
Theo CNA, trong bản tin ngày 28 tháng 11, để kết thúc ngày thứ hai tại Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã gặp gỡ các giám mục Công Giáo của nước này và dùng bữa tối tại Phái đoàn Tòa thánh, nơi ngài đang lưu trú.
Có 19 giám mục đã nghỉ hưu và đang tại chức tại Thổ Nhĩ Kỳ, phụ trách Tổng giáo phận Latinh Izmir và các Hạt Đại diện Tông tòa tại Anatolia và Istanbul. Ngoài ra còn có các Tổng giáo phận Armenia và Can-đê, các Tổng giáo phận Công Giáo Hy Lạp và Syria.
Tại Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul trong ngày thứ hai của ngài tại đất nước này, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã có bài phát biểu với các giám mục, linh mục, tu sĩ, nhân viên mục vụ và giáo dân. Người Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ chiếm khoảng 0,05% trong tổng số 85 triệu dân của đất nước này.
Sau đây là nguyên văn bài giảng theo bản tiếng Anh của Tòa Thánh:
Kính thưa quý Đức Cha,
Kính thưa quý anh em linh mục,
Kính thưa quý nữ tu, nam tu sĩ, nhân viên mục vụ,
và toàn thể anh chị em,
Tôi rất vui mừng được hiện diện với anh chị em. Tôi tạ ơn Chúa vì trong chuyến Tông du đầu tiên, Người đã ban cho tôi ân sủng được viếng thăm “miền đất thánh” này, Thổ Nhĩ Kỳ, nơi câu chuyện dân tộc Israel gặp gỡ sự ra đời của Kitô giáo, nơi Cựu Ước và Tân Ước giao thoa và nơi những trang sử của vô số Công đồng được viết nên.
Đức tin hiệp nhất chúng ta có nguồn gốc sâu xa. Vâng theo lời mời gọi của Thiên Chúa, tổ phụ Abraham của chúng ta đã khởi hành từ Ur thuộc xứ Can-đê, và sau đó, từ vùng Harran ở phía nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, ông đã lên đường đến Đất Hứa (x. St 12:1). Vào thời viên mãn, sau khi Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, các môn đệ của Người cũng đến Anatolia. Tại Antioch, nơi Thánh Ignatius sau này trở thành giám mục, họ lần đầu tiên được gọi là “Kitô hữu” (x. Cv 11:26). Từ thành phố đó, Thánh Phaolô đã bắt đầu một số cuộc hành trình tông đồ của mình, dẫn đến việc thành lập nhiều cộng đoàn. Tương tự như vậy, tại Êphêsô trên bờ biển bán đảo Anatolia, nơi mà, theo một số nguồn cổ xưa, Thánh Gioan, Môn đệ và Nhà viết Tin Mừng được yêu mến, đã sống và qua đời (x. Thánh Irênê, Chống Các Lạc Giáo, III, 3, 4; Eusebius thành Caesarea, Lịch sử Giáo hội, V, 24, 3).
Hơn nữa, chúng ta nhớ lại với lòng ngưỡng mộ lịch sử Byzantine vĩ đại, động lực truyền giáo của Giáo hội Constantinốp và sự lan truyền của Kitô giáo khắp vùng Mặt Trời Mọc. Ngay cả ngày nay tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn nhiều cộng đồng Kitô hữu theo nghi lễ Đông phương - Armenia, Syria và Can-đê - cũng như các cộng đồng theo nghi lễ Latinh. Tòa Thượng phụ Đại kết vẫn là điểm tham chiếu cho cả tín hữu Hy Lạp và các tín hữu Chính thống giáo khác.
Các bạn thân mến, các cộng đồng của các bạn đã nảy sinh từ sự phong phú của lịch sử lâu dài này, và chính các bạn là những người được kêu gọi hôm nay để vun đắp hạt giống đức tin được truyền lại cho chúng ta bởi Abraham, các Tông đồ và các Giáo phụ. Lịch sử trước mặt anh chị em không chỉ là điều để tưởng nhớ rồi tôn kính như một quá khứ huy hoàng khi chúng ta nhìn với sự cam chịu trước sự nhỏ bé của Giáo Hội Công Giáo về mặt số lượng. Trái lại, chúng ta được mời gọi đón nhận một tầm nhìn Tin Mừng, được Chúa Thánh Thần soi sáng.
Khi nhìn bằng con mắt của Thiên Chúa, chúng ta khám phá ra rằng Người đã chọn con đường bé nhỏ, xuống giữa chúng ta. Đây chính là con đường của Chúa, mà tất cả chúng ta được mời gọi làm chứng. Các tiên tri loan báo lời hứa của Thiên Chúa bằng cách nói về một mầm non sẽ nảy mầm (x. Is 11:1). Chúa Giêsu khen ngợi những người bé nhỏ tin tưởng vào Người (x. Mc 10:13–16). Người dạy rằng Nước Thiên Chúa không tự áp đặt bằng những màn phô trương quyền năng (x. Lc 17:20–21), nhưng lớn lên như hạt giống nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống được gieo trên đất (x. Mc 4:31).
Luận lý học bé nhỏ này chính là sức mạnh đích thực của Giáo hội. Điều này không nằm ở nguồn lực hay cơ cấu của Giáo hội, cũng như hoa trái sứ mệnh của Giáo hội không phụ thuộc vào số lượng, quyền lực kinh tế hay ảnh hưởng xã hội. Thay vào đó, Giáo hội sống nhờ ánh sáng của Chiên Con; được quy tụ quanh Người, Giáo hội được sai đi vào thế giới nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Trong sứ mệnh này, Giáo hội liên tục được mời gọi tin tưởng vào lời hứa của Chúa: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúng ta cũng hãy nhớ lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Một cộng đồng Kitô giáo mà các tín hữu, linh mục và giám mục không đi theo con đường nhỏ bé thì không có tương lai… Nước Thiên Chúa nảy mầm trong những điều nhỏ bé, luôn luôn trong những điều nhỏ bé” (Bài giảng tại Nhà nguyện Thánh Marta, ngày 3 tháng 12 năm 2019).
Giáo hội tại Thổ Nhĩ Kỳ là một cộng đoàn nhỏ bé, nhưng lại sinh hoa kết trái như hạt giống và men của Nước Trời. Vì vậy, tôi khuyến khích anh chị em vun trồng một thái độ tinh thần đầy hy vọng, tin tưởng, bắt nguồn từ đức tin và sự kết hợp với Thiên Chúa. Cần phải làm chứng cho Tin Mừng với niềm vui và hướng về tương lai với niềm hy vọng. Một số dấu hiệu hy vọng đã hiện hữu rõ ràng. Vì vậy, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn để nhận ra và nuôi dưỡng chúng. Có lẽ còn có những dấu hiệu khác mà chúng ta cần phát biểu một cách sáng tạo thông qua sự kiên trì trong đức tin và chứng tá.
Trong số những dấu hiệu đẹp đẽ và đầy hứa hẹn nhất, tôi nghĩ đến rất nhiều người trẻ đang đến gõ cửa Giáo Hội Công Giáo với những câu hỏi và mối quan tâm của họ. Về khía cạnh này, tôi kêu gọi anh chị em tiếp tục công việc mục vụ tốt đẹp mà anh chị em đang làm. Tôi cũng khuyến khích anh chị em lắng nghe, đồng hành với người trẻ, đặc biệt chú ý đến những lĩnh vực mà Giáo hội tại Thổ Nhĩ Kỳ được kêu gọi phục vụ: đối thoại đại kết và liên tôn, truyền bá đức tin cho người dân địa phương, và phục vụ mục vụ cho người tị nạn và người di cư.
Khía cạnh cuối cùng này xứng đáng được suy gẫm đặc biệt. Sự hiện diện đáng kể của người di cư và người tị nạn tại đất nước này đặt ra cho Giáo hội thách thức phải chào đón và phục vụ một số người dễ bị tổn thương nhất. Đồng thời, bản thân Giáo hội này phần lớn là người nước ngoài, và nhiều người trong số anh chị em – các linh mục, nữ tu và nhân viên mục vụ – đến từ các vùng đất khác. Điều này đòi hỏi một cam kết đặc biệt đối với việc hội nhập văn hóa để ngôn ngữ, phong tục và văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở nên của riêng anh chị em. Hơn nữa, việc truyền bá in Mừng luôn diễn ra thông qua sự hội nhập văn hóa như vậy.
Tôi cũng muốn nhắc lại rằng chính tại vùng đất này của anh chị em, tám Công đồng Chung đầu tiên đã được tổ chức. Năm nay đánh dấu kỷ niệm 1700 năm Công đồng Ni-xê-a lần thứ nhất, một “cột mốc trong lịch sử Giáo hội cũng như của toàn thể nhân loại” (Đức Phanxicô, Diễn văn trước Ủy ban Thần học Quốc tế, ngày 28 tháng 11 năm 2024). Sự kiện luôn quan trọng này đặt ra trước mắt chúng ta một số thách thức mà tôi muốn đề cập.
Đầu tiên là tầm quan trọng của việc nắm bắt bản chất của đức tin và trở thành Kitô hữu. Xung quanh Kinh Tin Kính, Giáo Hội tại Ni-xê-a đã tìm lại được sự hiệp nhất của mình (x. Tông sắc Spes Non Confundit, 17). Kinh Tin Kính không chỉ đơn thuần là một công thức giáo lý; mà còn là một lời mời gọi tìm kiếm – giữa những cảm thức, linh đạo và văn hóa khác nhau – sự hiệp nhất và cốt lõi thiết yếu của đức tin Kitô giáo, đặt trọng tâm vào Chúa Kitô và Truyền Thống của Giáo Hội. Ni-xê-a vẫn đặt ra câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với chúng ta? Trở thành Kitô hữu về bản chất có nghĩa là gì? Kinh Tin Kính, được đồng thanh tuyên xưng, trở thành một tiêu chuẩn để phân định, một la bàn, một trung tâm mà niềm tin và hành động của chúng ta phải xoay quanh. Khi nói về mối liên hệ giữa đức tin và việc làm, tôi muốn cảm ơn các tổ chức quốc tế đã hỗ trợ các hoạt động từ thiện của Giáo Hội, đặc biệt là sự giúp đỡ dành cho các nạn nhân sau trận động đất năm 2023. Ở đây, tôi muốn nhắc đến Caritas Quốc tế và Tổ chức Giúp đỡ các Giáo Hội Có Nhu Cầu (Kirche in Not).
Thách thức thứ hai là sự cấp bách của việc tái khám phá nơi Chúa Kitô khuôn mặt của Thiên Chúa Cha. Ni-xê-a khẳng định thiên tính của Chúa Giêsu và sự bình đẳng của Người với Chúa Cha. Nơi Chúa Giêsu, chúng ta tìm thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và lời phán quyết của Người về nhân loại và lịch sử. Chân lý này liên tục thách thức những quan niệm của chúng ta về Thiên Chúa bất cứ khi nào chúng không phù hợp với những gì Chúa Giêsu đã mặc khải. Chân lý này mời gọi chúng ta không ngừng phân định về các hình thức đức tin, cầu nguyện, đời sống mục vụ và linh đạo của mình. Nhưng cũng có một thách thức khác, mà chúng ta có thể gọi là “chủ nghĩa Ariô mới”, hiện diện trong văn hóa ngày nay và đôi khi ngay cả trong số các tín hữu. Điều này xảy ra khi Chúa Giêsu được ngưỡng mộ ở mức độ thuần túy con người, thậm chí có thể với sự tôn trọng tôn giáo, nhưng lại không thực sự được coi là Thiên Chúa hằng sống và chân thật giữa chúng ta. Thiên tính của Người, quyền thống trị của Người trên lịch sử, bị lu mờ, và Người bị hạ thấp xuống thành một nhân vật lịch sử vĩ đại, một bậc thầy thông thái, hay một vị tiên tri đấu tranh cho công lý — nhưng không hơn không kém. Ni-xê-a nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô không phải là một nhân vật của quá khứ; Người là Con Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta, dẫn dắt lịch sử hướng tới tương lai mà Thiên Chúa đã hứa ban.
Cuối cùng, thách thức thứ ba là sự trung gian của đức tin và sự phát triển của giáo lý. Trong bối cảnh văn hóa phức tạp, Kinh Tin Kính Ni-xê-a đã diễn tả bản chất của đức tin thông qua các phạm trù triết học và văn hóa của thời đại. Nhưng chỉ vài thập kỷ sau, tại Công đồng Constantinốp lần thứ nhất, chúng ta thấy đức tin ấy đã được đào sâu và mở rộng hơn nữa. Nhờ sự phát triển giáo lý này, một công thức mới đã xuất hiện, Kinh Tin Kính Nixêa-Constantinốp mà chúng ta cùng tuyên xưng trong các phụng vụ Chúa Nhật. Ở đây, chúng ta cũng học được một bài học quan trọng: đức tin Kitô giáo phải luôn được diễn tả bằng ngôn ngữ và phạm trù của nền văn hóa trong đó chúng ta đang sống, giống như các Giáo phụ đã làm tại Ni-xê-a và trong các Công đồng khác. Đồng thời, chúng ta phải phân biệt bản chất của đức tin với các công thức lịch sử diễn tả đức tin ấy — những công thức luôn mang tính cục bộ và tạm thời, và có thể thay đổi khi giáo lý được hiểu sâu sắc hơn. Chúng ta hãy nhớ lại rằng vị Tiến sĩ mới nhất của Giáo hội, Thánh John Henry Newman, đã nhấn mạnh đến sự phát triển của giáo lý Kitô giáo, bởi vì giáo lý không phải là một ý tưởng trừu tượng, tĩnh tại, mà phản ánh chính mầu nhiệm Chúa Kitô. Do đó, sự phát triển của nó mang tính hữu cơ, gần giống như một thực tại sống động, dần dần làm sáng tỏ và diễn tả đầy đủ hơn cốt lõi của đức tin.
Các bạn thân mến, trước khi kết thúc, tôi muốn nhắc lại một người mà các bạn rất yêu quý, Thánh Gioan XXIII, người đã yêu thương và phục vụ người dân đất nước này. Ngài đã viết: "Tôi muốn lặp lại những gì tôi cảm nhận trong lòng mình: Tôi yêu đất nước này và cư dân của nó." Nhìn từ cửa sổ nhà Dòng Tên, những người đánh cá bận rộn với thuyền và lưới trên eo biển Bosporus, ngài nói tiếp: “Cảnh tượng ấy làm tôi xúc động. Đêm nọ, khoảng một giờ sáng, trời mưa như trút nước, nhưng những người đánh cá vẫn ở đó, không hề nao núng trong công việc nặng nhọc của họ… Noi gương những người đánh cá ở Bosporus – làm việc ngày đêm với những ngọn đuốc thắp sáng, mỗi người trên chiếc thuyền nhỏ của mình, theo sự hướng dẫn của các vị lãnh đạo tinh thần – đây là bổn phận nghiêm túc và thánh thiêng của chúng ta.”
Tôi hy vọng rằng anh chị em cũng sẽ được thúc đẩy bởi chính niềm đam mê này, để giữ cho niềm vui đức tin luôn sống động, và tiếp tục làm việc như những người đánh cá can đảm trên con thuyền của Chúa. Xin Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho anh chị em và gìn giữ anh chị em trong sự chăm sóc của Mẹ. Xin cảm ơn.