ROME(ZENIT.org).- Bài huấn đức của đức Giáo Hoàng trong buổi tiếp kiếp chung thứ Tư hàng tuần ngày 3/8. Đức Thánh Cha đã dành để nói về Thánh Vịnh 124

.

1. Trong cuộc gặp gỡ của chúng ta, xảy ra sau những ngày nghỉ của tôi tại Val d'Aoste, chúng ta lấy lại hành trình chúng ta thực hiện trong phụng vụ Kinh Chiều. Thánh Vịnh 124 đi vào hiện trường. Thánh Vịnh này là thành phần của bộ sưu tập hùng mạnh và gợi ý gọi là "Những Thánh Vịnh lên Đền", quyển sách nhỏ lý tưởng chứa đựng những kinh hành hương lên Sion hầu gặp Thiên Chúa trong đền thờ (x. Tv. 119-133)

Điều chúng ta sẽ suy niệm vắn tắt bây giờ là một bản văn khôn ngoan, khơi dậy lòng tin tưởng trong Chúa và chứa đựng một kinh ngắn (x.Tv 124, 4). Câu thứ nhất cao rao sự vững bền của kẻ "cậy vào Đức Gia Vê", so sánh sự vững bền đó với sự vững bền "như đá" và vững chắc của núi "Sion", vì rõ ràng sự vững bền đó là nhờ sự hiện diện của Chúa là "đá tảng của tôi và thành lũy của tôi, là đấng cứu độ tôi....đá tảng tôi, khiên mộc tôi và sức mạnh cúu rỗi tôi", như được khẳng định trong Thánh Vịnh 17,3). Dầu khi người tín hữu cảm thấy cô đơn và bị bao vây bởi những nguy hiểm và thù địch, niềm tin của họ phải bình thản. Và được như vậy là vì Chúa luôn luôn ở với chúng ta. Sức mạnh của Người bao bọc và bảo vệ chúng ta.

Tiên tri Isaia cũng chứng tỏ mình đã nghe từ miệng Thiên Chúa những lời này dành cho những kẻ tín trung: "Này đây Ta sẽ đặt ở Sion một phiến đá, phiến đá hoa cương, phiến đá góc vô giá làm nền móng vững bền, ai tin tưởng sẽ không hề nao núng" (28, 16).

2. Nhưng, tác giả thánh vịnh nói tiếp, sự tin tưởng, không khí đức tin của người tín hữu, có một điểm tựa bổ sung: Chúa hầu như bao bọc dân Người để bảo vệ họ, chính như núi bao bọc Jerusalem, biến Jerusalem thành một thành trì được củng cố bởi những pháo đài thiên nhiên (x. Tv 124, 2). Trong một sấm ngôn của Zacharie, Chúa nói về Jerusalem: "Phần Ta, Ta sẽ là tường lũy bằng lửa bao quanh nó, và Ta sẽ là vinh quang ở giữa nó" (2,9).

Trong bầu khí tin tưởng triệt để này là bầu khí đức tin, tác giả thánh vịnh làm yên lòng "những người công chính" là những tín hữu. Tình huống của họ có thể tự nó gây âu lo vì sự hung tàn của những kẻ vô đạo muốn áp đặt sự thống trị của mình. Cũng có sự cám dỗ cho những kẻ lành, trở nên những người đồng loã sự dữ hầu tránh những điều bất lợi nghiêm trọng, nhưng Chúa bảo vệ họ khỏi những áp bức: "Chúa sẽ không cho vương trượng ác nhân đè nặng trên phần đất người lành"(Tv 124, 3); và Người đồng thời gìn giữ họ khỏi cơn cám dỗ "kẻo người lành tra tay làm điều ác" (ibid.)

Như vậy Thánh Vịnh phổ biến trong tâm hồn một sự tin tưởng sâu xa. Thánh vịnh giúp cách hùng mạnh đương đầu những tình huống khó khăn, khi với sự khủng hoảng bên ngoài của sự cô đơn, sự chế giễu, sự khinh bỉ đối với những tín hữu, người ta liên kết cơn khủng hoảng nội tại gây nên do sự ngã lòng, kém cỏi, mỏi mệt. Chúng ta biết tình huồng này, nhưng Thánh Vịnh nói với chúng ta rằng nếu chúng ta tin tưởng, chúng ta mạnh hơn những sự dữ đó.

3. Phần cuối Thánh Vịnh chứa đựng một lời cầu xin dâng lên Chúa cầu cho những "kẻ nhân hậu" và những kẻ có "lòng dạ ngay thẳng" (x. c.4) và một lời loan báo sự dữ cho "những kẻ theo đường tà vạy, những kẻ sa đọa" ( x.5). Một đàng, tác giả Thánh Vịnh xin Chúa tỏ mình như một người cha nhân từ đối với những kẻ lành và những tôi trung dương cao ngọn đuốc của cuộc sống ngay thẳng và lương tâm tốt lành . Đàng khác, người ta chờ đợi Người tự mặc khải như quan xét công minh đối với những người đi trên con đường tà vạy sự dữ, mà kết quả cuối cùng là sự chết.

Thánh Vịnh được đóng ấn bằng lời chào truyền thống shalom. "bình an trên dân Israel", một lời chào theo nhịp điệu trên Jerusalem (x. c.2), thành phố biểu trưng sự bình an và thánh thiện. Đó là một lời chào trở thành một sự cầu chúc đầy hy vọng. Chúng ta có thể giải thích lời chào đó qua lời thánh Phaolô: "Và chúc cho tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên Chúa hưởng bình an và lỏng thương xót của Người " (Ga 6,16)

4. Trong bài giải thích về Thánh Vịnh này, Thánh Augustinô so sánh "những kẻ dấn thân trong những con đường tà vạy" với "những kẻ có lòng ngay không lìa xa Thiên Chúa" Nếu những người thứ nhất được kết hợp bởi "số phận dành cho những người phạm điều gian ác", thì số phận của những kẻ có lòng ngay sẽ ra sao"?

Trong niềm hy vọng cũng được thông phần với các tín hữu của ngài, vào số phận hạnh phúc của những người đó, giám mục thành Hippone tự hỏi mình: " Chúng ta sẽ có gì? Gia sản chúng ta là gì? Quê hương chúng ta là gì? Tên nó là gì? " Và chính ngài trả lời, chỉ danh của nó --đối với tôi, tôi cho là những lời này -- "Sự Bình An. Chính sự Bính an chúng tôi chào anh em, chính sự bình an chúng tôi rao giảng cho anh em, sự bình an mà các núi non lãnh nhận và những đồi nhận lãnh công lý (x. Tv 71, 3) Sự bình an đó là Chúa Kitô: "Vì chính Người là sự bình an chúng ta" (Ep 2, 14)" (Diễn văn về các thánh Vịnh, IV, Nuova Biblioteca Agostiniana, XXVIII, Roma 1977, p. 105).

Thánh Augustinô kết thúc bằng một lời khuyên, đồng thời cũng là một sự cầu chúc: "Chúng ta hãy là Israel, chúng ta hãy ôm ấp sự bình an, bởi vì Jerusalem là ý niệm về sự bình an và chúng ta là Israel, ước chi sự bình an xuống trên Israel" (ibid. p. 107) và sự bình an là Chúa Kitô.