Giáo Xứ Paris học hỏi và cử hành Năm Thánh 2010

Bài 6: Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp
khám phá dấu chỉ thời đại, 1977-2007


Paris. Chúa nhật 13/06/2010. Trước thánh lễ 11g30, GXVN Paris đã dành 10 phút để học hỏi về Năm Thánh 2010 (1). Theo đề nghị của BGĐ-GX, GS Trần Văn Cảnh giới thiệu với Cộng Đoàn về « Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp khám phá dấu chỉ thời đại, 1977-2007 » (2). Bài giới thiệu được chia làm hai phần: phần trình bày và phần hỏi thưa.

A. PHẦN TRÌNH BÀY

Với một số người nhập cư vào Pháp đông chưa từng có, từ 1975 đến 1985, người Việt Nam được người Pháp đón tiếp một cách nồng hậu, với nhiều ưu ái và giúp đỡ rất quý. Người Công Giáo Việt Nam lại được Giáo Hội Pháp tạo cho một quy chế tổ chức xứng đáng hơn. Đó là tổ chức Tuyên Úy Đoàn, với một Tổng Tuyên Úy được gọi là « Đại diện Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều Vụ bên cạnh các Tuyên Úy Việt Nam tại Pháp », bổ nhiệm từ năm 1977. Ba mươi năm sau, các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam đã họp Đại Hội Quốc Gia tại Lộ Đức để khám phá và nhận diện thực tại, vào năm 2006. Người Việt Nam và đặc biệt là người Việt Nam Công Giáo đã làm được gì ? Đã khám phá được những dấu chỉ nào của thời đại ? Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào những dữ kiện lịch sử !

1. Tiếp đón người tỵ nạn việt nam tại pháp (1975-1976)

Sự hiện diện của người Việt Nam trên đất Pháp bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ XVIII. Sang đến thế kỷ XX, nhiều biến cố chính trị, quân sự như hai cuộc đại chiến thế giới, 1914-1918 và 1939-1945, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước năm 1954, cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diêm 1963, việc thống nhất đất nước năm 1975,... đã gây nên nhiều đợt di dân đến Pháp.

Số người Việt Nam tỵ nạn tại Pháp ngày càng gia tăng từ sau tháng 4-1975. Những trung tâm tạm cư mọc lên như nấm. Các Linh mục, tu sĩ tùy theo khả năng của mỗi người mà đáp ứng các nhu cầu của đồng bào mới sang định cư. Thông dịch, tìm nhà, kiếm việc làm, xin giấy tờ, thăm viếng, ủy lạo, dậy tiếng pháp,... các công tác xã hội này đã đưa tuyên úy đến gần với nhau và với người đồng hương hơn.

Từ mùa hè 1977, theo quyết định của Hội Đồng Giám Mục Pháp, việc mục vụ cho người công giáo Việt Nam được trao phó cho Tuyên Úy Đoàn do cha Trương Đình Hoè làm Đại Diện. Thực ra, danh từ Tuyên Úy Đoàn chưa được dùng đến trong những năm 1975-1978. Tháng 11- 1979, khi nói về các cuộc họp tại Orsay, Cha Trương Đình Hoè, lần đầu tiên, trong tờ báo Hiện Diện số 21 dùng chữ Đoàn Tuyên Úy. Và phải đợi đến năm 1990, trong kỳ họp thứ 13 tại Paray-le-Monial, từ ngữ Tuyên Úy Đoàn mới bắt đầu xuất hiện. Từ đó đến nay chưa có sự thay đổi nào khác. Thực ra, nếu xét về nghĩa ngữ thì các cụm từ trên cũng không khác biệt nhau bao nhiêu. Điểm quan trọng là những yếu tố cấu tạo nên một Tuyên Úy Đoàn, đồng trách nhiệm, cùng một hướng đi, hiệp thông với Giáo hội tiếp cư, chung lưng gánh vác sứ mệnh truyền giáo cho người Việt Nam.

2. Thành lập Tuyên Úy Đoàn và Đại Diện vào năm 1977

Sau hai năm nhận diện môi trường mục vụ và trao đổi với các vị hữu trách, ngày 9-6-1977, Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều Vụ đặt Cha Samuel Trương Đình Hoè làm Đại Diện của Ủy Ban bên cạnh các tuyên úy Việt Nam tại Pháp. Ba tháng sau, ngày 13/09/1977, Cha Hoè được Đức Hồng Y Marty, Giám Mục địa phận Paris, bổ nhiệm là Linh mục đảm nhiệm Giáo Xứ Việt Nam Paris, thay thế Cha Nguyễn Quang Toán.Tuy hai trách nhiệm mục vụ này không tùy thuộc lẫn nhau nhưng bổ túc cho nhau. Và sau đó, ngày 16-6-1977, Ủy Ban Thường Vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp lại cử Cha Jean Baptiste Etcharren làm phó thư ký cho Ủy Ban Ngoại Kiều Vụ, đặc trách người tỵ nạn Đông Nam Á Châu (Việt, Miên, Lào).

Sự bổ nhiệm Cha Samuel Trương Đình Hoè đánh dấu một thay đổi lớn trong việc phân bổ trách nhiệm mục vụ. Kể từ đây, các cộng đoàn Công giáo được Giáo hội Pháp chính thức công nhận. Tiếng nói của người Công Giáo Việt Nam là Tuyên Úy Đoàn. Giáo xứ Việt Nam Paris cũng như những cộng đoàn khác tùy thuộc Giám mục địa phương. Vai trò chính yếu của vị Đại Diện là phối hợp các công tác mục vụ toàn quốc, trong đó có sự duy trì và phát huy văn hoá dân tộc. Các tuyên úy được mời gọi hợp tác tích cực với ngài trong sứ mệnh này. Thư bổ nhiệm đặc biệt lưu tâm đến sự liên đới giữa người Việt Nam, không phân biệt tôn giáo, chính kiến.

Năm 1977 có 17 Cộng Đoàn CGVN tại Pháp. Báo Hiện Diện, số ra mắt tháng 10-1997, trang 2, trong Sơ đồ tổ chức điều hành có ghi nhận 17 Cộng Đoàn gồm Lille, Metz, Strasbourg, Rennes, Nantes-Brest, Orléan, Paris, (không ghi Sarcelles, Ermont), Lyon, Grenoble, Bordeaux, Toulouse, Montpellier, Avignons, Marseille, Toulon, Cannes và Nice (Không ghi Aix).

Lên 20 Cộng Đoàn vào năm 1980. Được bổ nhiệm làm đại diện các tuyên úy Việt Nam, cha Samuel Trương Đình Hoè đã viết thư mời các vị Linh mục và tu sĩ nam nữ đang giúp đỡ kiều bào trong các Missions Catholiques Vietnamiennes và các trung tâm tiếp cư, về họp mặt tại Nhà Ánh Quang Thiên Chúa (La Clarté Dieu), 95 rue de Paris, 91402 Orsay, từ ngày 27 đến 30.11.1978, để thảo luận về đề tài: ‘Hiện tình Mục vụ Việt kiều tại Pháp và Vị trí Mục vụ Việt kiều trong Giáo hội Pháp’.

Lúc nầy, các địa điểm mục vụ đã chính thức hoạt động, dưới danh xưng cộng đoàn (trừ Giáo Xứ Paris). Đứng đầu mỗi địa điểm là một Linh mục, hoặc một sư huynh hay một nữ tu. Báo Hiện Diện số 30 tháng 11 năm 1980, do phòng Đại diện ủy ban Giám mục Ngoại kiều vụ phát hành, đã đăng danh sách 20 Cộng Đoàn sau đây: Lille, Strasbourg Metz, Nancy, Nantes, Brest, Bourges, Vannes, Luçon, Corbeil Essonnes, St. Germain en Laye, Giáo Xứ Paris, Villiers le Bel, Orléans, Lyon, St Etienne, Dijon, Montpellier, Bonnville, Grenoble, Bordeaux Gironde, Aix en Provence, Toulon, Marseille, Cannes, Nice.

Để đi đến 46 Cộng Đoàn vào năm 2006. Trong tập Kỷ Yếu 30 năm hành trình đức tin của Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp (1976-2006), từ trang 30 đến 103, Ban Tuyên Úy đã giới thiệu 46 Cộng Đoàn.

Song song với việc phát triển về lượng, Tuyên Úy Đoàn đả cải tiến về phẩm bằng cách đưa ra một tổ chức hữu hiệu hơn. Việc này đã được thực hiện vào năm 1990 dưới nhiệm kỳ Tổng Tuyên Úy của cha Mai Đức Vinh. Ngài kể rằng: « Ngày 25.06.1990, Đức Cha Pierre Joatton, Giám Mục Giáo phận Saint Eùtienne, chủ tịch Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều gửi thư bổ nhiệm tôi làm Đại Diện Quốc Gia cho Tuyên Úy Đoàn Việt Nam tại Pháp và là người có trách nhiệm phối hợp về mục vụ cho người Việt Nam (Délégué National pour les Aumôniers Vietnamiens en France et responsable de la coordination de la Pastorale des Vietnamiens), thay thế Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự mãn nhiệm kỳ. Ba tháng sau, tức kỳ Đại Hội XIII của Tuyên Úy Đoàn, từ 24-28.09.1990, tại Maison du Sacré Coeur, Paray le Monial, tôi trình bày với các Tuyên Úy về chương trình sinh hoạt mục vụ tổng quát gồm bốn điểm chính:

Mời các Tuyên Úy cộng tác sinh hoạt, mọi người kể từ Linh Mục Đại Diện đều làm việc có tính cách tự nguyện.

Tiền 80.000f (1/2 lương hàng năm của một Linh mục) do Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều trợ cấp sẽ trở thành quỹ chung của Tuyên Úy Đoàn. Thêm vào đó, mỗi cộng đoàn dành một ngày tiền quyên trong Thánh Lễ góp vào quỹ chung.

Thành lập Ban Mục Vụ Trưởng Thành, đặc biệt tổ chức các khóa huấn luyện cho các thành viên của các Ban Đại Diện Cộng Đoàn Việt Nam tại Pháp.

Thành lập Ban Mục Vụ Giới Trẻ, đặc biệt tổ chức các Đại Hội Giới Trẻ.

Sau nhiều giờ trao đổi, có lúc thật sôi nổi, chương trình bốn điểm đã được Tuyên Úy Đoàn chấp nhận. Ban Mục Vụ Trưởng Thành được thành hình từ đó ». (Lm Mai đúc Vinh, Ban Mục Vụ trương thành, trong: Kỷ Yếu 30 năm hành trình đức tin của Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp (1976-2006), tr. 17-19)

Ngày nay, Tuyên Úy Đoàn gồm tất cả những tuyên úy của tất cả những Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp. Hằng năm các Tuyên Úy họp Đại Hội để gặp mặt chung, cầu nguyện chung, trao đổi chung và kiểm điểm chương trình đã thực hiện, đưa ra chương trình sẽ thực hiện. (Bên cạnh Tuyên Úy Đoàn, không chính thức, nhưng có Hội Liên Tu Sỹ Việt Nam tại Pháp, là điểm tựa tích cực và hữu hiệu).

Tuyên Úy Đoàn gồm ba cơ quan chính:

+ Ban Điều hành Trung ương: Linh mục đại diện, các cố vấn, thủ quỹ và thư ký.

+ Ban Mục vụ Giới Trưởng thành: Gồm 5 vị tuyên úy và 5 vị đại diện giáo dân thuộc 5 vùng điện thoại.

+ Ban Mục Vụ Giới Trẻ: Gồm Linh mục trưởng ban, 5 tuyên úy trẻ và 5 đại diện bạn trẻ thuộc 5 vùng điện thoại.

+ Linh mục đại diện Cha Samuel Trương Đình Hoè, (1978-1981, 1981-1984). Cha Pierre Nguyễn Văn Tự, (1984-1987, 1987-1990). Đức ông Joseph Mai Đức Vinh, (1990-1993, 1993-1996). Cha Clément Nguyễn Văn Thể, (1996-1999, 1999-2002). Cha Lucas Hà Quang Minh, (2003-2006, 2006-2009). Cha Nguyễn Văn Sang (2009-)

Dưới sự chỉ đạo của cha Đại Diện Quốc Gia của Tuyên Úy Đoàn Việt Nam tại Pháp, mà ngôn ngữ thân mật hằng ngày gọi là Cha Tổng Tuyên Úy, Ban Điều Hành Trung Uơng, đã làm việc và đã tổ chức được nhiều cuộc họp. Tính đến năm 2010, tất cả đã có 32 cuộc họp đã được tổ chức. Mỗi cuộc họp là mỗi cơ hội các tuyên úy ngồi lại với nhau, cùng cầu nguyện, cùng chia sẻ những hoạt động mục vụ điạ phương, cùng trao đổi để tìm một hướng đi v.v... Trong các đề tài được chọn cho các lần họp, chúng ta có thể chia làm hai thứ loại:

Thứ nhất, các chủ đề có tính cách nhận diện, tìm hiểu, chọn hướng đi mục vụ. Ví dụ: Kiểm điểm mục vụ 14 năm qua: a/ Diễn tình và hiện tình của Tuyên Úy Đoàn; b/ Mấy nhận định về hiện tình các cộng đoàn Việt nam tại Pháp (Paray le Monial 1990). Hay « Tổ chức một Đại Hội Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt nam tại Pháp trong năm 2010, để Hiệp thông Năm Thánh 2010 với Giáo Hội Việt Nam », quyết định trong đại hội thứ 31 năm 2008 tại Toulon và trong tuần họp thứ 32 tại thành phố Troyes từ 5 đến 9/10/2009.

Thứ hai, các vấn đề thuộc phạm vi luân lý, xã hội: Người phụ nữ Việt Nam trong Giáo Hội, (Poitiers - 1996). Thánh Kinh: Di dân: khía cạnh Thánh Kinh và thần học, (Lille - 1993). Mục vụ: Tìm hiểu Công Nghị địa phận tại Pháp và sự tham dự của Cộng Đồng Giáo Dân Việt Nam ( Grans/ 1992 ). Các đề tài được đưa ra và biểu quyết tập thể theo tinh thần dân chủ.

Trong hơn ba ngày họp (bắt đầu từ chiều thứ hai và kết thúc sáng thứ sáu), một ngày là Pháp ngữ, có Đức Cha địa phận và Ban Mục Vụ Ngoại Kiều địa phương tham dự, và hai ngày Việt ngữ. Trưa thứ ba, Thánh Lễ đồng tế có các giáo dân tham dự. Và bữa ăn trưa ngày hôm đó do cộng đoàn khoản đãi. Hình ảnh một Giáo Hội Đại Đồng, đa ngôn ngữ, đa chủng tộc được minh chứng một cách sống động nhất trong ngày thứ ba này.

Ngoài ra Ban Mục Vụ Giới Trưởng Thành và Ban Mục Vụ Giới trẻ cũng tổ chức những cuộc hội học và trao đổi về những vấn đề mục vụ chuyên biệt của mình.

3. Thành lập Cộng đoàn « Giáo Xứ Việt Nam Paris », năm 1977

Năm 1977, cùng với việc Hội Đồng Giám Mục Pháp thành lập Tuyên Úy Đoàn Việt Nam tại Pháp, Tòa Tổng Giám Mục Paris đã bổ nhiệm cha Trương Đình Hòe đảm nhiệm Giáo Xứ Việt Nam, nâng địa điểm Paris lên hàng giáo xứ; linh mục giám đốc được bổ nhiệm với tước hiệu « cha sở » (curé); cha sở, các cha phó và các tu sỹ trong ban giám đốc được trả lương và có bảo hiểm xã hội.

Nhiệm kỳ của cha Samuel Trương Ðình Hoè, 1997-1979. Sau khi đã gởi thơ bổ nhiệm cho cha Trương Ðình Hoè, ngày 29.09.1997, Ðức Cha Pérézil gởi thơ báo tin này cho cha Toán và cám ơn cha nồng nhiệt về những việc cha đã làm cho Giáo Xứ trong những năm qua.

Ngày 13.10.1977 là ngày bàn giao công vụ giữa cha Nguyễn Quang Toán và cha Trương Ðình Hoè, với sự chứng kiến của cha J.B. Etcharren, cha Bernard le Franc và cha Robert Gilbert.

Lãnh thổ hoạt động của Giáo Xứ từ nay hạn hẹp vào lãnh thổ của 8 giáo phận thuộc Giáo Tỉnh Paris, trừ những nơi mà Giáo Quyền địa phương đã bổ nhiệm một tuyên úy Việt Nam khác.

Cha Trương đình Hoè đã qui tụ được một nhóm linh mục khá hùng hậu cộng tác: cha Hoàng Quang Lượng lo phó giám đốc, cha Ngô Duy Linh lo phụng Vụ, cha Lương Tấn Hoàng và nữ tu Huỳnh Thị Na lo xã hội, cha Mai Ðức Vinh lo giáo lý, cha Ðinh Ðồng Thượng Sách và nữ tu Sophie Nguyễn thị Phú lo giới trẻ.

Cha Giám Ðốc Trương Ðình Hoè đã làm được hai việc quan trọng sau đây: chỉnh trang lại cơ sở giáo xứ cho ngăn nắp, sạch sẽ và khang trang hơn và nhất là đã vận động với Toà Tổng Giám Mục để những linh mục hay tu sĩ làm việc cho Giáo Xứ đều được bổ nhiệm trên giấy tờ, được trả lương và bảo hiểm xã hội.

Nhiệm kỳ của cha Denis Lương Tấn Hoàng, 1979-1980. Năm 1979, Cha Trương đình Hoè từ chức vì dòng Phanxicô cần đến ngài để lo các công tác văn hoá và huấn luyện của dòng. Cha Lương Tấn Hoàng lên thay. Trong tờ báo Giáo Xứ Việt Nam, số 122, tuần lễ 02-09.11.1980 có thông báo rằng « Vì lý do sức khoẻ, từ tháng 07, Cha Denis Hoàng đã đệ đơn xin từ chức Giám Ðốc Giáo Xứ. Nay Ðức Giám Mục chấp nhận đơn của Cha và đồng thời bổ nhiệm cha Giuse Mai Ðức Vinh thay thế. Vậy hôm nay, chủ nhật 02.11.1980, cha Bernard le Franc, thay mặt Ðức Cha Daniel Pérézil, đến đồng tế và chính thức công bố sự thay đổi này ».

Nhiệm kỳ của cha Giuse Mai Đức Vinh, 1980-Hôm nay (2010). Qua văn thư ngày 28.11.1980, cha Giuse Mai Ðức Vinh được Toà Tổng Giám Mục Paris bổ nhiệm làm cha sở Giáo Xứ. Nhân viên Ban Giám Đốc ít hơn, nhưng cha Tân Giám Đốc đã quy tụ được một nhóm tu sỹ và giáo dân có khả năng, cộng tác đắc lực. Nhiều chính sách và chương trình hoạt động mục vụ trong các lãnh vực khác nhau đã được các linh mục trong ban giám đốc và các giáo dân trong hội đồng mục vụ liên tiếp thực hiện, dưới sự lãnh đạo của cha giám đốc Giuse Mai Đức Vinh.

Từ 1980 đến 2007, năm chương trình mục vụ đã được thực hiện với kết quả cao:

• 1980-1983: xây dựng cơ cấu tổ chức: 1980 thành lập Nhóm Thần Học Giáo Dân để học hỏi các vấn đề thần học, đưa ra các kế hoạch và chương trình mục vu. Sau 3 năm làm việc, vào năm 1983, ba việc quan trọng đã được Ban Giám Đốc và Nhóm Thần Học Giáo Dân thực hiện: thành lập ban đại diện các địa điểm mục vụ: Paris, Sarcelles-Garges, Villiers-Le-Bel, Noisy-Le-Grand; thành lập các nhóm công giáo tiến hành và bầu ban đại diện; Và ngày 30.10.1983, từ các Ban Đại Diện trên, thành lập Hội Ðồng Mục Vụ tiên khởi cho giáo xứ.

• 1984-1989: phát triển văn hoá giáo dục: 1984: Phát hành Báo Giáo Xứ, bộ mới. 1986: Cải tiến việc giáo dục giáo lý và văn hoá Việt Nam cho Ấu Thiếu Nhi và lập Ðoàn Thiếu Nhi Thánh Thể. 1986: Chương trình tu bổ cơ sở, lập sổ vàng và vận động xin một nhà nguyện rộng lớn hơn. 1986: Phát huy lễ hội văn hoá, khởi xướng bữa tiệc xuân giáo xứ. 1987: Ðào tạo nhân sự giáo sĩ, đề nghị phong chức phó tế vĩnh viễn cho thầy Girard Xavier thuộc cộng đoàn Sarcelles. 1989: Lập « Hội yểm trợ ơn gọi tận hiến ».

• 1990-1996: Phát triển Ðời sống thiêng liêng: 1990: Thư Viện Giáo xứ chính thức khai trương. 1993: Khai trương phong trào CURSILLO. 1995: Thành lập Ban Mục Vụ Gia Ðình

• 1997-2001: Phát triển đời sống văn hoá, cơ sở vật chất và liên đới xã hội: 1997: lập Ban Tu thư tập thể, viết sách chung. Nhận cơ sở mới, 38 rue des Epinettes, và dâng thánh lễ đầu tiên tại cơ sở mới vào ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15.08.1998 và chuyển giao cơ sở Boissonade cho cộng đoàn công giáo Triều Tiên ngày 31.08.1998. 2000: Thành lập Liên đới nghề nghiệp trong 5 ngành có nhiều người việt nam: Chuyên Gia, Thân Hữu Taxi, Doanh Thương, Dịch Vụ, Xây Dựng.

• 2002-2007: Phát triển và tự lập tài chánh: 2002: Mạng lưới đầu tiên của Giáo Xứ chào đời với tên gọi www.giaoxuvnparis.org trong Đại hội liên đới nghề nghiệp lần thứ 3, ngày 01.05.2002. 2003: Lập nhóm đặc trách ‘Tiền giúp Giáo Hộĩ’, Giáo xứ hoàn toàn tự lập về tài chánh. Qua lá thơ đề ngày 29.06.2005, Ðức Ông Giám Ðốc Mai Ðức Vinh đã chính thức loan báo với cộng Ðoàn việc thành lập điạ điểm mục vụ mới ở Antony.

Qua tóm tắt yếu lược ba sự kiện tổ chức chính trên đây, với những hoạt động đã thực hiện được trong 30 năm, 1977-2007, ý thức rõ rệt hay còn mơ hồ mường tượng, người Việt Nam Công Giáo tại Pháp đang khám phá ra những dấu chỉ thời đại, mà Thiên Chúa từ nhân đã dần dà hé mở cho họ.

Dấu chỉ thứ nhất mà họ đã khám phá ra là thực tế và nhu cầu cần thiết trở thành một cộng đoàn hiệp thông. Họ hiệp thông với nhau, với các cộng đoàn việt nam khác tại các địa điểm mục vụ khác tại Pháp và với các vùng hải ngoại khác trên hoàn cầu. Họ hiệp thông với các cộng đoàn công giáo địa phương Pháp, với Giáo Hội Pháp và Giáo Hội Hoàn Vũ. Họ hiệp thông với Giáo Hội Mẹ Việt Nam.

Dấu chỉ thứ hai là hướng đi mà Tuyên Úy Đoàn đã phác ra cho các cộng đoàn là sống như một gia đình, phát huy sự tham gia của giáo dân vào các hoạt động tông đồ, xây dựng tương lai giáo hội mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.

B. PHẦN HỎI-ĐÁP

Sau phần trình bày của GS Trần Văn Cảnh, Ông Nguyễn Văn Thơm, Ủy Viên Xây Dựng, HĐMV đã đặt ra với GS Cảnh năm câu hỏi.

1- H. Vì ý gì mà Chúa Giêsu đã kêu gọi và tuyển chọn các Tông Đồ?

T. Chúa Giêsu đã kêu gọi và tuyển chọn các tông đồ để giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn Giáo Hội. Nhờ vậy, các tín hữu hiệp thông trong niềm tin và hy vọng. Chúa đã đặt thánh Phêrô làm thủ lãnh các Tông Đồ, làm “nguyên lý cùng nền tảng cho sự hiệp nhất và hiệp thông đức tin” trong Giáo Hội. Việc các tín hữu lắng nghe giáo huấn các Tông đồ diễn tả họ gắn bó với Thiên Chúa cũng như với nhau.

Các giáo dân gắn bó với các tuyên úy; Các tuyên úy gắn bó với các giám mục. Các giám mục gắn bó với Tòa Thánh. Đó là sự hiệp thông của các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp.

2- H. Công Đồng Vaticanô II nói thế nào về sự bình đẳng giữa các Kitô hữu?

T. Theo Công Đồng Vaticanô II, “mọi chi thể đều có chung một phẩm giá được tái sinh trong Chúa Kitô, một ân huệ được làm con, một ơn gọi nên trọn lành; chỉ có một ơn cứu độ, một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia” (GH 32). Giáo Hội xác quyết giáo dân là người đồng trách nhiệm với các giáo sĩ và tu sĩ, dựa vào phẩm giá chung của các Kitô hữu.

Điều này, dường như các Tuyên Úy Việt Nam tại Pháp đã thực hiện được trong các cộng đoàn của mình.

3. H. Công Đồng Vaticanô II nhận định thế nào về sự cần thiết của tông đồ giáo dân trong giáo xứ?

T. Theo Công Đồng, hoạt động tông đồ giáo dân cần thiết đến nỗi nếu không có nó, chính hoạt động tông đồ của các chủ chăn thường không thể đạt được kết quả đầy đủ. Theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, việc giáo dân tham gia vào sinh hoạt giáo xứ hết sức cần thiết, vì dưới ánh sáng của mầu nhiệm Giáo Hội-Hiệp Thông, các thừa tác vụ và các đoàn sủng vốn khác biệt và bổ túc cho nhau, đều cần thiết cho sự tăng trưởng của Giáo Hội.

Các giáo dân việt nam tại Pháp đã rõ rệt ý thức điều này khi cùng nhau lập « Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp vào năm 1946, và được Giáo Quyền công nhận vào năm 1947. Truyền thống ấy vẫn còn được duy trì qua các hội đoàn công giáo tiến hành, được thành lập trong các cộng đioàn, đặc biệt là ở Giáo Xứ Việt Nam Paris.

4- H. Phải chăng ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành riêng cho giáo sĩ và tu sĩ?

T. Mọi người trong Giáo Hội đều được tham dự vào ơn gọi chung là nên thánh. Do đó, giáo dân đương nhiên được mời gọi và có bổn phận nên thánh theo bậc sống của mình. Ơn gọi nên thánh đòi hỏi chúng ta phải sống xứng đáng là các thánh của Chúa, nghĩa là phải nối gót và noi gương Đức Giêsu-Kitô, qua việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa, tham dự cách có ý thức và chủ động vào đời sống phụng vụ và bí tích của Giáo Hội, chuyên chăm việc cầu nguyện cá nhân, gia đình và cộng đồng, thực hành giới luật yêu thương trong mọi hoàn cảnh đời sống và trong việc phục vụ anh chị em, đặc biệt những người hèn kém, nghèo khó và đau khổ.

5- H. Trong bối cảnh của một thế giới mà cảm thức tôn giáo đang bị lu mờ, theo Bộ Giáo Sĩ, huấn giáo phải có những đặc tính nào?

T. Huấn giáo phải là công cuộc huấn luyện toàn diện và toàn bộ đời sống Kitô hữu; phải cổ võ cho sự hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô và gắn bó với đời sống của Giáo Hội, phải toàn vẹn về nội dung và thích ứng với bối cảnh văn hoá của các dân tộc, phải liên kết mật thiết với phụng vụ và bí tích cũng như hướng đến việc tông đồ và truyền giáo.

Chương trình mục vụ của Các Tuyên Úy Việt Nam tại Pháp luôn luôn nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội và văn hóa, để bảo vệ và phát triển đức tin, hầu thực hiện sứ mệnh tông đồ truyền giáo. Năm 2008 suy nghĩ và trao đổi về các thách đố hôm nay, trong gia đình, cộng đoàn giáo hội. Năm 2009 học hỏi về Đức Ái, tìm về Chân, Thiện, Mỹ. Năm 2000, hiệp thông với Giáo Hội Việt Nam, cử hành Nam Thánh 2010, xây dựng tương lai giáo hội mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.

Paris, ngày 13 tháng 06 năm 2010

Trần Văn Cảnh

(Viết theo Tài liệu học hỏi trong Năm Thánh

http://www.hdgmvietnam.org/tai-lieu-hoc-hoi-trong-nam-thanh-toan-tap/1719.83.6.aspx)

Chú thích:

(1). Để sống Năm Thánh 2010, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đề nghị một phương thức hai điểm: 1- « Có những cử hành chung cho cả nước và có những cử hành riêng cho địa phương ». 2- « Cử hành năm Thánh 2010 là dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua trong tâm tình tạ ơn vì biết bao hồng ân Chúa ban, tạ ơn vì những hy sinh của các bậc tiền nhân, các ân nhân cũng như các chứng nhân đức tin; đồng thời tạ lỗi vì đã chưa bày tỏ được hình ảnh Giáo Hội như lòng Chúa mong ước. Đây cũng là cơ hội cho ta nhìn vào hiện tại với cặp mắt đức tin để phân định những thách đố cũng như những thuận lợi cho đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Đây còn là thời điểm thúc đẩy chúng ta nhìn tới tương lai với quyết tâm xây dựng một Giáo Hội như gia đình của Chúa, như cộng đoàn hiệp thông huynh đệ, và là cộng đoàn loan báo Tin Mừng Chúa Kitô nhằm phục vụ sự sống và phẩm giá của mọi người, nhất là những người nghèo khổ ».

Theo phương thức trên, Ban Giám Đốc Giáo Xứ Việt Nam Paris đã đưa ra một chương trình « Học hỏi về Năm Thánh 2010 » thực hiện trong 8 tuần lễ. Mỗi chúa nhật, trước thánh lễ 11 giờ 30, Ban Giám Đốc đã mời Giáo Sư Trần Văn Cảnh hướng dẫn Cộng đoàn học hỏi về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và lịch sử Cộng đoàn Công giáo Việt Nam Paris.

1. 09/05: Dẫn nhập: Tìm hiểu Năm Thánh 2010

2. 16/05: GHVN hình thành, 1533-1659

3. 23/05: GHVN phát triển, 1659-1960

4. 30/05, GHVN trưởng thành, 1960-hôm nay

5. 06/06: trở về nguồn CGVN tại Pháp, 1784-1977

6. 13/06: Xem dấu chỉ hiện tại CGVN tại Pháp, 1977-2007

7. 20/06: Hướng tương lai CGVN tại Pháp, 2007-2010

8. 27/06: Hướng tương lai cho GHVN

9. Và lần thứ 9, GXVN Paris sẽ theo Tuyên Úy Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp và toàn thể các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp, để tổ chức Đại Hội Mừng Năm Thánh 2010 với Giáo Hội Việt Nam, trong hai ngày 03-04/07/2010 tại Paris với sự tham dự của Đức Hồng Y André Vingt-Trois, Tổng Giám Mục Paris, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp và Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.

(2). Xin xem thêm:

Về Các CĐCGVN tại Pháp

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=36433

• 30 Năm hành trình đức tin của các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp (1976-2006) (bài 3) /GS.Trần Văn Cảnh (05-Aug-2006 00:19)
• 30 năm hành trình đức tin của các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp (1976-2006) (bài 2) /GS.Trần Văn Cảnh (04-Aug-2006 01:01)
• 30 Năm hành trình đức tin của các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp (1976-2006) (bài I) /GS.Trần Văn Cảnh (03-Aug-2006 01:13)

http://ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHHanhTrinhDucTinCongGiaoVNTaiPhap01.htm

Về GXVN Paris:

http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=chapter&id=13&ib=40&ict=516
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailbook&id=53&ib=306
http://www.giaoxuvnparis.org/htm/vanhoagiaoxu/cambut/tranvcanh/gxvnparis/12.htm