Linh muc Giuse Cao Đình Thuấn sinh năm 1925 tại Phú Nhai, giáo phận Bùi chu, chịu chức linh mục ngày 03-12-1954 tại Saigon, làm Cha phó Bùi Phát, Giáo sư Tiểu Chủng viện thánh Phanxicô, Tuyên uý quân đội (1959-1970), Hạt trưởng Hạt Hóc Môn kiêm Chánh xứ Bùi Môn, đã học tập cải tạo hơn 13 năm (1975-1988), linh mục Chánh xứ Xây Dựng 8 năm (1992-2000), hưu ỡ Nhà hưu dưỡng Linh mục Sài gòn (2000-2006) và hưu ở Giáo xứ Bùi Môn từ năm 2006, qua đời tại đó lúc 5 giờ 25 Chúa nhật ngày 12-7-2009, hưởng thọ 84 tuổi.
Cuộc đời của ngài là gương mẫu về đức vâng lời. Vâng lệnh Đức Tổng Giám mục Saigon, ngài đi làm tuyên uý quân đội với quân hàm Đại uý, rồi lên Thiếu tá làm Phó Tổng Tuyên uý, rồi lên Trung tá làm Tổng tuyên uý, cuối cùng lên đại tá, rồi từ chức Tổng tuyên uý, được cử làm tuyên uý cho Trung tấm huấn luyện sĩ quan tại Đà lạt, rồi giải ngũ về Bùi Môn.
Cha Thuấn đã giải ngũ từ lâu, đáng lẽ ra không phải đi học tập đợt đầu như những sĩ quan tại ngũ, nhưng ngài nghe lời bàn của một linh mục khác có thế giá bảo đi học tập chỉ có một tháng ở trường Tabert và ở Dòng Don Bosco Gò vấp. Không ngờ một tháng kéo mà kéo dài hơn 13 năm! Hầu hết các linh mục được cải tạo ở Sơn la Hà Tuyên. Công việc của Cha Thuấn là hằng ngày gánh nước (50 mươi gánh một ngày) từ giếng lên ngọn đồi cho anh em dùng, hoặc lấy nước vào thùng gánh, cho phân vào, quẫy đều rồi đưa đi tưới rau, hái rau cho anh em dùng. Cũng như anh em linh mục khác, lao động trong vui vẻ, chấp hành luật trại vì ý thức mình là linh mục khiến cán bộ phải nể. Dân vùng nầy nghèo nhưng họ thương “tù linh mục chính trị”, họ ném củ khoai lên đường cho, chẳng ai cúi xuống nhặt vì lệnh cấm mặc dầu bụng đang đói.
Rồi Cha Thuấn được đưa vào Thanh hoá, gia đình mới biết được tin, ra thăm ngài. Lần đầu, bà em ruột với người cháu dem 40 ký đi tiếp tế. Cán bộ cho nhận 20 ký, xin đưa cho cha Dư, họ không nhận. Cha Thuấn nói với bà em trước mặt cán bộ: “Về nói với người nhà cha Dư, cha Dư cần dược tiếp tế lắm”. Khi được tha về, cha Dư nói nếu không có mấy lần tiếp tế của người nhà chắc bị ốm chết”.
Đức Cha Phaolo Nguyễn văn Hoà, thời làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục, đã “báo cáo” lên Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II: “Không có linh mục nào đi học tập cải tạo bị vấp ngã”. Ngày Tết Nguyên đán, Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn văn Bình cũng đã đôi ba lần nói như sau: “Các cha đi học tập cải tạo sống, sống tốt quá, không biết khi về có sống tốt như vậy không?” Ai cũng biết Ngài nhắc nhở các linh mục đang ở nhà.
Khi cải tạo về, ba lần công an tới nói: “Linh mục thuộc diện được đi Mỹ”.
Ngài từ chối mặc dầu không biết tương lai mình thế nào (có được làm mục vụ không), lần thứ bốn, ngài trả lời: “Nếu Nhà nước bắt tôi di Mỹ, tôi sẽ đi, nhưng nếu cho tôi chọn, tôi chọn Việt nam…”.
Mấy năm sau, ngài được làm mục vụ, Đức Tổng Giám mục Phaolo Bình bổ nhiệm ngài làm chánh xứ giáo xứ Xây Dựng. Tuổi 65, khi đi nặng 75 ký, bây giờ còn 40 ký, về xứ, ngài bắt tay ngay cùng vời giáo dân và Hội Đồng Mục vụ “sửa sang” ngôi thánh đường, xin lại tầng một đang là trường mầm non Tuấn đức để làm hội trường, nơi sinh hoạt các đoàn thể, nơi tu học của các chủng sinh Bùi chu ở Bắc vào học, phát triển các hội đoàn (Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công giáo, Giới trẻ, Thiếu nhi, Ca đoàn Teresa). Để giáo dục đức tin cho thiếu nhi, ngài chuyển Kinh Thánh thành thơ ca (Tập Trường ca Cứu độ năm 1998 có 1206 câu, mỗi câu bốn hàng theo thơ lục bát):
Con đừng bắt chước người ta,
Toi công mất phúc trươc tòa hiển vinh,
Khi con cầu nguyện đọc kinh,
Vào phòng tĩnh lặng tâm tình cùng Cha. (câu 403)
Chúa Trời lượng cả bao la,
Muôn vàn ơn phúc đồ ra thắm nồng.
Hãy cầu nguyện vơi tâm hồn,
Đừng nhiều lời quá mà lòng lại xa. (câu 404)
Ngài còn sáng tác 917 bài thơ Tin Mừng làm thành tập thơ “Ca vang Lời Chúa”, tập Giáo lý (hỏi thưa), Sách Bài giảng được học giả Hoàng Xuân Việt trân trọng giới thiệu.
Như hình ngài làm việc quá sức, hai ba lần phải đưa ngài đi cấp cứu ở bệnh viện Thống Nhất và nghĩa tử của ngài đã xin Đức Tổng G.B Phạm Minh Mẫn cho ngài nghỉ hưu. Đức Tổng đã đánh gía rất cao công việc của của ngài phục vụ Chúa và địa phận.
Hưu ở nhà hưu Linh mục địa phận, như hình ngài khoẻ ra. Hôm về nhận xứ Xây dựng được hai ngày, tôi đến nhà hưu chào ngài. Ngài đưa tôi ra sân sau, chỉ cho bức phù điêu Chúa Giêsu vác lên vai con chiên lạc, chỉ cây hoa, chim cảnh. Ngài rất thích hình Chúa đi tìm chiên lạc, tìm được rồi thì vác lên vai đưa về. Tại nhà hưu, ăn cơm với các bạn linh mục già, ngài đưa thức ăn lên, rổi hạ xuống nói … Mời ngồi giải tội, ngài đi liền, Đám trẻ rất thích ngài ngồi toà vì ngài dễ tha thứ.
Ngài về hưu ở Giáo xứ Bùi Môn từ năm 2006, qua đời tại đó lúc 5 giờ 25 Chúa nhật ngày 12-7-2009, hưởng thọ 84 tuổi. Thánh Lễ An Táng đã được cử hành vào lúc 9 giờ sáng thứ Tư 15/07/09. Xác ngài được an nghỉ tại khuôn viên Thánh Đường Giáo Xứ Bùi Môn, Sàigòn.
Một cuộc đời chăn chiên, vâng phục và trải qua nhiều thử thách. Xin kết thúc bài nầy bằng lời của thánh Phalo: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi để sức mạnh của Chúa Kytô ở mãi trong tôi.Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kytô.Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh “.(2 Cor 12, 9b-10, bản dịch PVGK)
Và thánh Giacôbê nói “: Anh em hãy tự cho mình được chan chứ niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: Đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì “(Gc I,2-4, PVGK).
Cuộc đời của ngài là gương mẫu về đức vâng lời. Vâng lệnh Đức Tổng Giám mục Saigon, ngài đi làm tuyên uý quân đội với quân hàm Đại uý, rồi lên Thiếu tá làm Phó Tổng Tuyên uý, rồi lên Trung tá làm Tổng tuyên uý, cuối cùng lên đại tá, rồi từ chức Tổng tuyên uý, được cử làm tuyên uý cho Trung tấm huấn luyện sĩ quan tại Đà lạt, rồi giải ngũ về Bùi Môn.
Cha Thuấn đã giải ngũ từ lâu, đáng lẽ ra không phải đi học tập đợt đầu như những sĩ quan tại ngũ, nhưng ngài nghe lời bàn của một linh mục khác có thế giá bảo đi học tập chỉ có một tháng ở trường Tabert và ở Dòng Don Bosco Gò vấp. Không ngờ một tháng kéo mà kéo dài hơn 13 năm! Hầu hết các linh mục được cải tạo ở Sơn la Hà Tuyên. Công việc của Cha Thuấn là hằng ngày gánh nước (50 mươi gánh một ngày) từ giếng lên ngọn đồi cho anh em dùng, hoặc lấy nước vào thùng gánh, cho phân vào, quẫy đều rồi đưa đi tưới rau, hái rau cho anh em dùng. Cũng như anh em linh mục khác, lao động trong vui vẻ, chấp hành luật trại vì ý thức mình là linh mục khiến cán bộ phải nể. Dân vùng nầy nghèo nhưng họ thương “tù linh mục chính trị”, họ ném củ khoai lên đường cho, chẳng ai cúi xuống nhặt vì lệnh cấm mặc dầu bụng đang đói.
Rồi Cha Thuấn được đưa vào Thanh hoá, gia đình mới biết được tin, ra thăm ngài. Lần đầu, bà em ruột với người cháu dem 40 ký đi tiếp tế. Cán bộ cho nhận 20 ký, xin đưa cho cha Dư, họ không nhận. Cha Thuấn nói với bà em trước mặt cán bộ: “Về nói với người nhà cha Dư, cha Dư cần dược tiếp tế lắm”. Khi được tha về, cha Dư nói nếu không có mấy lần tiếp tế của người nhà chắc bị ốm chết”.
Đức Cha Phaolo Nguyễn văn Hoà, thời làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục, đã “báo cáo” lên Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II: “Không có linh mục nào đi học tập cải tạo bị vấp ngã”. Ngày Tết Nguyên đán, Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn văn Bình cũng đã đôi ba lần nói như sau: “Các cha đi học tập cải tạo sống, sống tốt quá, không biết khi về có sống tốt như vậy không?” Ai cũng biết Ngài nhắc nhở các linh mục đang ở nhà.
Khi cải tạo về, ba lần công an tới nói: “Linh mục thuộc diện được đi Mỹ”.
Ngài từ chối mặc dầu không biết tương lai mình thế nào (có được làm mục vụ không), lần thứ bốn, ngài trả lời: “Nếu Nhà nước bắt tôi di Mỹ, tôi sẽ đi, nhưng nếu cho tôi chọn, tôi chọn Việt nam…”.
Mấy năm sau, ngài được làm mục vụ, Đức Tổng Giám mục Phaolo Bình bổ nhiệm ngài làm chánh xứ giáo xứ Xây Dựng. Tuổi 65, khi đi nặng 75 ký, bây giờ còn 40 ký, về xứ, ngài bắt tay ngay cùng vời giáo dân và Hội Đồng Mục vụ “sửa sang” ngôi thánh đường, xin lại tầng một đang là trường mầm non Tuấn đức để làm hội trường, nơi sinh hoạt các đoàn thể, nơi tu học của các chủng sinh Bùi chu ở Bắc vào học, phát triển các hội đoàn (Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công giáo, Giới trẻ, Thiếu nhi, Ca đoàn Teresa). Để giáo dục đức tin cho thiếu nhi, ngài chuyển Kinh Thánh thành thơ ca (Tập Trường ca Cứu độ năm 1998 có 1206 câu, mỗi câu bốn hàng theo thơ lục bát):
Con đừng bắt chước người ta,
Toi công mất phúc trươc tòa hiển vinh,
Khi con cầu nguyện đọc kinh,
Vào phòng tĩnh lặng tâm tình cùng Cha. (câu 403)
Chúa Trời lượng cả bao la,
Muôn vàn ơn phúc đồ ra thắm nồng.
Hãy cầu nguyện vơi tâm hồn,
Đừng nhiều lời quá mà lòng lại xa. (câu 404)
Ngài còn sáng tác 917 bài thơ Tin Mừng làm thành tập thơ “Ca vang Lời Chúa”, tập Giáo lý (hỏi thưa), Sách Bài giảng được học giả Hoàng Xuân Việt trân trọng giới thiệu.
Như hình ngài làm việc quá sức, hai ba lần phải đưa ngài đi cấp cứu ở bệnh viện Thống Nhất và nghĩa tử của ngài đã xin Đức Tổng G.B Phạm Minh Mẫn cho ngài nghỉ hưu. Đức Tổng đã đánh gía rất cao công việc của của ngài phục vụ Chúa và địa phận.
Hưu ở nhà hưu Linh mục địa phận, như hình ngài khoẻ ra. Hôm về nhận xứ Xây dựng được hai ngày, tôi đến nhà hưu chào ngài. Ngài đưa tôi ra sân sau, chỉ cho bức phù điêu Chúa Giêsu vác lên vai con chiên lạc, chỉ cây hoa, chim cảnh. Ngài rất thích hình Chúa đi tìm chiên lạc, tìm được rồi thì vác lên vai đưa về. Tại nhà hưu, ăn cơm với các bạn linh mục già, ngài đưa thức ăn lên, rổi hạ xuống nói … Mời ngồi giải tội, ngài đi liền, Đám trẻ rất thích ngài ngồi toà vì ngài dễ tha thứ.
Ngài về hưu ở Giáo xứ Bùi Môn từ năm 2006, qua đời tại đó lúc 5 giờ 25 Chúa nhật ngày 12-7-2009, hưởng thọ 84 tuổi. Thánh Lễ An Táng đã được cử hành vào lúc 9 giờ sáng thứ Tư 15/07/09. Xác ngài được an nghỉ tại khuôn viên Thánh Đường Giáo Xứ Bùi Môn, Sàigòn.
Một cuộc đời chăn chiên, vâng phục và trải qua nhiều thử thách. Xin kết thúc bài nầy bằng lời của thánh Phalo: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi để sức mạnh của Chúa Kytô ở mãi trong tôi.Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kytô.Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh “.(2 Cor 12, 9b-10, bản dịch PVGK)
Và thánh Giacôbê nói “: Anh em hãy tự cho mình được chan chứ niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: Đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì “(Gc I,2-4, PVGK).