Linh đạo của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, tên khai sinh của Ngài là Karol Józef Wojtyła. Ngài sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan, cách Kraków 50 cây số. Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 264 của Giáo Hội Công Giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Cho đến khi qua đời, triều đại của Ngài đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại Giáo Hoàng dài thứ ba trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, sau triều đại Giáo Hoàng của Thánh Phêrô trải dài 34 năm và triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX trải dài 32 năm. Cho đến hiện tại, Ngài là vị Giáo Hoàng duy nhất người Ba Lan và là Giáo Hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Đức Giáo Hoàng Ađrianô VI vào năm 1520. Ngài được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20. và cả những năm đầu thế kỷ 21.

Trong triều đại của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mở rộng ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo trong Thế giới thứ ba. Ngài đã thực hiện rất nhiều chuyến tông du hơn 129 quốc gia, Ngài có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ, ngoài tiếng Ba Lan còn có tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và một chút tiếng Việt.

Trong suốt triều đại của mình, Ngài đã lên tiếng phản đối chiến tranh và kêu gọi hòa bình, phản đối chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, chế độ độc tài, chủ nghĩa duy vật, các phương pháp phá thai, thuyết tương đối, chủ nghĩa tư bản và cách thức chết êm dịu. Đức Giáo Hoàng cũng được coi là một trong những nguồn lực dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và Đông Âu.

Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính Thống Giáo Đông Phương, Do Thái Giáo và Anh giáo. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật Giáo, Khổng Giáo, Chính Thống Giáo Đông Phương, Do Thái Giáo, Cao Đài và Hồi Giáo. Ngài còn là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi Giáo ở Syria, và là vị Giáo Hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm, và cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã được Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI phong là Đấng Đáng Kính vào ngày 19 tháng 12 năm 2009 và phong Chân Phước vào ngày 1 tháng 5 năm 2011. Mặc dù chưa chính thức được phong thánh nhưng vì Ngài là người sáng lập ra Đại hội Giới Trẻ Thế Giới nên Ngài được chọn là một trong những vị Thánh Quan Thầy bảo trợ cho ba kỳ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới liên tiếp tại Sydney năm 2008, Madrid năm 2011, và tại Rio de Janeiro năm 2013. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sẽ được phong thánh vào ngày 27.4.2014 tại Roma.

ĐỜI TU SĨ.

Năm 1941, sau khi người cha qua đời, chàng thanh Karol Józef Wojtyła Karol đã dấn thân sâu hơn trong việc học triết học. Tại nhà Kydrynskis-một người bạn, nơi Karol Józef Wojtyła đã dọn đến và ở trong sáu tháng, iê n ta thường thấy Karol Józef Wojtyła nằm xoài ra sàn nhà cầu nguyện, tay dang ngang như hình Thánh Giá.

Vào mùa thu năm 1942, sau một cuộc thảo luận dài với cha giải tội Figlewicz, Wojtyla đến nhà riêng tổng Giám mục Sapieha và trình bày ước nguyện trở thành tu sĩ với vị Giám mục. Trước đó, Karol đã tới tu viện khổ hạnh dòng Carmelite ở Czerna với hy vọng được vào đây nhưng tu viện này đã bị Đức Quốc Xã đóng cửa. Mặc dù những người bạn đã cố gắng thuyết phục Karol Józef Wojtyła đừng rời bỏ sự nghiệp sân khấu, nhưng Karol vẫn quyết định theo con đường mình đã chọn.

Karol Józef Wojtyła bắt đầu lén lút học những môn của Chủng Viện Kraków, do Đức Hồng Y Adam Stefan Sapieha, lúc đó là Tổng Giám Mục Kraków, điều hành. Mỗi người được trao cho một vị giáo sư. Các lớp học được tổ chức ở nhà tu, nhà thờ và ở nhà riêng. Những chủng sinh này được yêu cầu không để những người quen biết về việc học tập của họ và bản thân những người này vẫn duy trì một nếp sống bên ngoài như bình thường. Trong thời gian này, Karol Józef Wojtyła đã đọc cuốn “Luận về sự hiến dâng hoàn toàn cho Đức Mẹ Đồng Trinh” của Thánh Louis Grignion de Montfort, và cuốn “Lý Thuyết Tự Nhiên” của Kazimierz Wars. Ngày 6 tháng 8 năm 1944, "Ngày Chúa Nhật Đen" khi hơn 8000 người đàn ông và các cậu bé đã bị quân đội Phát Xít bắt giam, rất may mắn Karol Józef Wojtyła đã không nằm trong số đó. Sau sự kiện này, Karol Józef Wojtyła vào ẩn trú trong dinh tổng Giám mục và không tiếp tục làm việc tại Solvay nữa. Ngày 13 tháng 11, Karol Józef Wojtyła chịu chức Cắt Tóc, một nghi lễ từ thời trung cổ, là biểu tượng của đời tận hiến cho Thiên Chúa.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Karol Józef Wojtyła trở về phân khoa Thần Học của Ðại Học Jagiellonia vừa được mở cửa lại. Tại đây, Karol Józef Wojtyła đã được bầu làm phó chủ tịch hội sinh viên. Trong thời gian này, Karol đã tập trung vào việc hoàn tất các chương trình nghiên cứu của năm 3 và năm 4. Từ tháng 4 năm 1945 cho tới tháng 8 năm 1946, Karol cũng làm việc ở cương vị phụ giáo.

Karol Józef Wojtyła cũng đệ đơn xin gia nhập tu viện Czera của dòng Carmelite đã được mở cửa trở lại. Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục Sapieha đã kiên quyết từ chối việc cho phép Wojtyla gia nhập dòng tu.

ĐỜI LINH MỤC.

Thầy Karol Józef Wojtyła được thụ phong Linh Mục vào dịp Lễ Các Thánh ngày 1 tháng 11 năm 1946 sớm hơn sáu tháng so với các chủng sinh đồng khóa. Ngày hôm sau, tại Nhà Thờ lớn Wawel, Cha Karol đã cử hành Thánh Lễ đầu tiên. Sau đó không lâu, Đức Hồng Y Sapieha gửi Linh Mục Karol Wojtyla đi du học Roma, tại Ðại học của các Linh Mục Dòng Ða Minh Angelicum. Dưới sự hướng dẫn của Quý Linh Mục Dòng Ða Minh nổi tiếng là Garrigou Lagrange, Cha Karol Józef Wojtyła hoàn thành luận án tiến sĩ thần học về đề tài Ðức Tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá vào năm 1948. Trong các kỳ nghỉ hè trong thời gian du học tại Roma, Cha Karol Józef Wojtyła thi hành mục vụ nơi các người Ba Lan di dân sống bên Pháp, Hoà Lan và Bỉ.

Sau khi hoàn tất học trình tiến sĩ trong thời gian du học ở Roma, tháng 7 năm 1948, Cha Karol Wojtyla được Đức Hồng Y Sapieha bổ nhiệm làm Linh Mục phụ tá Niegowic, một giáo xứ hẻo lánh thuộc vùng quê Galicia, cách Kraków 30 dặm.Mỗi buổi sáng, Cha Karol Wojtyla thức giấc lúc 5 giờ, dâng Thánh Lễ, điểm tâm rồi dùng xe ngựa di chuyển một vòng qua các khu trong giáo xứ, hướng dẫn giáo lý cho thiếu nhi và cử hành Thánh Lễ tại một khu xóm. Sau đó, Cha trở về nhà xứ ăn trưa, tiếp khách hoặc đi thăm viếng giáo dân. Những buổi chiều hoặc những cuối tuần rảnh rỗi Cha còn tự mình phụ giúp giáo dân địa phương những công việc lao động trong nhà.

Cũng trong thời gian làm phó xứ Niegowic, Cha Karol Józef Wojtyła đã cống hiến nhiều thì giờ cho giới trẻ tại đây. Ngài hướng dẫn họ trình diễn trên sân khấu, giúp họ học thêm để bồi bổ kiến thức, tổ chức những buổi cắm trại trong rừng hoặc những chuyến du ngoạn trong các khu lân cận thuộc giáo phận Krakow, thành lập các đội bóng chuyền và túc cầu cho thanh thiếu niên trong vùng.

Tháng 3 năm 1949, Đức Hồng Y Sapieha thuyên chuyển Cha về làm việc tại một trường của Ðại Học Kraków thuộc giáo xứ Saint Florian. Cha tiếp tục trau dồi triết và thần học tại Ðại Học Công Giáo Lublin. Tại đây, Cha có cơ hội tìm hiểu thêm về giới trẻ, đồng thời khai triển những phương pháp mục vụ trong khi tiếp xúc với đời sống văn hóa cùng các thức giả tại tổng giáo phận Kraków. Cũng tại nơi đây, Cha Karol Józef Wojtyła còn có dịp tiếp tục triển khai những kiến thức về văn chương và triết học của mình.

Cha thường đưa những sinh viên đi cắm trại và du ngoại ngoài trời để hòa mình vào thiên nhiên. Chính nhờ những sinh hoạt với giới sinh viên trong thời gian ở giáo xứ Saint Florian, mà sau này khi được cử làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Krakow, Cha Karol Józef Wojtyła đã hoàn tất những tác phẩm nói lên mối liên hệ phái tính theo tinh thần Kitô giáo mà tiêu biểu là: The Jeweler’s Shop-Tiệm Nữ Trang, Love And Responsibility-Tình Yêu Và Trách Nhiệm.

Năm 1953, Cha Karol Józef Wojtyła trình bày một luận án với đề tài "Thẩm định khả thể xây dựng nền luân lý Công Giáo trên hệ thống luân lý của Max Scheler" tại Ðại Học Lublin. Sau đó, Cha trở thành giáo sư thần học luân lý và luân lý xã hội tại Ðại Chủng Viện Kraków và tại phân khoa thần học của Ðại Học Công Giáo Lublin.

Tháng 10 năm 1954, phân khoa Thần học tại Đại học Jagiellonian, nơi Cha đang giảng dạy môn luân lý Kitô Giáo, bị đóng cửa. Lúc ấy Cha Karol Józef Wojtyła thường cùng một nhóm giáo sư bí mật gặp gỡ để trao đổi quan điểm về mối liên hệ giữa nhà nước và Giáo Hội.

ĐỜI GIÁM MỤC THA THIẾT VỚI CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II.

Vào ngày 4 tháng 7 năm 1958, Cha Karol Józef Wojtyła được Đức Giáo Hoàng Piô XII bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Kraków. Nửa giờ sau cuộc gặp với Đức Hồng Y Wyszynski và nhận sự đề cử làm Giám Mục Phụ Tá, vị Linh Mục trẻ Karol Józef Wojtyła tìm tới tu viện của các nữ tu áo xám Ursuline bên bờ sông Vistula. Ngài đã cầu nguyện liên tục suốt trong 8 tiếng đồng hồ liên tiếp trước khi rời tu viện Ursuline.

Ngày 28 tháng 9 năm 1958, Ngài được tấn phong Giám Mục tại Nhà Thờ lớn Wawel ở Kraków, 11 ngày trước khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời. Một tháng sau, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị, mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo Hội Công Giáo qua quyết định triệu tập Công Đồng Vatican II. Vị tân Giám Mục 38 tuổi nhận được giấy mời tham dự Công Đồng.

Tại đây, Ngài đã có sự đóng góp tích cực và hữu hiệu vào chương trình của Công Đồng với bảy diễn từ đọc trước các Nghị Phụ tham dự Công Đồng và với 13 tuyên ngôn, Đức Giám Mục Karol Józef Wojtyła đã gây được một ấn tượng sâu sắc đối với hầu hết các thành phần tham dự Công Đồng. Đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, và nhất là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI sau đó.

Vào ngày 30 tháng 12 năm 1963, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đề bạt Ngài làm Tổng Giám Mục Kraków. Trong cương vị Tổng Giám Mục, Ngài tham dự Công Đồng Vatican II, góp công soạn thảo các tài liệu Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo, Dignitatis Humanae, và Hiến Chế Mục Vụ Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes-Vui mừng và Hy vọng. Đây là hai văn bản có tính cách lịch sử và quan trọng nhất của Công Đồng này.

Tháng 5 năm 1964, Đức Giám Mục Karol Józef Wojtyła đã đệ trình đoàn chủ tịch Công Đồng 1 văn bản được soạn thảo nhân danh các Giám Mục Ba Lan tuyên bố nói lên mối quan hệ của Giáo Hội với thế giới hiện đại phải được dựa trên khái niệm xác nhận Giáo Hội là một xã hội hoàn thiện do Thiên Chúa sáng lập và ở bên trên lịch sử. Ngày 30 tháng 11 năm 1964, Ngài đã có cuộc nói chuyện riêng đầu tiên với Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, người đã theo dõi chặt chẽ các phát biểu của vị Giám Mục mới này.

ĐỜI Hồng Y CỦA NGÀI TẠI GIÁO TRIỀU ROMA.

Trong năm 1967, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong Ngài làm Hồng Y. Ngài cũng đồng thời được bổ nhiệm vào bốn Thánh Bộ của Vatican: Thánh Bộ Giáo Sĩ, Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, Thánh Bộ Nghi Lễ, Thánh Bộ Các Giáo Hội Đông Phương và làm cố vấn cho Hội Đồng về thế tục.

Vào mùa Giáng Sinh năm 1970, khi tình hình Ba Lan căng thẳng, giá thực phẩm leo thang, trong bài thuyết giảng nhân lễ Giáng Sinh tại Kraków năm ấy, Ngài nói: "Khi người dân bị thương tích và khổ đau, Giáo Hội phải lên tiếng bênh đỡ không vì bất cứ khuynh hướng chính trị nào mà chỉ vì tình yêu và tình liên đới của những người con Thiên Chúa."

Thời gian này Ngài cũng làm việc với nhóm tín hữu trí thức dấn thân có tên là Odrodzenie-Tái Sinh, tổ chức Công Giáo đấu tranh duy nhất đặt dưới sự bảo trợ của Đức Hồng Y Wyszynski. Ngài cũng có những cuộc gặp gỡ giới trí thức để cùng nhau trao đổi quan điểm. Tại tư dinh, Ngài không chỉ gặp gỡ các chủ biên của tờ Tygodnik Powszechny mà còn tiếp xúc với các sử gia, các nhà toán học, các khoa học gia, triết gia, các văn gia, nhạc sĩ, kể cả các nghệ sĩ trình diễn. Ngài bàn hỏi họ về những vấn đề của Ba Lan, của nhân loại và cả những vấn đề thuộc thế giới bên kia, thế giới siêu hình."

Vào năm 1972, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła cũng bắt đầu một mối quan hệ với Anna Teresa Tymieniecka, một phụ nữ Ba Lan đang làm việc tại Đại Học Havard. Bà đã giúp Ngài trở nên nổi bật, giới thiệu Ngài với cộng đồng triết học Châu Âu, với các học giả Mỹ. Bà đã giúp vạch kế hoạch cho chuyến thăm kéo dài đầu tiên của Ngài tới Mỹ, và thu xếp để Ngài có bài giảng đầu tiên tại Đại Học Harvard.

Trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1975, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła đã vào phòng đặc biệt của Giáo Hoàng để nói chuyện riêng 11 lần. Vào năm 1976, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã mời Ngài cử hành Thánh Lễ Mùa Chay tại Vatican cho các thành viên của Tòa Thánh. Cũng trong năm này, tờ "Thời Báo New York" đã đặt Ngài vào danh sách 10 người được nhắc tới nhiều nhất như là các ứng cử viên để kế vị Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

Vào tháng 8 năm 1978, sau khi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI qua đời, Ngài đã tham gia Hồng Y Đoàn chọn Đức Hồng Y Albino Luciani, Hồng Y Tổng Giám Mục của Venezia lên ngôi Giáo Hoàng với danh xưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I. Khi được chọn làm Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Albino Luciani với số tuổi 65 tuổi, trẻ hơn so với nhiều vị Giáo Hoàng khác. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, chỉ 33 ngày sau khi nhậm chức, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I qua đời. Vào tháng 10 năm 1978, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła trở về lại Tòa Thánh để bầu Giáo Hoàng mới.

Đời Giáo Hoàng của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II.

Lúc 16:30 ngày thứ bảy 14 tháng 10 năm 1978, sau khi cử hành Thánh Lễ kính Chúa Thánh Thần tại Ðền Thờ Thánh Phêrô vào ban sáng, 111 Đức Hồng Y từ khắp thế giới bước vào Cơ Mật Viện, để bầu Giáo Hoàng mới. Hôm sau các Đức Hồng Y bắt đầu bỏ phiếu: ban sáng hai lần, ban chiều hai lần. Bốn lần bỏ phiếu ngày 15 tháng 10/1978, không có kết quả nào cụ thể.

Sáng thứ hai 16 tháng 10 năm 1978, với hai lần bỏ phiếu, các Đức Hồng Y vẫn chưa chọn được Vị Giáo Hoàng mới. Tên của Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła đã nhận được nhiều phiếu hơn cả vào lúc 17:30 tối, trong cuộc bỏ phiếu lần thứ sáu, vào chiều ngày 16 tháng 10 năm 1978. Sau khi kiểm xong các lá phiếu, Vị Hồng Y nhiếp chính lại gần Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła được chọn, chào kính, đặt câu hỏi theo lễ nghi: "Ngài có chấp nhận việc lựa chọn Ngài hay không?" Trong cầu nguyện và yên lặng suy tư, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła chưa trả lời ngay. Mọi người chờ đợi và thấy Ngài cảm động, nước mắt chảy trên gò má. Sau cùng, với giọng rõ ràng và nghiêm nghị, Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła trả lời: "Vì Chúa Kitô của tôi, vì Ðức Trinh Nữ, Mẹ của tôi, vì tôn trọng Tông Hiến của Ðức Phaolô VI mời gọi, tôi xin chấp nhận."

6 giờ 18 phút, Đức Hồng Y Phó Tế Tisserant tuyên bố: "Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hồng Y Đoàn đã tín nhiệm Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła, Tổng Giám Mục Kraków, Ba Lan, vào ngôi vị Giáo Hoàng của thế giới Công Giáo". Ngài đã được bầu để kế vị Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I, trở thành vị Giáo Hoàng từ ngoài nước Ý đầu tiên trong gần 500 năm và là vị Giáo Hoàng gốc người Slav đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo.

Đức Tân Giáo Hoàng giơ tay chào dân chúng. Trước khi ban phép lành Urbi et Orbi, Ngài mở đầu: "Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô”, lời chào người dân Công Giáo Ý rất ưa chuộng. Ngài nói tiếp:

“Chúng ta còn đang đau buồn về cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhất. Và lúc này đây các Vị Hồng Y đáng kính đã chọn một Vị Giám Mục mới của Roma. Các ngài đã chọn một vị đến từ một xứ sở xa xôi, xa xôi, nhưng luôn luôn gần gũi bởi sự hiệp thông đức tin và trong truyền thống Kitô. Tôi run sợ trong khi lãnh nhận việc lựa chọn này, nhưng tôi đã chấp nhận trong tinh thần phục tùng Chúa chúng ta Ðức Giêsu Kitô và trong tinh thần phó thác hoàn toàn cho Mẹ Người, Ðức Trinh Nữ Maria.

Tôi không biết tôi có thể biểu lộ rõ ràng bằng tiếng nói của anh chị em không... bằng tiếng Ý của chúng ta không", lại một tràng pháo tay dài nữa của dân chúng. Mối thiện cảm giữa Đức Giáo Hoàng mới và dân chúng gia tăng thêm mãi. "Nếu tôi nói sai, anh chị em sửa lại cho tôi. Và giờ đây hiện diện trước mọi người để tuyên xưng đức tin chung của chúng ta, đức cậy và lòng tín nhiệm của chúng ta nơi Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội và cũng để bắt đầu lại trên con đường của lịch sử và của Giáo Hội với sự giúp đỡ của Thiên Chúa và của toàn thể Giáo Hội.”

Như vị Giáo hoàng tiền nhiệm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đơn giản hóa chức vụ này và làm giảm bớt tính huy hoàng quyền thế. Ngài không tự xưng là "chúng tôi" như các Vị Giáo Hoàng trước; thay vào đó Ngài dùng từ ngữ "tôi". Ngài chọn làm một lễ tấn phong đơn giản chứ không rườm rà, và Ngài chưa đội mũ Giáo Hoàng trước khi lễ tấn phong. Ngài làm thế để nhấn mạnh đến chức vụ hầu hạ của mình là tôi tớ của những người tôi tớ của Chúa-Servus Servorum Dei.

Sáng ngày 17 tháng 10, Ngài đã trình bày con đường của Ngài: trung thành với Công Đồng và các hội đoàn. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kiên quyết khẳng định việc phải tuân thủ lời răn dạy của Giáo Hoàng, tôn trọng các luật lệ về nghi lễ cũng như về kỷ luật. Sau cùng, Ngài nhấn mạnh đến nhu cầu tiến hành cuộc đối thoại trên phạm vi toàn thế giời và cam kết của Giáo Hội với hòa bình và công lý trên thế giới.