Lúc 9g sáng thứ Sáu 24 tháng Ba, trước Đức Thánh Cha Phanxicô và Giáo triều Rôma, Đức Hồng Y Cantalamessa đã trình bày bài thuyết giảng thứ Tư trong Mùa Chay 2023 với chủ đề “Mầu Nhiệm Đức Tin: Phụng vụ”.
Bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Sau khi suy tư về việc phúc âm hóa và thần học, hôm nay tôi muốn đề xuất một số nhận định về phụng vụ và việc thờ phượng của Giáo hội, luôn luôn với ý định đóng góp, dù khiêm tốn và gián tiếp, vào công việc của Thượng hội đồng. Phụng vụ là điểm đến, là điều mà việc truyền giáo hướng tới. Trong dụ ngôn Tin Mừng, những người đầy tớ được sai đi khắp các ngã tư đường phố để mời mọi người dự tiệc. Giáo Hội là phòng tiệc và Thánh Thể là “bữa ăn của Chúa” (1 Cor 11:20) được dọn sẵn trong đó.
Trong những suy tư của chúng ta, chúng ta hãy bắt đầu với một cụm từ trong Thư gửi tín hữu Do Thái. Cụm từ ấy nói rằng, để đến gần Thiên Chúa, trước hết, người ta phải “tin rằng Ngài hiện hữu” (Dt 11:6). Tuy nhiên, ngay cả trước khi tin rằng Ngài hiện hữu (vốn đã là một phần của phương thế này), thì ít nhất cũng cần phải có “gợi ý” về sự hiện hữu của Ngài. Đây là điều mà chúng ta gọi là cảm giác thánh thiện và là điều mà một tác giả nổi tiếng gọi là “cảm thức thánh thiêng”, coi đó là một “mầu nhiệm to lớn và hấp dẫn”.
Thánh Augustinô đã dự đoán một cách đáng ngạc nhiên về khám phá hiện tượng học hiện đại về tôn giáo này. Hướng về Chúa, trong cuốn Tự Thú của mình, ngài nói, “Khi con gặp Chúa lần đầu tiên…, con đã run lên vì tình yêu và sự kinh hoàng.” Và một lần nữa, “Con rùng mình và con bùng cháy; Con rùng mình vì khoảng cách, con bùng cháy vì sự giống nhau.”
Nếu cảm giác thiêng liêng hoàn toàn bị mất đi, thì đất đai hoặc khí hậu, nơi mà hành động đức tin nở hoa, sẽ không còn nữa. Đây là hậu quả tồi tệ nhất của sự tục hóa. Charles Péguy đã viết rằng “sự khan hiếm và nghèo nàn đáng sợ những thứ thiêng liêng là dấu ấn sâu sắc của thế giới hiện đại.” Tuy nhiên, nếu cảm giác về sự thánh thiện đã biến mất, thì nỗi nhớ về nó vẫn còn mà ai đó đã định nghĩa, theo thuật ngữ thế tục là “sự khao khát về cái khác hoàn toàn”.
Những người trẻ tuổi cảm thấy cần phải thoát khỏi sự tầm thường của cuộc sống hàng ngày và họ đã nghĩ ra những cách riêng để thỏa mãn nhu cầu này. Các nhà tâm lý học đại chúng đã quan sát thấy rằng những người trẻ tuổi từng tham dự các buổi hòa nhạc rock nổi tiếng, chẳng hạn như của The Beatles, của Elvis Presley hay Lễ hội Woodstock năm 1969, đã bị đưa ra khỏi thế giới hàng ngày của họ và được phóng vào một chiều kích mang lại cho họ ấn tượng của một cái gì đó siêu việt và thiêng liêng.
Điều tương tự cũng xảy ra đối với những người ngày nay tham gia vào các cuộc tụ họp lớn của các ca sĩ và ban nhạc. Thực tế là có nhiều người, rung động đồng thanh với một đám đông, sẽ khuếch đại vô hạn cảm xúc của chính mình. Người ta có cảm giác là một phần của một thực tại cao siêu khác. Thuật ngữ “fan” - “người hâm mộ” (là chữ viết tắt của từ “fanatic” – “cuồng tín”) tương đương với thuật ngữ thế tục hóa “người sùng đạo”. Phẩm chất “thần tượng” được trao cho những người họ yêu thích có sự tương ứng sâu sắc với thực tại.
Những cuộc tụ tập đông người này có thể có giá trị nghệ thuật và đôi khi truyền tải những thông điệp cao quý và tích cực, chẳng hạn như hòa bình và tình yêu. Chúng là “các buổi phụng vụ” theo nghĩa gốc và trần tục của thuật ngữ này, nghĩa là các buổi biểu diễn được cung cấp cho công chúng xuất phát từ nghĩa vụ hoặc để đạt được sự ưu ái của họ. Tuy nhiên, chúng không liên quan gì đến trải nghiệm đích thực về sự thánh thiêng. Trong tiêu đề “Phụng vụ thánh”, tính từ thánh đã được thêm vào chính xác để phân biệt nó với các nghi lễ của con người. Có một sự khác biệt về chất giữa hai điều này.
Chúng ta hãy cố gắng xem xét qua phương tiện nào mà Giáo hội có thể trở thành, đối với con người ngày nay, là nơi đặc quyền để trải nghiệm thực sự về Thiên Chúa và về sự siêu việt. Những trường hợp đầu tiên xuất hiện trong tâm trí - do sự giống nhau bên ngoài - là những cuộc tụ họp lớn được thúc đẩy bởi các Giáo hội Kitô khác nhau. Chúng ta hãy nghĩ đến “Ngày Giới trẻ Thế giới” và vô số sự kiện – đại hội, hội nghị và các cuộc tụ họp – trong đó hàng chục (và đôi khi thậm chí hàng trăm) hàng nghìn người trên khắp thế giới tham gia. Không thể thống kê được số lượng người mà những sự kiện này mang đến cơ hội để họ có kinh nghiệm mạnh mẽ về Thiên Chúa và khởi đầu một mối quan hệ mới và cá vị với Chúa Kitô.
Điều làm nên sự khác biệt giữa kiểu gặp gỡ quần chúng này so với những kiểu gặp gỡ được mô tả ở trên, là ở đây nhân vật chính không phải là một con người, mà là Thiên Chúa. Cảm giác về sự thiêng liêng mà một người trải nghiệm trong những cuộc tụ họp ấy là cảm giác thực sự chân chính duy nhất, chứ không phải là một sự thay thế bởi vì nó được khơi dậy bởi Đấng Chí Thánh chứ không phải bởi một “thần tượng”.
Tuy nhiên, đây là những sự kiện đặc biệt mà không phải ai cũng có thể tham gia và không phải lúc nào cũng vậy. Cơ hội tuyệt vời và phổ biến nhất, để trải nghiệm cảm thức thánh thiêng trong Giáo hội, là phụng vụ. Phụng vụ Công Giáo đã trải qua một sự chuyển đổi từ một hành động mang đậm dấu ấn thiêng liêng và tư tế sang một hành động mang tính cộng đồng và có sự tham gia nhiều hơn, trong đó tất cả dân Chúa đều có phần của mình, mỗi người có sứ vụ riêng.
Tôi muốn nói cách tôi nhìn thấy và giải thích sự thay đổi này cho chính mình. Điều này hoàn toàn không phải để đặt mình vào vị trí phán xét quá khứ, mà để hiểu rõ hơn về hiện tại. “Hiện tại” trong Giáo hội không bao giờ là sự phủ nhận “quá khứ”, mà là sự phong phú của nó, hoặc, như trong trường hợp hiện tại, đó là quay trở lại từ một quá khứ tương đối gần đây đến một quá khứ cổ xưa và nguyên bản hơn.
Trong quá trình phát triển của Giáo hội với tư cách là cộng đồng, một điều gì đó xảy ra tương tự như điều xảy ra với việc xây dựng nhà thờ. Hãy nghĩ về một số vương cung thánh đường và các nhà thờ chính tòa nổi tiếng: có bao nhiêu biến đổi kiến trúc đã diễn ra qua nhiều thế kỷ để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của mọi thời đại! Nhưng nó luôn luôn là cùng một nhà thờ, dành riêng cho cùng một vị thánh. Nếu có một xu hướng chung đang diễn ra trong thời kỳ hiện đại, thì đó là khuynh hướng khôi phục những tòa nhà này về cấu trúc và phong cách ban đầu của chúng – bất cứ khi nào điều này là có thể và xứng đáng. Xu hướng tương tự cũng đang diễn ra trong Giáo hội với tư cách là một cộng đồng, và đặc biệt là trong phụng vụ của Giáo Hội. Công đồng Vatican II là một thời điểm quyết định trong tiến trình này, nhưng không phải là khởi đầu tuyệt đối. Công Đồng thu thập thành quả của nhiều công việc trước đó.
Chắc chắn không cần phải đi sâu vào lịch sử thế tục của phụng vụ ở đây – những người khác đã làm điều đó – và chính xác là từ quan điểm mà chúng ta quan tâm. Tôi chỉ cố gắng làm nổi bật sự tiến hóa liên quan đến cảm thức về sự thánh thiêng.
Vào thời kỳ đầu của Giáo hội và trong ba thế kỷ đầu tiên, phụng vụ thực sự là một “phụng vụ”, nghĩa là hành động của người dân (laos – dân chúng – nằm trong số các thành phần từ nguyên của từ leitourgia). Từ Thánh Giúttinô, từ tác phẩm Truyền Thống Tông đồ của Thánh Hippolytô, và các nguồn khác vào thời kỳ đó, chúng ta có được một hình ảnh về Thánh lễ chắc chắn gần với hình ảnh thánh lễ cải cách của chúng ta ngày nay hơn là hình ảnh của các thế kỷ chúng ta vừa bỏ lại sau lưng. Chuyện gì đã xảy ra thế? Câu trả lời là một từ khó xử mà chúng ta dù thế nào cũng không thể tránh khỏi: đó là giáo quyền hóa! Không có lĩnh vực nào khác lại dễ thấy hơn trong phụng vụ.
Việc thờ phượng của Kitô giáo, và đặc biệt là hy tế Thánh Thể, đã trải qua một sự biến đổi nhanh chóng, cả ở phương Đông và phương Tây, từ hành động của người dân thành hành động của giáo sĩ. Trong nhiều thế kỷ, phần trọng tâm của Thánh lễ, được gọi là Canon – hay Kinh Nguyện Thánh Thể - hoặc Anaphora - hay Kinh Nguyện Thánh Thể Đông phương, được linh mục đọc bằng một giọng trầm, bằng tiếng Latinh, đằng sau bức màn hoặc bức tường (một ngôi đền trong một ngôi đền!), ngoài tầm nhìn và nghe của người dân. Vị chủ sự chỉ cao giọng ở những lời cuối cùng của Kinh Nguyện: “Per omnia saecula saeculorum,” – “đến muôn thuở muôn đời” - và mọi người đáp lại, “Amen!” với những gì họ đã không nghe, chứ đừng nói là hiểu. Sự tiếp xúc duy nhất với Bí tích Thánh Thể, được thông báo bằng tiếng chuông, là thời điểm nâng cao Bánh Thánh.
Có một sự trở lại hiển nhiên đối với những gì đang diễn ra trong việc thờ phượng thời Giao ước thứ nhất. Vị Thượng tế tiến vào thánh điện, với bình hương và máu của các của lễ, còn dân chúng đứng bên ngoài thì run rẩy, choáng ngợp trước cảm thức về sự thánh thiện và uy nghiêm vô cùng của Thiên Chúa. Ý nghĩa thiêng liêng ở đây cao nhất, nhưng, đến thời Tân Ước, đó có phải là điều đúng đắn và chân chính không? Đây là câu hỏi quan trọng của chúng ta.
Trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy: “Anh em đã chẳng thể tới gần … có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa… Nhưng anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben.”(Dt 12:18-24). “Nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh. Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người.” (Dt 10:19-20). Chúa Kitô đã xuyên qua bức màn và không đóng lối đi phía sau Ngài (Dt 10:20).
Sự thánh thiện đã thay đổi cách thể hiện: không còn như một bí ẩn uy nghi và quyền năng, mà như một khả năng ẩn giấu và đau khổ vô biên. Sau khi truyền phép, chủ tế đọc hoặc hát: “Đây là mầu nhiệm đức tin!” Những người ở độ tuổi của tôi sẽ nhớ rằng, có một thời câu cảm thán này được đưa vào chính giữa công thức truyền phép rượu: “Hic est enim calix sanguinis mei, novi et aeternitesti – Mysterium fidei! – qui pro vobis et pro multis effundetur in remissionem peccatorum.” – “Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: Vì này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới và vĩnh cửu – đây là mầu nhiệm đức tin! - sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.” Như thể Giáo hội dừng lại, giữa chừng câu chuyện, ngạc nhiên về những gì mình đang nói!
Tất nhiên, cuộc cải cách đã đúng khi chuyển câu cảm thán này đến phần cuối của phần truyền phép, nhưng chúng ta không nên đánh mất cảm giác kinh ngạc chứa đựng trong đó. Tuy nhiên, quan trọng hơn điều này là hiểu được lý do thực sự khiến chúng ta kinh ngạc. Nó phải cùng loại với những gì chúng ta đọc được trong các bài thơ về Người tôi trung đau khổ của Yavê, là Đấng “sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói đến bao giờ” (Is 52:15).
Rúng động và run rẩy vẫn có một vị trí trong Giao ước mới, nhưng trước sự khiêm nhường và tình yêu của Thiên Chúa, hơn là sự uy nghiêm của Ngài. Một người có tâm tình này rất sâu sắc là thánh Phanxicô thành Assisi: Ngài viết trong một lá thư gửi cho toàn Dòng rằng, “Nhân loại hãy run sợ, hãy để cả vũ trụ run sợ và thiên đàng hân hoan khi ở trên bàn thờ, trong tay linh mục, Chúa Kitô, con Thiên Chúa hằng sống hiện diện.”
Một lần nữa, run rẩy vì cái gì? “Ôi sự khiêm nhường siêu phàm!”, thánh nhân tiếp tục. “Ôi sự siêu phàm khiêm nhường, rằng Chúa của vũ trụ, Thiên Chúa và Con Thiên Chúa, đã hạ mình đến mức ẩn mình, vì phần rỗi của chúng ta, dưới một lượng bánh nhỏ nhất! Hỡi anh em, hãy nhìn xem sự khiêm nhường của Thiên Chúa!”
Vấn đề là không được lãng phí khả năng mới này do phụng vụ cải cách mang lại bằng những ứng biến tùy tiện và kỳ lạ, nhưng duy trì sự điều độ và điềm tĩnh cần thiết ngay cả khi Thánh lễ được cử hành trong những tình huống và môi trường cụ thể.
Trong tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể, xưa và nay, lời mời gọi ngay sau khi truyền phép là luôn luôn tưởng nhớ: “Unde et memores…” – “Vì vậy, lạy Chúa, khi kính nhớ …” Đó là câu trả lời cho mệnh lệnh của Chúa Giêsu, “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!” Nhưng trên hết, chúng ta phải nhớ gì về Ngài? “Mỗi lần anh em ăn bánh này và uống chén này, là anh em rao truyền cuộc tử nạn của Chúa” (1 Cr 11:26). Chúng ta hãy thử một lần cố gắng vượt ra ngoài ngôn từ, hay nói đúng hơn là mang đến cho ngôn từ một nội dung hiện sinh chứ không chỉ là một nội dung mang tính nghi thức.
Chúng ta hãy trở lại thời điểm Chúa Giêsu công bố những lời đó và cố gắng hiểu trong những điều kiện nội tại nào mệnh lệnh “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” đến từ môi miệng Đấng Cứu Chuộc. Ngài thấy rõ những gì Ngài đang dự phần. Ngài đã nhiều lần đề cập đến điều đó, nhưng như thể vẫn còn xa xôi. Nay giờ đã đến; thậm chí không còn một khoảng thời gian nào để giảm bớt nỗi thống khổ. Những lời “Đây là chén máu Thầy” không còn nghi ngờ gì nữa. Đây là người biết rằng trong vài giờ nữa, Ngài sẽ chết một cái chết khủng khiếp. “Qui pridie quam pateretur” – “ngay trước cuộc khổ nạn…”
Và những gì đang xảy ra xung quanh Ngài? Thưa: Các tông đồ lại tìm cách tranh luận xem ai là người lớn nhất (Lc 22:24-27), giống như những người anh em, đang quây quần bên giường cha, tranh giành gia tài. Một trong số họ, trong vài giờ nữa, sẽ bán Ngài với giá 30 denarii – “In qua nocte tradebatur” – “vào đêm Ngài bị phản bội!”
Trong những tình cảnh này, Ngài đã thiết lập bí tích mà Ngài sẽ để lại với gia đình của mình cho đến tận thế. Người ta có thể tìm thấy ở đâu một mầu nhiệm “kinh hoàng và hấp dẫn” hơn thế này? Điều gì trên trần gian này có thể thánh thiêng liêng hơn? Vào ngày mà Chúa Thánh Thần cho phép chúng ta, dù chỉ một thoáng, được nhìn vào vực sâu của vực thẳm yêu thương và đau khổ này, tôi tin rằng chúng ta sẽ không còn có thể sống như trước nữa. Điều này giải thích tại sao Cha Thánh Piô Năm Dấu Thánh dường như gặp khó khăn trong Thánh lễ và không thể hoàn thành việc truyền phép.
Nhưng chúng ta phải hoàn thành việc ôn lại Thánh lễ. Thánh lễ không chỉ bao gồm Kinh Nguyện Thánh Thể và Truyền phép; ngoài ra còn có Phụng vụ Lời Chúa và Hiệp lễ. Chúng ta có sẵn một số phương tiện không có sẵn trong quá khứ để nâng cao Phụng vụ Lời Chúa và cũng biến điều đó thành cơ hội để trải nghiệm điều thánh thiêng. Nhờ những tiến bộ mà Giáo hội đã đạt được trong nhiều lĩnh vực trong thời gian này, chúng ta có cơ hội tiếp cận trực tiếp hơn với Lời Chúa. Lời Chúa có thể vang dội với sự phong phú và quyền lực lớn hơn trong quá khứ.
Phụng vụ hiện nay rất phong phú về Lời Chúa, được sắp xếp một cách khôn ngoan, theo trình tự của lịch sử cứu độ, trong một khuôn khổ các nghi thức thường được đưa trở lại tính tuyến tính và đơn giản của nguyên bản. Chúng ta phải coi trọng những phương tiện này. Không gì có thể thấm nhập vào trái tim con người và làm cho tâm hồn con người cảm nhận được thực tại siêu việt của Thiên Chúa hơn là lời hằng sống của Thiên Chúa được công bố trong phụng vụ với đức tin và sự gắn bó với cuộc sống. Thánh Phaolô nói, đức tin phát sinh từ việc lắng nghe lời Chúa Kitô – Fides ex auditu (Rm 10:17).
Nhiều lời của Chúa Giêsu, có lẽ vừa được nghe trước đó một chút trong bài Tin Mừng trong ngày, vào lúc truyền phép, lại vang vọng trong trái tim, như được chính tác giả của những lời ấy nói lại một lần nữa, một cách sống động và thực sự hiện diện trên bàn thờ. Tôi sẽ luôn nhớ cái ngày mà, sau khi đưa ra những bình luận về những lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng: “Ở đây có người hơn ông Giôna; bây giờ ở đây còn hơn cả Salomon nữa” (Mt 12:41-42), đứng dậy sau khi bái lạy sau khi truyền phép, tôi cảm thấy như thốt lên trong lòng đầy kinh ngạc: “Kìa, ở đây còn hơn cả Salomon!”
Ngay cả bài đọc từ Cựu Ước, được chọn theo quan điểm của đoạn Tin Mừng, cũng đưa ra những ý nghĩa mới và sáng tỏ. Thánh Augustinô nói, trong quá trình chuyển đổi từ hình ảnh sang hiện thực, tâm trí sáng lên như “một ngọn đuốc đang chuyển động”. Như với hai môn đệ làng Emmau, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích cho chúng ta “mọi lời Kinh Thánh chỉ về Người” (Lc 24:27).
Và sau đó chúng ta có Tiệc Thánh. Làm thế nào để phụng vụ có thể làm cho thời điểm này trở thành một cơ hội để trải nghiệm điều thánh thiêng, không chỉ ở cấp độ cá nhân mà còn ở cấp độ cộng đồng? Tôi sẽ nói, đó là thông qua sự im lặng! Có hai loại im lặng: một loại im lặng mà chúng ta có thể gọi là khổ hạnh, và một loại im lặng thần bí. Một sự thinh lặng nhờ đó thụ tạo tìm cách vươn tới Thiên Chúa, và một sự thinh lặng do Thiên Chúa đến gần thụ tạo khơi dậy. Sự im lặng sau khi rước lễ là một sự im lặng thần bí, giống như sự im lặng mà chúng ta thấy trong các cuộc thần hiện của Giao ước thứ nhất. Sau khi hiệp lễ, người ta sẽ nghe lời khuyên của tiên tri Xôphônia vang lên trong không trung (1:7), “Hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa là Chúa Thượng!” Nên có một vài khoảnh khắc, cho dù ngắn ngủi, im lặng tuyệt đối sau khi rước lễ.
Truyền thống Công Giáo cảm thấy cần phải kéo dài và dành nhiều thời gian hơn cho thời điểm tiếp xúc cá nhân này với Chúa Kitô Thánh Thể và đã phát triển qua nhiều thế kỷ, đặc biệt là bắt đầu từ thế kỷ XIII, việc sùng kính Thánh Thể ngoài Thánh Lễ. Đó không phải là sự sùng bái tách rời và độc lập khỏi bí tích; nhưng là sự tiếp nối của việc “tưởng nhớ” Đức Kitô, các mầu nhiệm và lời của Người – một cách để nội tâm hoá mầu nhiệm mà chúng ta đã lãnh nhận. Chầu Thánh Thể là dấu chỉ rõ ràng nhất cho thấy sự khiêm nhường và ẩn mình của Chúa Kitô không làm cho chúng ta quên rằng chúng ta đang ở trước mặt “Đấng Rất Thánh”, Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần tạo dựng trời đất.
Nơi nào Chầu Thánh Thể được thực hành – bởi các giáo xứ, cá nhân và cộng đồng – thì hoa trái của nó có thể nhìn thấy được, ngay cả khi có liên quan đến việc rao giảng Tin Mừng. Một nhà thờ đầy tín hữu trong sự thinh lặng tuyệt đối, trong suốt một giờ Chầu Thánh Thể lộ thiên, sẽ khiến bất cứ ai tình cờ bước vào phải thốt lên: “Chúa ở đây!” Tôi nhớ lời nhận xét của một người không Công Giáo, vào cuối giờ Chầu Thánh Thể thinh lặng, trong một nhà thờ giáo xứ lớn ở Hoa Kỳ, đông nghịt tín hữu, người ấy nói với một người bạn, “Bây giờ tôi hiểu điều mà các bạn người Công Giáo đề cập đến khi các bạn nói về 'sự hiện diện thực sự'!”
Nếu có một lý do khiến tôi lấy làm tiếc về việc mất tiếng Latinh, thì đó là vì khi tiếng Latinh bị bỏ rơi, một số bài hát đã phục vụ nhiều thế hệ tín hữu thuộc mọi ngôn ngữ để bày tỏ lòng sùng kính nồng nhiệt trước Thánh Thể không còn được sử dụng nữa: những bài như Adoro te devote – Con kính thờ, Ave Verum – Kính Lạy, Panis Angelicus – Bánh Các Thiên Thần. Bây giờ những bài ấy tồn tại được gần như hoàn toàn nhờ âm nhạc mà các nghệ sĩ nổi tiếng đã viết về chúng.
Chúng ta là “những tôi tớ của Chúa Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1 Cor 4:1) và, theo những cách khác nhau, mọi tín hữu tham gia vào việc thờ phượng Giáo hội, có thể cảm thấy bị đè bẹp và bất lực trước một nhiệm vụ cao cả như vậy. Làm thế nào chúng ta, những người cảm thấy nơi chính mình tất cả sự nặng nề của thân xác, có thể giúp mọi người cảm nghiệm được sự thánh thiêng và siêu nhiên trong phụng vụ? Câu trả lời luôn giống nhau, “Bạn sẽ nhận được sức mạnh từ Chúa Thánh Thần!” Đấng được định nghĩa là “linh hồn của Giáo hội” cũng là linh hồn của phụng vụ, là ánh sáng và sức mạnh nội tại của các nghi thức.
Thật là một hồng ân khi cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng Vatican II đã đặt epiclesis, tức là Kinh khẩn cầu Chúa Thánh Thần, vào tâm điểm của Thánh lễ: trước tiên là trên bánh và rượu, sau đó là trên toàn nhiệm thể của Giáo hội. Tôi rất kính trọng Kinh nguyện Thánh Thể đáng kính của Lễ Qui Rôma [thường được gọi là Kinh nguyện Thánh Thể I], và tôi thích thỉnh thoảng sử dụng nó, là Kinh nguyện mà tôi đã được thụ phong linh mục. Tuy nhiên, tôi không thể không lưu ý với sự tiếc nuối về sự vắng mặt hoàn toàn của Chúa Thánh Thần trong đó. Thay vì lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần trong lời truyền phép hiện tại trên bánh và rượu, chúng ta tìm thấy trong đó công thức chung, “Lạy Chúa, xin thánh hóa lễ vật này với quyền năng chúc lành của Chúa…”
Đây cũng là một hậu quả đáng buồn của cuộc luận chiến giữa Đông và Tây. Trong quá khứ, nó đã thúc giục người Latinh chúng ta đặt vai trò của Chúa Thánh Thần trong ngoặc để gán tất cả hiệu quả cho lời truyền phép, và nó đã thúc đẩy người Hy Lạp đặt lời truyền phép trong ngoặc để gán mọi hiệu quả cho hoạt động của Chúa Thánh Thần. Như thể mầu nhiệm được thực hiện bằng một loại phản ứng hóa học có thể xác định được thời điểm chính xác.
Tuy nhiên, có một viên ngọc quý mà Kinh nguyện Thánh Thể I truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và việc cải cách phụng vụ đã bảo tồn và đưa vào tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể mới một cách đúng đắn; và đó chính là bài tán tụng cuối cùng: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.”
Công thức này diễn tả một chân lý cơ bản mà Thánh Basilô đã trình bày trong chuyên luận đầu tiên về Chúa Thánh Thần. Ngài viết, trên bình diện khởi đi từ Thiên Chúa đến các thụ tạo, mọi sự bắt đầu từ Chúa Cha, đi qua Chúa Con và đến với chúng ta trong Chúa Thánh Thần; theo thứ tự các tạo vật trở về với Thiên Chúa, thì ngược lại, mọi sự bắt đầu với Chúa Thánh Thần, đi qua Chúa Con và trở về với Chúa Cha. Vì phụng vụ là thời điểm tuyệt vời nhất để các thụ tạo trở về với Thiên Chúa, nên mọi sự trong đó phải bắt đầu và lấy động lực từ Chúa Thánh Thần.
Sách Lễ cổ có một loạt các kinh nguyện mà linh mục phải đọc để chuẩn bị cho Thánh Lễ. Hôm nay chúng ta có thể chuẩn bị cho việc cử hành, tốt nhất là bằng một lời cầu nguyện ngắn nhưng mãnh liệt xin Chúa Thánh Thần canh tân việc xức dầu linh mục của Người trong chúng ta và đặt trong lòng chúng ta cùng một động lực mà Người đã đặt vào trái tim Chúa Kitô để dâng chúng ta lên Chúa Cha như của lễ sống động. Thư gửi các tín hữu Do Thái nói rằng “được Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa” (Dt 9:14) Chúng ta hãy cầu nguyện để những gì đã xảy ra nơi Đấng là Đầu cũng xảy ra trong chúng ta, những chi thể của nhiệm thể Người.
1. Augustine, Confessions, VII, 10: “contremui amore et orrore”.
2.Ib. XI, 9: “et inhorresco et inardesco”.
3.Max Horkheimer
Source:Cantalamessa