đình mình. Vì thế, các linh mục chẳng những không được dính bén của cải mà lại còn phải tránh mọi dáng dấp ham muốn và cẩn thận loại bỏ mọi hình thức buôn bán. Tựu trung, nên nhớ rằng trong việc dùng của cải, mọi sự đều phải dựa vào và diễn ra theo ánh sáng của Tin Mừng.
Khi linh mục làm hay quản trị những công việc đời không thuộc phạm vi thiêng thánh hay tôn giáo cũng phải tuân theo nguyên tắc nói trên. Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 tuyên bố rằng bình thường linh mục phải dành toàn thời giờ cho công việc theo chức vụ. Vậy tuyệt đối không được tham gia vào các việc đời và coi đó như mục đích chính. Những công việc này không thể diễn tả cách thỏa đáng trách nhiệm riêng biệt của linh mục. Thượng Hội Đồng cũng đã bày tỏ thái độ và lập trường trước khuynh hướng muốn tục hóa hoạt động của linh mục, muốn linh mục làm một nghề như những người khác ở đời.
Quả thật, có những trường hợp và ở những nơi người ta không biết Chúa Ki-tô, nên cách hữu hiệu nhất để đưa Hội Thánh đến với họ là có những linh mục cùng làm việc, sinh sống như họ và ở giữa họ như Các Linh Mục Thợ chẳng hạn. Lòng quảng đại của những linh mục này thật đánh hoan nghênh. Tuy nhiên, vẫn phải coi chừng vì làm như vậy, linh mục có thể đưa xuống hàng thứ yếu hay loại bỏ thừa tác vụ của mình. Vì mối nguy cơ này như kinh nghiệm chứng tỏ, Công Đồng đòi linh mục nào muốn làm việc lao động như những công nhân, phải được giám mục của mình ưng thuận và cho phép (PO 8). Thượng Hội Đồng 1971 đã đặt ra qui tắc là linh mục làm việc đời phải tùy thuộc giám mục và linh mục đoàn và nếu cần phải xin ý kiến của Hội Đồng Giám Mục (Ench. Vat. IV, 1190).
Đôi khi cũng có những trường hợp như đã xẩy ra trong quá khứ là có những linh mục có năng khiếu và được huấn luyện kỹ, hoạt động trong lãnh vực lao động hay văn hóa nghệ thuật không ăn nhằm gì với công việc đạo. Đây là một trường hợp hết sức đặc biệt và phải theo tiêu chuẩn Thượng Hội Đồng 1971 đã đề ra như mới nói ở trên, nếu muốn trung thành với Tin Mừng và Hội Thánh.
Chúa Giê-su đã sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó. Thánh Phao-lô nhắc bảo chúng ta : “Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em.”(2 Cr 8,9). Chính Chúa cũng nói với chàng thanh niên muốn theo mình : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9,57) Những lời này cho thấy một cảnh trơ trụi hoàn toàn, không có chút gì là tiện nghi vật chất. Nhưng không nên vì thế mà vội kết luận Chúa sống trong cảnh bần cùng. Có những đoạn trong Tin Mừng nói Chúa được mời và nhận lời tới nhà những người giầu có (Mt 9,10-11 ; Mc 2,15-16 ; Lc 5,29. 7,36. 19,5-6) cũng như được nhóm phụ nữ trợ giúp về các nhu cầu vật chất. (Lc 8,2-3 ; Mt 27, 55 ; Mc 15,40-41)
Một tinh thần nghèo khó như thế phải được ghi dấu ấn lên cách ăn ở, thái độ, cử chỉ, đời sống và bộ mặt của linh mục là mục tử và người của Chúa. Điều ấy có thể diễn ra bằng một thái độ vô vị lợi, một sự dứt bỏ đối với tiền bạc, một sự từ chối mọi thứ ham muốn trong việc chiếm hữu của cải vật chất, một lối sống đơn sơ, một nơi ở bình thường ai cũng tới được, không có gì xa hoa, đài các.
Kết luận
Chúa Giê-su đã đến rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo hèn bé nhỏ. Linh mục và giám mục phải tránh hết sức những gì có thể đưa mình ra xa người nghèo (PO 17). Ngược lại, nếu tập được cho mình tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng, các vị sẽ đi đến với họ và tim cách chia sẻ giúp đỡ họ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là bằng chứng về Chúa Giê-su nghèo khó của những linh mục nghèo và bạn của những người nghèo. Đó là ngọn lửa tình yêu bập bùng cháy lên trong đời sống của hàng giáo sĩ và Hội Thánh. Nó sẽ có sức chiếu giãi và thu phục nhân tâm hơn những gì khác. Nguyên việc linh mục sống đơn sơ bình dị, không ham tiền đã là một bằng chứng quí giá cho việc rao giảng Tin Mừng rồi.
Thật vậy, trong các đòi hỏi phải từ bỏ của Chúa Giê-su đưa ra cho các Tông Đồ, có một đòi hỏi về vật chất, đặc biệt là tiền của (Mc 10,21; Lc, 18,22}. Đó cũng là một đòi hỏi được gửi đến mọi Ki-tô hữu theo tinh thần nghèo khó, nghĩa là gỡ lòng mình cho khỏi dính bén của cải để có thể thanh thản phụng thờ Chúa và quảng đại phục vụ tha nhân. Nghèo khó là một hình thức cam kết dựa vào lòng tin vào Chúa Giê-su và lòng mến dành cho Người. Hình thức này đòi phải có sự thực tập, một sự từ bỏ của cải tương ứng với đời sống và bậc đời của mỗi người theo ơn gọi ki-tô hữu, với tư cách riêng của mỗi cá nhân hay chung của một cộng đoàn thánh hiến. Tinh thần nghèo khó có giá trị đối với mọi người. Mỗi người phải thực hiện theo cách nào đó cho phù hợp với Tin Mừng.
Đức nghèo khó mà Chúa Giê-su yêu cầu các Tông Đồ thực hành là một mạch suối tu đức không vơi cạn. Đức này không dành cho những nhóm đặc biệt mà thôi, vì tinh thần nghèo khó cần cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Thiếu sót trong vấn đề này là đi ngược lại với giáo huấn của Tin Mừng. Tuy nhiên, trung thành với tinh thần này không có nghĩa là phải từ bỏ mọi sở hữu hay bãi bỏ quyển sở hữu cải vật chất đối với các Ki-tô hữu hay các linh mục. Nhiều lần Huấn Quyền đã kết án những ai chủ trương như thế và tìm cách hướng dẫn tư tưởng và hành động theo đường lối thích hợp. Trong nhiều trường hợp phải đứng trước những tình trạng khó khăn, Hội Thánh đã tìm cách vượt qua bằng nhiều hình thức, nhất là bằng cách kêu gọi lòng hảo tâm của các tín hữu để có phương tiện lo việc thờ phượng, hoạt động bác ái, nuôi dưỡng linh mục, làm việc truyền giáo v.v…
Đúc nghèo khó theo Tin Mừng không hề khinh chê của cải trần gian vì những thứ này được ban cho con người là để sống và hợp tác với chương trình sáng tạo của hiên Chúa. Theo Công Đồng Va-ti-ca-nô II, linh mục cũng như mọi Ki-tô hữu, vì có nhiệm vụ ca tụng và tạ ơn, nên phải nhìn nhận và tán dương lòng quảng đại của Cha trên Trời được biểu lộ trong các của cải trần gian (PO 17). Nhưng Công Đồng còn nói thêm là các linh mục đang khi sống ở giữa thế gian phải luôn luôn nhớ rằng mình không thuộc về thế gian này (Ga 17,14-16) và phải gỡ mình ra cho khỏi mọi ràng buộc quá đáng, hầu đạt được một tư thế thiêng liêng thích hợp và quân bình với thế gian và những sự đời (Pastores do vobis 30).
Đó là một vấn đề tế nhị, vì Hội Thánh thi hành sứ vụ giữa thế gian và của cải vật chất là hoàn toàn cần thiết cho con người để được phát triển. Chúa Giê-su đã không cấm các Tông Đồ nhận các thứ cần thiết cho đời sống ở trần gian. Người cũng xác nhận quyền của các ông khi sai các ông đi rao giảng : “Người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công.” (Lc 10,7; x. Mt 10,10). Thánh Phao-lô cũng nhắc cho tín hữu Co-rin-tô : “Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng (1 Cr 9,14) ; Người được học lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình.” (Gl 6,6)
Vì thế, các linh mục có của cải vật chất để sử dụng là điều chính đáng, theo lệnh truyền của Chúa và giáo huấn của Hội Thánh (PO 17). Về điểm này, Công Đồng đưa ra những chỉ dẫn cụ thể sau đây :
Trước hết, việc quản trị tài sản chính thức của Hội Thánh phải được bảo dảm theo các luật lệ hiện hành, với sự trợ giúp của các giáo dân thành thạo. Những của cải này phải luôn luôn được sử dụng để lo công việc thờ phượng, bảo đảm cho linh mục một mức sống vừa đủ, yểm trợ các công việc tông đồ, bác ái, đặc biệt giúp người nghèo. Những nguồn lợi do công việc đạo đức hay chức vụ linh mục mang lại phải được dùng, trước hết để bảo đảm đời sống và hoàn thành những bổn phận của đấng bậc mình. Phần còn lại phải dùng để phục vụ Hội Thánh và những công việc bác ái. Phải đặc biệt nhấn mạnh đến điều này là bất cứ một chức vụ nào trong Hội Thánh được trao cho các linh mục và cả các giám mục nữa, không bao giờ được coi đó là một cơ hội để làm giầu cho cá nhân hay gia đình mình. Vì thế, các linh mục chẳng những không được dính bén của cải mà lại còn phải tránh mọi dáng dấp ham muốn và cẩn thận loại bỏ mọi hình thức buôn bán. Tựu trung, nên nhớ rằng trong việc dùng của cải, mọi sự đều phải dựa vào và diễn ra theo ánh sáng của Tin Mừng.
Khi linh mục làm hay quản trị những công việc đời không thuộc phạm vi thiêng thánh hay tôn giáo cũng phải tuân theo nguyên tắc nói trên. Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 tuyên bố rằng bình thường linh mục phải dành toàn thời giờ cho công việc theo chức vụ. Vậy tuyệt đối không được tham gia vào các việc đời và coi đó như mục đích chính. Những công việc này không thể diễn tả cách thỏa đáng trách nhiệm riêng biệt của linh mục. Thượng Hội Đồng cũng đã bày tỏ thái độ và lập trường trước khuynh hướng muốn tục hóa hoạt động của linh mục, muốn linh mục làm một nghề như những người khác ở đời.
Quả thật, có những trường hợp và ở những nơi người ta không biết Chúa Ki-tô, nên cách hữu hiệu nhất để đưa Hội Thánh đến với họ là có những linh mục cùng làm việc, sinh sống như họ và ở giữa họ như Các Linh Mục Thợ chẳng hạn. Lòng quảng đại của những linh mục này thật đánh hoan nghênh. Tuy nhiên, vẫn phải coi chừng vì làm như vậy, linh mục có thể đưa xuống hàng thứ yếu hay loại bỏ thừa tác vụ của mình. Vì mối nguy cơ này như kinh nghiệm chứng tỏ, Công Đồng đòi linh mục nào muốn làm việc lao động như những công nhân, phải được giám mục của mình ưng thuận và cho phép (PO 8). Thượng Hội Đồng 1971 đã đặt ra qui tắc là linh mục làm việc đời phải tùy thuộc giám mục và linh mục đoàn và nếu cần phải xin ý kiến của Hội Đồng Giám Mục (Ench. Vat. IV, 1190).
Đôi khi cũng có những trường hợp như đã xẩy ra trong quá khứ là có những linh mục có năng khiếu và được huấn luyện kỹ, hoạt động trong lãnh vực lao động hay văn hóa nghệ thuật không ăn nhằm gì với công việc đạo. Đây là một trường hợp hết sức đặc biệt và phải theo tiêu chuẩn Thượng Hội Đồng 1971 đã đề ra như mới nói ở trên, nếu muốn trung thành với Tin Mừng và Hội Thánh.
Chúa Giê-su đã sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó. Thánh Phao-lô nhắc bảo chúng ta : “Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em.”(2 Cr 8,9). Chính Chúa cũng nói với chàng thanh niên muốn theo mình : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9,57) Những lời này cho thấy một cảnh trơ trụi hoàn toàn, không có chút gì là tiện nghi vật chất. Nhưng không nên vì thế mà vội kết luận Chúa sống trong cảnh bần cùng. Có những đoạn trong Tin Mừng nói Chúa được mời và nhận lời tới nhà những người giầu có (Mt 9,10-11 ; Mc 2,15-16 ; Lc 5,29. 7,36. 19,5-6) cũng như được nhóm phụ nữ trợ giúp về các nhu cầu vật chất. (Lc 8,2-3 ; Mt 27, 55 ; Mc 15,40-41)
Một tinh thần nghèo khó như thế phải được ghi dấu ấn lên cách ăn ở, thái độ, cử chỉ, đời sống và bộ mặt của linh mục là mục tử và người của Chúa. Điều ấy có thể diễn ra bằng một thái độ vô vị lợi, một sự dứt bỏ đối với tiền bạc, một sự từ chối mọi thứ ham muốn trong việc chiếm hữu của cải vật chất, một lối sống đơn sơ, một nơi ở bình thường ai cũng tới được, không có gì xa hoa, đài các.
Kết luận
Chúa Giê-su đã đến rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo hèn bé nhỏ. Linh mục và giám mục phải tránh hết sức những gì có thể đưa mình ra xa người nghèo (PO 17). Ngược lại, nếu tập được cho mình tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng, các vị sẽ đi đến với họ và tim cách chia sẻ giúp đỡ họ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là bằng chứng về Chúa Giê-su nghèo khó của những linh mục nghèo và bạn của những người nghèo. Đó là ngọn lửa tình yêu bập bùng cháy lên trong đời sống của hàng giáo sĩ và Hội Thánh. Nó sẽ có sức chiếu giãi và thu phục nhân tâm hơn những gì khác. Nguyên việc linh mục sống đơn sơ bình dị, không ham tiền đã là một bằng chứng quí giá cho việc rao giảng Tin Mừng rồi.