Buổi gặp gỡ khác thường xảy ra vào chiều ngày 19-9-1846 tại một đồng cỏ miền sơn cước đối diện với dãy núi Alps hùng vĩ ở Pháp quốc. Đó là một ngôi làng hẻo lánh tên là La Salette. Đây là thời của các tư tưởng mới và cách mạng ảnh hưởng nhiều phương diện cuộc sống, kể cả đức tin. Tôn giáo bị bách hại. Tại vùng xa xôi này, lòng đạo đức sa sút vì nông dân khó tham dự thánh lễ Chúa nhật, và việc dùng danh Chúa một cách bất kính đã trở thành thói quen.
Trong tĩnh mịch của miền sơn cước và những dồng cỏ xanh mướt, có hai đứa trẻ nằm ngủ bên nhau trên thảm cỏ. Ở độ cao 6.000 bộ (1.828,8m) so với mặt biển, hẳn phải có sự tĩnh mịch và an bình ở đó, giống như ở những nơi tôn nghiêm dành cho việc cầu nguyện. Hai đứa trẻ là Maximin Giraud, 11 tuổi, và Melanie Calvat, 14 tuổi, đang chăn bò thuê. Maximin là cậu bé vô tư và hoạt bát. Còn Melanie tư lự và ít nói. Melanie là con thứ tư trong 10 anh chị em của một gia đình rất nghèo. Cả hai đều không biết đọc biết viết, chưa bao giờ đến trường hoặc học giáo lý. Chúng mới biết nhau 2 ngày trước khi sự việc xảy ra làm cuộc đời các em bé này thay đổi hoàn toàn.
Đức Mẹ La Salette
Melanie bất ngờ thức giấc sau khi chợp mắt buổi trưa, em chợt nhớ đến đàn bò. Em đánh thức Maximin, cả hai đi tìm bò và thấy chúng vẫn đang yên ả gặm cỏ. Lúc đó là chính ngọ, Melanie dừng lại và sửng sốt. Em gọi Maximin đến. Xa xa từ phía khe núi có một quả cầu ánh sáng làm chói mắt hơn cả ánh nắng buổi trưa. Lúng túng và sợ hãi, hai em định chạy trốn thì bất ngời có một vòng ánh sáng tỏa ra. Hai em thấy dần dần nhìn thấy hình ảnh một phụ nữ ngồi và ôm mặt khóc với dáng vẻ rất đau buồn. Phụ nữ này đứng dậy, khoanh tay trước ngực và nhìn hai đứa trẻ.
Xung quanh phụ nữ này đầy ánh sáng rất đẹp! Phụ nữ này mặc trang phục như nông dân trong vùng, áo dài và có vạt phía trước như tạp dề, có khăn choàng trắng và có mũ. Trên đầu và khăn choàng của phụ nữ này có nhiều hoa hồng. Nổi bật là xâu chuỗi có Thánh giá sáng chói; đặc biệt ở hai tay bị đóng đinh của Chúa: một tay có cây búa và một tay có chiếc kềm.
Sứ điệp của Đức Mẹ
Đức Mẹ vẫy hai đứa bé lại và nói: “Hãy đến đây, các con. Đừng sợ! Ta đến đây để nói với các con một điều quan trọng nhất”.
Chúng tiến lại gần khe núi và đến gần Đức Mẹ tới mức có thể chạm vào được. Đức Mẹ nói với hai em:
Nếu người ta không vâng lời, Ta sẽ không thể bảo Con Ta nới tay với họ. Rất quan trọng, cần kíp đến nỗi không thể trì hoãn nữa. Ta đã chịu đau khổ biết bao vì các con! Nếu Con Ta không loại bỏ người ta, Ta sẽ phải không ngừng xin Con Ta. Nhưng người ta không chú ý tới điều đó. Trong tương lai, dù người ta cầu nguyện thế nào, hành động thế nào, người ta cũng không thể bù đắp cho Ta về những gì mà Ta đã chịu đựng vì họ.
Ta đã dành 6 ngày để làm việc. Ngày thứ 7 Ta dành cho Ta. Không ai sẽ cho Ta điều đó. Điều này làm cho sức nặng của cánh tay Con Ta quá trĩu nặng. Những người đánh xe bò không thể nguyền rủa mà không nhờ Thánh Danh Con Ta. Đây là 2 điều làm cho cánh tay Con Ta quá trĩu nặng.
Nếu mùa màng thất bát, đó là lỗi của người ta. Mẹ đã báo cho người ta năm ngoái bằng mùa khoai. Người ta không thèm lưu ý. Ngược lại, khi các con thấy khoai bị hư, người ta đã nguyền rủa, các con đã lạm dụng Thánh Danh Con Ta. Khoai tiếp tục bị hư, và vào dịp lễ Giáng sinh năm nay sẽ không còn nữa.
Nếu người ta còn lúa giống thì cũng không còn tốt để gieo, vì những gì người ta gieo sẽ bị thú tàn phá, và có đâm chồi thì cũng thành tro tàn khi thu hoạch. Nạn đói lớn sắp xảy ra. Nhưng trước khi điều đó xảy ra, các trẻ em dưới 7 tuổi sẽ run sợ và chết trên tay cha mẹ chúng. Người lớn sẽ phải đói để trả giá cho tội lỗi của họ. Nho cũng sẽ thối hư, và quả óc chó sẽ hư hết.
Rồi Đức Mẹ nhìn từng em và trao cho chúng các bí mật, dù chúng không hề biết bí mật của nhau. Tiếp tục sứ điệp, Đức Mẹ nói: “Nếu người ta ăn năn trở lại, núi đá sẽ thành những đống lúa mì, và khoai sẽ tự nảy mầm”.
Đức Mẹ hỏi hai em: “Các con có cầu nguyện nhiều không?”. Hai em ngại ngần trả lời: “Không, chúng con ít khi cầu nguyện lắm”.
Đức Mẹ nói: “Này các con, đây là điều rất quan trọng Ta nói với họ, vào ban đêm và buổi sáng. Khi họ không có thời gian, ít nhất cũng cần đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng. Khi có thể thì đọc nhiều hơn”.
Rồi Đức Mẹ trở lại vấn đề chính: “Chỉ có ít bà già đi lễ vào mùa hè. Các ngày Chúa nhật người ta cũng đi làm. Vào mùa đông, khi họ không có gì làm thì họ mới đi lễ cho vui thôi. Vào mùa Chay, họ tụ tập ở các tiệm thịt, như những con chó. Này các con, các con không thấy những hạt giống bị hư sao?”. Maximin trả lời: “Không, chúng con không thấy”.
Đức Mẹ nói: “Này con, hẳn là có lần con đã thấy, ở gần Corps, cùng với ba của con. Chủ của cánh đồng đó nói với ba của con: “Đến mà xem lúa mì hư hết rồi”. Rồi cả hai cùng đi. Con đã ngắt lấy vài bông lúa. Con chà bông lúa và chúng biến thành cát bụi. Con từ Corps trở về. Khi con đi được khoảng 30 phút, ba của con đưa cho con một miếng bánh mì và nói: “Con ăn một ít bánh của năm nay đi. Ba không biết năm sau có mà ăn nữa không, nếu lúa lại hư thế này”. Maximin ngạc nhiên nói: “Vậy hả, thưa Bà. Giờ con nhớ rồi. Đến nay vẫn không có”.
Trước khi chia tay, Đức Mẹ nói: “Này các con, các con hãy nói chuyện này cho mọi người biết”. Rồi Đức Mẹ lướt bay đi, không quay nhìn hai em và nói: “Các con nói cho mọi người biết chuyện này nha”. Thấy Đức Mẹ biến đi, chúng chạy theo. Đức Mẹ lên đỉnh đồi, nơi chúng đi tìm bò. Khi lên tới đỉnh đồi, Đức Mẹ dừng lại và nhìn về hướng Đông Nam, về phía Rôma. Chúng nhìn thấy Đức Mẹ lơ lửng trên không và vẫn khóc, mặt Đức Mẹ rất buồn. Maximin mô tả: “Hai đứa con không thấy đầu Bà ấy nữa, rồi phần thân cũng không còn, Bà ấy như tan biến đi... Có thể đó là vị thánh lớn”.
Đây là một phần sứ điệp của Đức Mẹ La Salette:
Sẽ đến thời người chống Chúa Kitô được sinh ra bởi một nữ tu người Do Thái, một trinh nữ giả danh sẽ thông đồng với con rắn ngày xưa, chủ của sự vô khiết. Cha của người này là một giám mục.
Khi sinh ra, người này sẽ thốt ra những lời phỉ báng, và có 10 cái răng. Tóm lại, người này là quỷ dữ hiện thân, sẽ kêu khóc dữ dội, sẽ làm những việc phi thường, sẽ sống không thuần khiết. Người này có những người anh em, dù không là hiện thân của quỷ dữ như ông ta, nhưng có con cái là quỷ dữ. Lúc 12 tuổi, họ sẽ được chú ý vì những chiến thắng anh dũng ngay khi mỗi người đó làm trưởng quân đội, được các đạo quân của hỏa ngục trợ giúp.
Mùa màng sẽ thay đổi, trái đất sẽ sinh những hoa quả xấu, các thiên thể sẽ mất cân bằng chuyển động, mặt trăng sẽ chỉ tỏa ánh sáng hơi đỏ nhòa nhạt, nước và lửa sẽ làm rối loạn một bán cầu, khiến núi đồi, phố xá,… bị “nuốt” mất.
Rôma sẽ mất đức tin và trở thành ngai tòa của kẻ chống Chúa Kitô.
Quỷ dữ cùng kẻ chống Chúa Kitô sẽ làm những điều kỳ lạ trên trái đất và trên không trung, con người sẽ sống trụy lạc hơn. Thiên Chúa sẽ chăm sóc các tôi trung của Người và chấn chỉnh thiện ý. Phúc âm sẽ được rao truyền khắp nơi, mọi dân nước sẽ nhận biết Chân Lý.
Chuyện về Đức Mẹ La Salette lan truyền khắp nơi
Thời đó, La Salette là một ngôi làng có 700 người. Bạn có thể tưởng tượng cả làng xôn xao thế nào khi nghe chuyện lạ. Một bà đạo đức, mẹ của Baptiste Pra, chủ thuê Melanie chăn bò, nói với lòng xác tín: “Phụ nữ đó chắc chắn là Đức Mẹ”.
Linh mục xứ La Salette, cha Louis Perrin, là một trong những người tin đầu tiên. Ngài cẩn thận kể lại chuyện của hai đứa trẻ cho giáo dân biết khi cử hành thánh lễ. Linh mục xứ Corps, cha Pierre Melin, cẩn thận hơn. Nhưng ngài là nhân chứng về tia nước phun. Cùng một nhóm người, ngài dẫn hai đứa trẻ đến nơi xảy ra chuyện lạ và phỏng vấn chúng. Tại khe núi, nơi Đức Mẹ hiện ra, người ta đã cùng nhau lần chuỗi Mân Côi. Ngay sau đó, một người đàn ông đập viên đá nơi Đức Mẹ ngồi. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, một dòng nước phun ra. Ngày nay vẫn còn dòng suối này. Nước suối này được đem tới thành phố và trao cho một phụ nữ bị bệnh lâu nam. Cầu nguyện với Đức Mẹ đến ngày thứ 9, sức khỏe của bà hoàn toàn bình phục.
Có nhiều người nghi ngờ và mỉa mai hai đứa trẻ, nhưng vẫn có nhiều người hành hương về La Salette. Người ta sốt sắng xưng tội, rước lễ, cầu nguyện tại khe núi Đức Mẹ hiện ra và múc nước từ con suối. Một năm sau khi Đức Mẹ hiện ra, vào ngày 19-9-1847, khoảng năm sáu ngàn người đã hành hương về núi thánh La Salette.
Phán quyết của giáo hội
Việc điều tra các phép lạ và các cuộc hiện ra thuộc quyền giám mục địa phương. Trong trường hợp này, ĐGM Philibert de Bruillard, giáo phận Grenoble, chịu trách nhiệm. Hai đứa trẻ vẫn cương quyết giữ vững lập trường. Các vụ khỏi bệnh cũng được điều tra. Sau 5 năm thu thập chứng cớ, ĐGM de Bruillard công bố chính thức về việc Đức Mẹ hiện ra tại La Salette tại các giáo xứ trong giáo phận ngày 16-9-1851. Trong đó có đoạn: “Việc Đức Mẹ hiện ra với hai em chăn bò vào ngày 19-9-1846, trên dãy núi Alps tại giáo xứ La Salette, thuộc giáo hạt Corps, có các dấu chứng sự thật, các tín hữu có nền tảng để tin đó là sự thật và chắc chắn”.
Năm sau, ĐGM de Bruillard lên núi và đặt viên đá đầu tiên để xây dựng thánh đường ngay tại nơi Đức Mẹ hiện ra. Theo hướng dẫn của ngài, Dòng Truyền giáo La Salette được thành lập. Những năm tiếp theo, sứ điệp của Đức Mẹ được loan truyền bởi các linh mục, tu sĩ nam nữ của Dòng La Salette.
Các thị nhân
Khác với những lần khác Đức Mẹ hiện ra, các thị nhân của La Salette là Melanie và Maximin chưa được phong thánh. Trong một cuốn “A Woman Clothed with the Sun” (Một Phụ nữ mặc Áo Mặt trời), John J. Delaney giải thích: “Trong cuộc sống của Melanie và Maximin có điều thất bại và dại dột, nhưng không xấu. Cả hai chưa được phong thánh nhưng luôn là người Công giáo sùng đạo. Hai thị nhân này không được nêu danh như thánh nữ tu Bernadette, nhưng vai trò của họ là làm nhân chứng và họ đã hoàn tất nhiệm vụ một cách phi thường...”.
Tháng 9-1855, tân giám mục giáo phận Grenoble, ĐGM Ginoulhiac, đặc biệt nói: “Nhiệm vụ của các em giờ đây đã hết, trách nhiệm của giáo hội bắt đầu”. Có nhiều tranh luận về việc các bí mật được trao cho trẻ em. Chẳng hạn trên Internet, người ta phát hiện các “mạc khải” (revelation) dài về bí mật – được coi là khải huyền (considered apocalyptical) – nhưng giáo hội vẫn chưa chính thức công bố điều này. Người Công giáo nên cân nhắc các bí mật với nhiều thận trọng. Nữ tu Teresita Burgos, Dòng Tỷ muội Đức Mẹ La Salette (Sisters of Our Lady of La Salette) tại Philippines, trả lời phỏng vần của báo National Shrine ở Silang, Cavite, thế này: “Bí mật là bí mật”.
Bạn loan báo cho mọi người biết
12 năm sau, tại Lộ Đức (Pháp), Đức Mẹ lặp lại sự hoán cải và ăn năn đền tội. Tại La Salette, Đức Mẹ nhấn mạnh 2 tội trọng: Không tuân giữ ngày Chúa nhật là Ngày của Chúa và dùng Thánh Danh Chúa bất kính.
Lời kêu gọi của Đức Mẹ rất thích hợp với ngày nay như chúng ta thấy, ngay tại Philippines, sự nảy nở các khu mua sắm, các trung tâm giải trí, các nhà máy, các trung tâm điện thoại,… khiến người ta không coi ngày Chúa nhật là ngày nghỉ và cầu nguyện với Chúa. Chắc chắn vui chơi một chút vào ngày Chúa nhật là cần, nhưng nguy hiểm là khi điều đó thái quá.
Chẳng hạn, tại Philippines, các khu mua sắm có thánh lễ. Có phải người ta thích tham dự thánh lễ ở các khu mua sắm vì không có thời gian đến nhà thờ? Chắc chắn thánh lễ tại nhà tờ khiến người ta dễ cầu nguyện hơn. Làm sao những người làm việc tại các khu mua sắm và các trung tâm điện thoại dự thánh lễ Chúa nhật, họ vẫn còn thời gian đến nhà thờ mà? Mặt khác, Thánh Danh Chúa hiện nay được sử dụng bừa bãi và vô ý thức ở khắp nơi vậy!
Đức Mẹ khóc
Nghĩ đến dáng Đức Mẹ ở La Salette ngồi ôm mặt khóc và bạn sẽ nhận thấy hình ảnh của nỗi đau khổ tột cùng. Mẹ không thể cảm thông hơn! Maximin đã diễn tả về Đức Mẹ: “Người ta nghĩ Đức Mẹ là người mẹ bị các con đánh đập nên phải trốn lên núi để khóc. Ước gì chúng ta lấy đi nỗi buồn của Mẹ! Ước gì chúng ta có thể chia sẻ nỗi buồn của Mẹ! Hãy làm những gì có thể để lau khô nước mắt Mẹ trong những năm tháng chúng ta đi trên hành trình trần gian – chúng ta sẽ hưởng niềm vui vĩnh cửu trên trời”.
Maximin qua đời ngày 1-3-1875 lúc 40 tuổi. Melanie sống thêm nhiều năm tại nhiều nhà dòng ở Pháp, Anh và Ý, rồi qua đời ngày 15-12-1904 và được an táng tại Altamura (Ý).
(Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ All-About-The-Virgin-Mary.com, CatholicApologetics.info và MaryPages.com)
Trong tĩnh mịch của miền sơn cước và những dồng cỏ xanh mướt, có hai đứa trẻ nằm ngủ bên nhau trên thảm cỏ. Ở độ cao 6.000 bộ (1.828,8m) so với mặt biển, hẳn phải có sự tĩnh mịch và an bình ở đó, giống như ở những nơi tôn nghiêm dành cho việc cầu nguyện. Hai đứa trẻ là Maximin Giraud, 11 tuổi, và Melanie Calvat, 14 tuổi, đang chăn bò thuê. Maximin là cậu bé vô tư và hoạt bát. Còn Melanie tư lự và ít nói. Melanie là con thứ tư trong 10 anh chị em của một gia đình rất nghèo. Cả hai đều không biết đọc biết viết, chưa bao giờ đến trường hoặc học giáo lý. Chúng mới biết nhau 2 ngày trước khi sự việc xảy ra làm cuộc đời các em bé này thay đổi hoàn toàn.
Đức Mẹ La Salette
Melanie bất ngờ thức giấc sau khi chợp mắt buổi trưa, em chợt nhớ đến đàn bò. Em đánh thức Maximin, cả hai đi tìm bò và thấy chúng vẫn đang yên ả gặm cỏ. Lúc đó là chính ngọ, Melanie dừng lại và sửng sốt. Em gọi Maximin đến. Xa xa từ phía khe núi có một quả cầu ánh sáng làm chói mắt hơn cả ánh nắng buổi trưa. Lúng túng và sợ hãi, hai em định chạy trốn thì bất ngời có một vòng ánh sáng tỏa ra. Hai em thấy dần dần nhìn thấy hình ảnh một phụ nữ ngồi và ôm mặt khóc với dáng vẻ rất đau buồn. Phụ nữ này đứng dậy, khoanh tay trước ngực và nhìn hai đứa trẻ.
Xung quanh phụ nữ này đầy ánh sáng rất đẹp! Phụ nữ này mặc trang phục như nông dân trong vùng, áo dài và có vạt phía trước như tạp dề, có khăn choàng trắng và có mũ. Trên đầu và khăn choàng của phụ nữ này có nhiều hoa hồng. Nổi bật là xâu chuỗi có Thánh giá sáng chói; đặc biệt ở hai tay bị đóng đinh của Chúa: một tay có cây búa và một tay có chiếc kềm.
Sứ điệp của Đức Mẹ
Đức Mẹ vẫy hai đứa bé lại và nói: “Hãy đến đây, các con. Đừng sợ! Ta đến đây để nói với các con một điều quan trọng nhất”.
Chúng tiến lại gần khe núi và đến gần Đức Mẹ tới mức có thể chạm vào được. Đức Mẹ nói với hai em:
Nếu người ta không vâng lời, Ta sẽ không thể bảo Con Ta nới tay với họ. Rất quan trọng, cần kíp đến nỗi không thể trì hoãn nữa. Ta đã chịu đau khổ biết bao vì các con! Nếu Con Ta không loại bỏ người ta, Ta sẽ phải không ngừng xin Con Ta. Nhưng người ta không chú ý tới điều đó. Trong tương lai, dù người ta cầu nguyện thế nào, hành động thế nào, người ta cũng không thể bù đắp cho Ta về những gì mà Ta đã chịu đựng vì họ.
Ta đã dành 6 ngày để làm việc. Ngày thứ 7 Ta dành cho Ta. Không ai sẽ cho Ta điều đó. Điều này làm cho sức nặng của cánh tay Con Ta quá trĩu nặng. Những người đánh xe bò không thể nguyền rủa mà không nhờ Thánh Danh Con Ta. Đây là 2 điều làm cho cánh tay Con Ta quá trĩu nặng.
Nếu mùa màng thất bát, đó là lỗi của người ta. Mẹ đã báo cho người ta năm ngoái bằng mùa khoai. Người ta không thèm lưu ý. Ngược lại, khi các con thấy khoai bị hư, người ta đã nguyền rủa, các con đã lạm dụng Thánh Danh Con Ta. Khoai tiếp tục bị hư, và vào dịp lễ Giáng sinh năm nay sẽ không còn nữa.
Nếu người ta còn lúa giống thì cũng không còn tốt để gieo, vì những gì người ta gieo sẽ bị thú tàn phá, và có đâm chồi thì cũng thành tro tàn khi thu hoạch. Nạn đói lớn sắp xảy ra. Nhưng trước khi điều đó xảy ra, các trẻ em dưới 7 tuổi sẽ run sợ và chết trên tay cha mẹ chúng. Người lớn sẽ phải đói để trả giá cho tội lỗi của họ. Nho cũng sẽ thối hư, và quả óc chó sẽ hư hết.
Rồi Đức Mẹ nhìn từng em và trao cho chúng các bí mật, dù chúng không hề biết bí mật của nhau. Tiếp tục sứ điệp, Đức Mẹ nói: “Nếu người ta ăn năn trở lại, núi đá sẽ thành những đống lúa mì, và khoai sẽ tự nảy mầm”.
Đức Mẹ hỏi hai em: “Các con có cầu nguyện nhiều không?”. Hai em ngại ngần trả lời: “Không, chúng con ít khi cầu nguyện lắm”.
Đức Mẹ nói: “Này các con, đây là điều rất quan trọng Ta nói với họ, vào ban đêm và buổi sáng. Khi họ không có thời gian, ít nhất cũng cần đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng. Khi có thể thì đọc nhiều hơn”.
Rồi Đức Mẹ trở lại vấn đề chính: “Chỉ có ít bà già đi lễ vào mùa hè. Các ngày Chúa nhật người ta cũng đi làm. Vào mùa đông, khi họ không có gì làm thì họ mới đi lễ cho vui thôi. Vào mùa Chay, họ tụ tập ở các tiệm thịt, như những con chó. Này các con, các con không thấy những hạt giống bị hư sao?”. Maximin trả lời: “Không, chúng con không thấy”.
Đức Mẹ nói: “Này con, hẳn là có lần con đã thấy, ở gần Corps, cùng với ba của con. Chủ của cánh đồng đó nói với ba của con: “Đến mà xem lúa mì hư hết rồi”. Rồi cả hai cùng đi. Con đã ngắt lấy vài bông lúa. Con chà bông lúa và chúng biến thành cát bụi. Con từ Corps trở về. Khi con đi được khoảng 30 phút, ba của con đưa cho con một miếng bánh mì và nói: “Con ăn một ít bánh của năm nay đi. Ba không biết năm sau có mà ăn nữa không, nếu lúa lại hư thế này”. Maximin ngạc nhiên nói: “Vậy hả, thưa Bà. Giờ con nhớ rồi. Đến nay vẫn không có”.
Trước khi chia tay, Đức Mẹ nói: “Này các con, các con hãy nói chuyện này cho mọi người biết”. Rồi Đức Mẹ lướt bay đi, không quay nhìn hai em và nói: “Các con nói cho mọi người biết chuyện này nha”. Thấy Đức Mẹ biến đi, chúng chạy theo. Đức Mẹ lên đỉnh đồi, nơi chúng đi tìm bò. Khi lên tới đỉnh đồi, Đức Mẹ dừng lại và nhìn về hướng Đông Nam, về phía Rôma. Chúng nhìn thấy Đức Mẹ lơ lửng trên không và vẫn khóc, mặt Đức Mẹ rất buồn. Maximin mô tả: “Hai đứa con không thấy đầu Bà ấy nữa, rồi phần thân cũng không còn, Bà ấy như tan biến đi... Có thể đó là vị thánh lớn”.
Đây là một phần sứ điệp của Đức Mẹ La Salette:
Sẽ đến thời người chống Chúa Kitô được sinh ra bởi một nữ tu người Do Thái, một trinh nữ giả danh sẽ thông đồng với con rắn ngày xưa, chủ của sự vô khiết. Cha của người này là một giám mục.
Khi sinh ra, người này sẽ thốt ra những lời phỉ báng, và có 10 cái răng. Tóm lại, người này là quỷ dữ hiện thân, sẽ kêu khóc dữ dội, sẽ làm những việc phi thường, sẽ sống không thuần khiết. Người này có những người anh em, dù không là hiện thân của quỷ dữ như ông ta, nhưng có con cái là quỷ dữ. Lúc 12 tuổi, họ sẽ được chú ý vì những chiến thắng anh dũng ngay khi mỗi người đó làm trưởng quân đội, được các đạo quân của hỏa ngục trợ giúp.
Mùa màng sẽ thay đổi, trái đất sẽ sinh những hoa quả xấu, các thiên thể sẽ mất cân bằng chuyển động, mặt trăng sẽ chỉ tỏa ánh sáng hơi đỏ nhòa nhạt, nước và lửa sẽ làm rối loạn một bán cầu, khiến núi đồi, phố xá,… bị “nuốt” mất.
Rôma sẽ mất đức tin và trở thành ngai tòa của kẻ chống Chúa Kitô.
Quỷ dữ cùng kẻ chống Chúa Kitô sẽ làm những điều kỳ lạ trên trái đất và trên không trung, con người sẽ sống trụy lạc hơn. Thiên Chúa sẽ chăm sóc các tôi trung của Người và chấn chỉnh thiện ý. Phúc âm sẽ được rao truyền khắp nơi, mọi dân nước sẽ nhận biết Chân Lý.
Chuyện về Đức Mẹ La Salette lan truyền khắp nơi
Thời đó, La Salette là một ngôi làng có 700 người. Bạn có thể tưởng tượng cả làng xôn xao thế nào khi nghe chuyện lạ. Một bà đạo đức, mẹ của Baptiste Pra, chủ thuê Melanie chăn bò, nói với lòng xác tín: “Phụ nữ đó chắc chắn là Đức Mẹ”.
Linh mục xứ La Salette, cha Louis Perrin, là một trong những người tin đầu tiên. Ngài cẩn thận kể lại chuyện của hai đứa trẻ cho giáo dân biết khi cử hành thánh lễ. Linh mục xứ Corps, cha Pierre Melin, cẩn thận hơn. Nhưng ngài là nhân chứng về tia nước phun. Cùng một nhóm người, ngài dẫn hai đứa trẻ đến nơi xảy ra chuyện lạ và phỏng vấn chúng. Tại khe núi, nơi Đức Mẹ hiện ra, người ta đã cùng nhau lần chuỗi Mân Côi. Ngay sau đó, một người đàn ông đập viên đá nơi Đức Mẹ ngồi. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, một dòng nước phun ra. Ngày nay vẫn còn dòng suối này. Nước suối này được đem tới thành phố và trao cho một phụ nữ bị bệnh lâu nam. Cầu nguyện với Đức Mẹ đến ngày thứ 9, sức khỏe của bà hoàn toàn bình phục.
Có nhiều người nghi ngờ và mỉa mai hai đứa trẻ, nhưng vẫn có nhiều người hành hương về La Salette. Người ta sốt sắng xưng tội, rước lễ, cầu nguyện tại khe núi Đức Mẹ hiện ra và múc nước từ con suối. Một năm sau khi Đức Mẹ hiện ra, vào ngày 19-9-1847, khoảng năm sáu ngàn người đã hành hương về núi thánh La Salette.
Phán quyết của giáo hội
Việc điều tra các phép lạ và các cuộc hiện ra thuộc quyền giám mục địa phương. Trong trường hợp này, ĐGM Philibert de Bruillard, giáo phận Grenoble, chịu trách nhiệm. Hai đứa trẻ vẫn cương quyết giữ vững lập trường. Các vụ khỏi bệnh cũng được điều tra. Sau 5 năm thu thập chứng cớ, ĐGM de Bruillard công bố chính thức về việc Đức Mẹ hiện ra tại La Salette tại các giáo xứ trong giáo phận ngày 16-9-1851. Trong đó có đoạn: “Việc Đức Mẹ hiện ra với hai em chăn bò vào ngày 19-9-1846, trên dãy núi Alps tại giáo xứ La Salette, thuộc giáo hạt Corps, có các dấu chứng sự thật, các tín hữu có nền tảng để tin đó là sự thật và chắc chắn”.
Năm sau, ĐGM de Bruillard lên núi và đặt viên đá đầu tiên để xây dựng thánh đường ngay tại nơi Đức Mẹ hiện ra. Theo hướng dẫn của ngài, Dòng Truyền giáo La Salette được thành lập. Những năm tiếp theo, sứ điệp của Đức Mẹ được loan truyền bởi các linh mục, tu sĩ nam nữ của Dòng La Salette.
Các thị nhân
Khác với những lần khác Đức Mẹ hiện ra, các thị nhân của La Salette là Melanie và Maximin chưa được phong thánh. Trong một cuốn “A Woman Clothed with the Sun” (Một Phụ nữ mặc Áo Mặt trời), John J. Delaney giải thích: “Trong cuộc sống của Melanie và Maximin có điều thất bại và dại dột, nhưng không xấu. Cả hai chưa được phong thánh nhưng luôn là người Công giáo sùng đạo. Hai thị nhân này không được nêu danh như thánh nữ tu Bernadette, nhưng vai trò của họ là làm nhân chứng và họ đã hoàn tất nhiệm vụ một cách phi thường...”.
Tháng 9-1855, tân giám mục giáo phận Grenoble, ĐGM Ginoulhiac, đặc biệt nói: “Nhiệm vụ của các em giờ đây đã hết, trách nhiệm của giáo hội bắt đầu”. Có nhiều tranh luận về việc các bí mật được trao cho trẻ em. Chẳng hạn trên Internet, người ta phát hiện các “mạc khải” (revelation) dài về bí mật – được coi là khải huyền (considered apocalyptical) – nhưng giáo hội vẫn chưa chính thức công bố điều này. Người Công giáo nên cân nhắc các bí mật với nhiều thận trọng. Nữ tu Teresita Burgos, Dòng Tỷ muội Đức Mẹ La Salette (Sisters of Our Lady of La Salette) tại Philippines, trả lời phỏng vần của báo National Shrine ở Silang, Cavite, thế này: “Bí mật là bí mật”.
Bạn loan báo cho mọi người biết
12 năm sau, tại Lộ Đức (Pháp), Đức Mẹ lặp lại sự hoán cải và ăn năn đền tội. Tại La Salette, Đức Mẹ nhấn mạnh 2 tội trọng: Không tuân giữ ngày Chúa nhật là Ngày của Chúa và dùng Thánh Danh Chúa bất kính.
Lời kêu gọi của Đức Mẹ rất thích hợp với ngày nay như chúng ta thấy, ngay tại Philippines, sự nảy nở các khu mua sắm, các trung tâm giải trí, các nhà máy, các trung tâm điện thoại,… khiến người ta không coi ngày Chúa nhật là ngày nghỉ và cầu nguyện với Chúa. Chắc chắn vui chơi một chút vào ngày Chúa nhật là cần, nhưng nguy hiểm là khi điều đó thái quá.
Chẳng hạn, tại Philippines, các khu mua sắm có thánh lễ. Có phải người ta thích tham dự thánh lễ ở các khu mua sắm vì không có thời gian đến nhà thờ? Chắc chắn thánh lễ tại nhà tờ khiến người ta dễ cầu nguyện hơn. Làm sao những người làm việc tại các khu mua sắm và các trung tâm điện thoại dự thánh lễ Chúa nhật, họ vẫn còn thời gian đến nhà thờ mà? Mặt khác, Thánh Danh Chúa hiện nay được sử dụng bừa bãi và vô ý thức ở khắp nơi vậy!
Đức Mẹ khóc
Nghĩ đến dáng Đức Mẹ ở La Salette ngồi ôm mặt khóc và bạn sẽ nhận thấy hình ảnh của nỗi đau khổ tột cùng. Mẹ không thể cảm thông hơn! Maximin đã diễn tả về Đức Mẹ: “Người ta nghĩ Đức Mẹ là người mẹ bị các con đánh đập nên phải trốn lên núi để khóc. Ước gì chúng ta lấy đi nỗi buồn của Mẹ! Ước gì chúng ta có thể chia sẻ nỗi buồn của Mẹ! Hãy làm những gì có thể để lau khô nước mắt Mẹ trong những năm tháng chúng ta đi trên hành trình trần gian – chúng ta sẽ hưởng niềm vui vĩnh cửu trên trời”.
Maximin qua đời ngày 1-3-1875 lúc 40 tuổi. Melanie sống thêm nhiều năm tại nhiều nhà dòng ở Pháp, Anh và Ý, rồi qua đời ngày 15-12-1904 và được an táng tại Altamura (Ý).
(Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ All-About-The-Virgin-Mary.com, CatholicApologetics.info và MaryPages.com)