Giáo Hội Công Giáo Dấn Thân vào Uzbekistan
I. Tổng Quan Về Cộng Hòa Uzbekistan
Địa Lý
Uzbekistan nằm ở Trung Á, giữa sông Amu Darya và Syr Darya, Biển Aral và Núi Thiên Sơn. Nước này giáp ranh với Kazakhstan ở phía Bắc và Tây Bắc, Kyrgyzstan và Tajikistan ở phía Đông và Đông Nam, Turkmenistan ở phía Tây Nam, và A Phú Hãn ở phía Nam. Nước cộng hòa này cũng bao gôm nước Cộng Hòa Tự Trị Karakalpakstan với thủ đô là Nukus có dân số là 182.000 theo ước lượng năm 1992. Xứ này lớn hơn tiểu bang California chừng một phần mười. Tổ chức chính quyền theo chế độ cộng hòa; chế độ cai trị chủ tịch chuyên đoán.
Tên nước chính thức là Ozbekiston Respublikasi. Tổng thống là Islam A. Karimov (1990). Thủ tướng là Shavkat Mirziyayev (2003). Diện tích đất: 425.400 km2; toàn thể diện tích; 447,400 km2. Dân số ước lượng năm 2006 là 27.307.134 (tỷ lệ tăng trưởng: 1,7%); sinh suất: 26,4/1000; sinh suất trẻ sơ sinh: 70,0/1000; tuổi thọ: 64,6; mật độ trên dậm vuông: 158. Thành phố thủ đô lớn nhất: Tashkent, 3.457.500 (thủ đô), 2.155.400 (nội thị). Các thành phố lớn khác: Samarkand, 374.900; Andijon, 354.500.Đơn vị tiền tệ: Uzbekistani sum
Ngôn ngữ: Uzbek 74.3%, Nga 14.2%, Tajik 4.4%, khác 7.1%.Dân tộc: Uzbek 80%, Nga 5.5%, Tajik 5%, Kazak 3%, Karakalpak 2.5%, Tatar 1.5%, khác 2.5% (1996). Tôn giáo: Hồi giáo hầu hết Sunnis) 88%, Chính thống giáo phương Đông 9%. Tỷ lệ biết viết: 99% (2003).
Đất trồng: 11%. Nông nghiệp: bông, rau cỏ, trái cây, hạt, súc vật. Lao động: 14, 26 triệu; nông nghiệp 44%, kỹ nghệ 20%, dịch vụ 36% (1995). Công nghiệp: vải sợi, chế biến thực phẩm, đáng máy, luyện kim, dầu khí, vàng, khí thiên nhiên, hóa chất. Tài nguyên thiên nhiên: dầu khí, than đá, vàng, uranium, bac, đồng, chì và kẽm, tungsten, molybdenium.
Xuất : $5 tỉ f.o.b. (2005): bong 41.5%, vàng 9.6%, sản phẩm năng lượng 9.6%, phân khoáng chất, kim loại sắt, vải sợi, sản phẩm thực phẩm, xe hơi (1998). Nhập: $3.8 tỉ.o.b. (2005): máy móc trang thiết bị 49.8%, chế phẩm đồ ăn 16,4%, hóa chất, kim loại (1998). Các bạn hàng lớn: Nga, Trung Hoa, Thổ, Tajikistan, Kazakhstan, Bangladesh, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Đức, Ukraine (2004).
Trạm truyền hình: 4 (cộng thêm hai trạm tăng cường tiếp vận các chương trình Nga, Kazakh, Kyrgyz, và Tadzhik) (1997). Máy truyền hình: 6,4 triệu (1997). Nhà cung cấp mạnh toàn cầu (ISPs): 42 (2000). Những người sử dụng mạng toàn cầu: 100.000 (2002).
Đường thủy: 1.100 (1990). Cảng: Termiz (sông Amu Darya ). Sân bay: 273 (2002).
Những tranh chấp quốc tế
Nạn khô hạn nmiền kéo dài gây ra nhiều khó khăn về chia nuớc các quốc gia vùng sông Amu Darya. Xác định biên giới với Kazakhstan, bổ sung hoàn toàn với đường biên ngầm. Tranh chấp trầm trọng với Kyrgyzstan chung quanh các đất ăn vào hóc biên, vẫn tiến triển. Bắt đầu thương đàm với Tajikistan để xác định biên giới.
Lịch Sử
Lãnh thổ Uzbekistan xưa có lần là phần thuộc về đế quốc Ba Tư cổ đại và về sau bị Alexander Đại Đế chinh phục vào thế kỷ thứ IV trướ công nguyên. Trong thế kỷ VIII, các bộ tộc du mục người Turkic sống ở đó, trở lại Hồi giáo, vì lực lượng Ả Rập xâm lược thống trị khu vực này.Người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã chiếm đoạt vùng này từ tay người Turk Seljuk vào thế kỷ XIII, và về sau trở thành phần thuộc về đế quốc Tamerlane Đại Đế và những người kế vị ông mãi đến thế kỷ XVI.Người Uzbeks xâm lấn lãnh thổ này vào đầu thế kỷ XVI, và sống xen lẫn với các dân cư khác trong vùng. Đế quốc tan vỡ thành các tiểu quốc Uzbeks, các Hồi thị Khiva, Bukhara và Kokand.
Các thị quốc này kháng cự việc Nga bành trướng vào khu vực này, nhưng cuối cùng bị các lượng Nga chinh phục vào giữa thế kỹ XIX. Lãnh thổ trở thành Cộng Hòa Uzbek năm 1924 và Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghia Xô Viết Uzbekistan năm 1925.Dười chế độ cai trị Xô Viết, Uzbekistan tập trung vào việc phát triển bông nhờ tưới tiêu, cơ giới hóa và phân bón và thuộc diệt sâu hóa học, gây nhiều tai họa cho môi trường tụ nhiên.
Tháng 6/1990, Uzbekistan là nước Cộng hòa Trung Á đầu tiên tuyên bố luật lệ riêng của nó có chủ quyền tối cao trên các luật lệ của chính quyền Xô Viết trung ương. Uzbekistan đưọc hoàn toàn độc lập và gia nhập với mười cộng hòa Xô Viết khác trước kia ngày 21/12 cùng năm, trong Khối Thịng Vương Chung Của Các Quốc Gia Độc Lập.
Vozrozhdeniye, từng là một hòn đảo trong Biển Aral dung àm một nơi bí mật thử nghiệm các vũ khí sinh học trong thời đại Xô Viết. Năm 1988, người Xô Viết mưu tính chôn lấp bằng chứng hiển nhiên trên đảo, một di sản kinh sợ mà Uzbekistan kế thừa, khi được độc lập. Các nhà khoa học Hoa Kỳ đã quả quyết là hải đảo có chứa chất gây bệnh than (anthrax) sống và nhiều độc tố chết người khác.
Tổng thống Karimov, một lãnh tụ Đảng Cộng sản trước kia, là một tay chuyên quyền tàn bạo đàn áp các chính đảng và tự do tôn giáo và duy trì nền cai trị bằng quả đấm sắt. Năm 1999, sau một vụ bắt cóc xe buýt, ông tuyến bố: “Tôi sẵn sàng lóc xương đầu 200 người, để tế sống họ, ngõ hầu cứu vãn nền hòa bình và yên tĩnh trong nước cộng hòa này”. Hàng nhiều nghìn tù nhân chính trị và tôn giáo của đất nước phải chịu những điều kiện kinh sợ và hành hạ khủng khiếp, kể cả bị luộc sôi sống.
Năm 1999, đất nước này chiến đấu chống lại các nhóm Hồi giáo hiếu chiến chịu còng lưng lật đổ chính quyền trần thế.Cuộc chiến đấu chống lại Phong Trào Hồi giáo Uzbekistan (IMU) tiếp diễn trong nhiều năm.
Năm 2001, Uzbekistan cung ứng cho Hoa Kỳ và Anh căn cứ chiến đấu chống lại các lực lượng Taliban và al Qaeda tại nước láng giếng A Phú Hãn, và trở thành một người cùng Hoa Kỳ, gánh phần chính trong miền đế chiến đấu chống khủn bố.Karimov liên kết chiến đấu riêng của nước ông, chống lại phe đối lập Hồi giáo đang chống đối thế giới, đánh lại khủng bố. Ông cũng khai thác mối đe dọa thực sự của chủ nghĩa duy Hồi giáo (Islamicism) bằng cách dán nhãn hiệu cho tất cả những người chống đối ông, là phe quá khích Hồi giáo. Là một người cùng chia sẻ chiến lược, Hoa Kỳ đã miễn cưỡng phải lgiữ lập trưởng vững chắc đối với thành tích nhân quyển phiền muộn của ông.
Theo báo cáo trên New York Times tháng 5/2005, Hoa Kỳ đã gửi cho Uzbekistan những ván luợn lén lút của kẻ khủng bố bị cáo giác là thuộc về chương trình “đầu hàng” đầy tranh cãi, việc giái giao các tù nhân sang các nước lạm dụng các chiến thuật thầm vần bị ngăn cấm tại Hoa Kỳ.
Ngày 13/5/2005, những người biểu tình chống chính quyền không vũ trang trong thành phố Andijan, đã bị giết chết trong mot vụ trừng trị thẳng về quân sự. Số thiệt hại nhân mạng vẫn còn được tranh cãi, nhưng có lẽ lên nhiều tới 1.000 người. Trước đó nữa, một số người phản đối đã vũ bão ùa vào một nhà từ và thả ra chừng 22.000 tù nhân, để phản đối điều mà họ thấy là vụ án 23 thương nhân bi lừ đảo. Chính quyền kêu họ là các người khủng bố Hồi giáo. Các người phản đối nhấn mạnh rằng nhóm 23 kia là các lãnh tụ dân sự chống chính phủ. Chính quyền coi họ là một đe dọa cho uy quyền của mình.
Tháng 7/2005, Tổng thống Karimov ra lệnh cho giới quân sự Mỹ đóng cửa căn cứ không lực tại Uzbekistan, sau khi Hoa Kỳ kêu gọi điều tra về vụ sát hại, và ủng hộ không vận các người tị nạn Uzbek chạy thoát bạo lực. Căn cứ ấy phải đóng cửa bốn thang sau đó, và lực lượng Hoa Kỳ phải di chuyển sang Kyrgyzstan.
II. Giáo Hội Công Giáo Uzbekistan
Vài điểm mốc lịch sử của Giáo Hội
1875 Người công giáo có đòi hỏi đầu tiên chính quyền Turkistan (Trung Á hiện nay) là xây một nhà thờ Công giáo.
1884 Ngôi nhà nguyện đầu tiên được xây dựng cho những người phục vụ trong các lực lượng võ trang. Nhà thờ đó do các tù nhân xây, hầu hết là người Ba Lan.
1902 Việc bổ nhiệm cha Justin Bonaventure Pranaitis (giáo sư của Viện Hàn Lâm Công giáo Rôma của đế quốc tại St. Peterburg làm cha phó Turkistan.
1905-07 Xây dựng nhà nguyện xi măng tạm thời.
1912 Xây dựng nhà thờ Thánh Tâm bắt đầu.
1917 cha Justin Bonaventure Pranaitis chết.Việc xây dựng nhà thờ bị ngưng trệ và vẫn không hoàn thành.
1925 Chính quyền Cộng Sản quyết định đóng cửa nhà thờ Công giáo.
1981 Chính quyền tuyên bố Nhà Thờ Thánh Tâm là một chứng liệu lịch sử.
1987 Giáo xứ Đức Mẹ Maria Diễm Phúc tại Ferghana trở thành giáo xứ đâu tiên được đăng ký tại Uzbekistan.
1990 Giáo xứ Thánh Tâm tại Tashkent được đăng ký với chính quyền.
1993 Việc phục hồi nhà thờ Thánh Tâm bắt đầu.
1995 Giáo xứ Thánh Gioan tẩy giả tại Samarkand được đăng ký.
1997 Thiết lập phái bộ truyền giáo Sui Juris (tự trị) tại Uzbekistan. Nhà thờ thánh Gioan Tẩy Giả tại Samarqand đươc trả cho các tín đồ.
2000 Nhà thờ Thánh Tâm tại Tashkent được thánh hiến. Chiếc đàn phong cầm ống trong nhà thờ Thánh Tâm là cái lớn hơn trong hai chiếc ở Tashkent, do các người Công giáo của Tổng Giáo Phận Cologne bên Đức tặng. Nhiều người đến nhà thờ để dự nghe những buối hòa nhạc phong cầm.
2001 Giáo xứ Đức Mẹ Maria Diễm Phúc, Mẹ Thương Xót tại Urgench được đăng ký.
2002 Giáo sứ Thánh Anrê Tông Đồ tại Boukhara được đặng ký với nhà nước.
2005 Thành lập Giám Quản Tông Tòa Uzbekistan và bổ nhiệm Giám mục Jerzy Maculewicz làm Giám Quản.
Caritas Uzbekistan
Caritas Uzbekistan cung ứng yểm trợ xã hội cho những người không có đặc quyền và những nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội qua các xứ đạo, khi các nhà hữu trách không cho đang ký.
Các nữ tu Truyền Giáo Bác Ái (MC) điều hành phái bộ truyền giáo tại Tashkent, thủ đô Uzbek. Ngôi nhà này đồng thời là ngôi nhà miền cho các nữ tu MC tại Uzbekistan, Afghanistan, Tajikistan, Pakistan và Kazakhstan. Sáu lần mỗi tuần, các nữ tu MC cung ứng cho người ăn xin và những người nghèo những bữa ăn nóng tại nhà truyền giáo của họ. Họ cũng chăm sóc khảng 40 gia đình nghèo, chủ yếu những người già cô đơn, cũng như các cùng cảnh ngộ trong nhà tù thành phố và các bệnh viện thị xã.
Tại Giáo xứ Đức Mẹ Đông Trinh Diễm Phúc tại Ferghana, có một trung tâm thanh niên cho trẻ em đường phố. Mỗi ngày có đến 70 trẻ em ăn bữa cơm trưa nóng, một số ở lại học giáo lý, cũng như tiếng Anh, máy vi tính và các lớp nhạc. Quần áo và thuốc men miễn phí cũng dành sẵn cho họ.
Mạng toàn cầu chính thức của Ban Giám Quản tông tòa là http://www.agnuz.info/, cung ứng tin tức và các dữ liệu và Giáo Hội địa phương và giáo hội toàn cầu bằng các tài liệu tiếng Nga cũng như của Đức Giáo Hoàng, và các bài viết thần học.
Giáo Phận Giám quản tông tòa có 3.000 người Công giáo đã rửa tội, gồm 0,01% của toàn dân số là 27.3 triệu. Trong số 3.000 người công giáo đã rửa tội, chí có 500 người tham dự nhà thờ đều đặn. Giáo Phận Giám Quản tong tòa có 5 giáo xứ. Năm 2005, giáo hội ghi nhớ 21 trường hợp rửa tội.
Người trong giáo phận: Người Công giáo đã rửa tội: 3.000 hay 0.01%; thành viên các giáo phái Kitô khác: 9% (hầu hết là Chính thống Nga); tín đồ các tôn giáo không Kitô: 88% (Hồi giáo).
Giám mục Jerzy Maculewicz, OFM Conv, sinh ngày 05/5/1955, tại Daszew, Ukraine, lúc đó thuộc về Liên Xô trước kia. Năm 1957, ngài cùng với cha me và anh lớn đi chuyển sang Ba Lan. Năm 1989, ngài gia nhập Dòng Phanxicô tỉnh đòng Krakov.Ngài hoàn tất nhà tập tại Kalwaria Paclawska,và thi hành chức vụ đầu tiên ngày 25/9/1990 và khấn trọng tháng 10 năm đó.
Tháng 2/1994, ngài bắt đầu học thần học tại Krakov và hoàn tất phân khoa thần học Thánh Bonaventura ở Rôma, có bằng Cử Nhân về Kitô Học. Ngài thụ phong linh mục ngày 22/6/1996 tại Krakov. Từ 1997 đến 2000, ngài làm việc tại Trung Tâm Thánh Maximilian Kolbe tại Harmeze, gần Auschwitz, và trong hai năm ngài dậy Thánh Mẫu học tại Đại chủng viện Krakow. Theo Chương của Tỉnh Dòng năm 2000, ngài được chọn làm đại diện chính tỉnh dòng và thư ký tình dòng, và theo Chương Tổng Quát năm 2001, ngài được chọn làm phụ tá Tổng Quyền của Dòng vùng Đông Âu. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Giám Quản Tông Tòa Uzbekistan ngày 1/4/2005.
Địa chỉ: Catholic Church, Musakhanov street 80/1, Tashkent, Uzbekistan, 700047
Đt: (998) 371-133-70-35
Fax: (998) 371-133-70-25
Email: ap.adm@agnuz.info
Tổng Đại Diện: Cha Stanislav Kava, OFM Conv
Địa chỉ: Catholic Church, Musakhanov street 80/1, Tashkent, Uzbekistan, 700047
Đt: (998) 371-133-70-35
Fax: (998) 371-133-70-35, 371-133-70-25
Email: o.stanislav@agnuz.info
Tài Liệu: http://www.infoplease.com/ipa/A0108128.html, http://www.ucanews.com/ (Cập nhật cuối cùng ngày 30/8/2006)
I. Tổng Quan Về Cộng Hòa Uzbekistan
Địa Lý
Uzbekistan nằm ở Trung Á, giữa sông Amu Darya và Syr Darya, Biển Aral và Núi Thiên Sơn. Nước này giáp ranh với Kazakhstan ở phía Bắc và Tây Bắc, Kyrgyzstan và Tajikistan ở phía Đông và Đông Nam, Turkmenistan ở phía Tây Nam, và A Phú Hãn ở phía Nam. Nước cộng hòa này cũng bao gôm nước Cộng Hòa Tự Trị Karakalpakstan với thủ đô là Nukus có dân số là 182.000 theo ước lượng năm 1992. Xứ này lớn hơn tiểu bang California chừng một phần mười. Tổ chức chính quyền theo chế độ cộng hòa; chế độ cai trị chủ tịch chuyên đoán.
Tên nước chính thức là Ozbekiston Respublikasi. Tổng thống là Islam A. Karimov (1990). Thủ tướng là Shavkat Mirziyayev (2003). Diện tích đất: 425.400 km2; toàn thể diện tích; 447,400 km2. Dân số ước lượng năm 2006 là 27.307.134 (tỷ lệ tăng trưởng: 1,7%); sinh suất: 26,4/1000; sinh suất trẻ sơ sinh: 70,0/1000; tuổi thọ: 64,6; mật độ trên dậm vuông: 158. Thành phố thủ đô lớn nhất: Tashkent, 3.457.500 (thủ đô), 2.155.400 (nội thị). Các thành phố lớn khác: Samarkand, 374.900; Andijon, 354.500.Đơn vị tiền tệ: Uzbekistani sum
Ngôn ngữ: Uzbek 74.3%, Nga 14.2%, Tajik 4.4%, khác 7.1%.Dân tộc: Uzbek 80%, Nga 5.5%, Tajik 5%, Kazak 3%, Karakalpak 2.5%, Tatar 1.5%, khác 2.5% (1996). Tôn giáo: Hồi giáo hầu hết Sunnis) 88%, Chính thống giáo phương Đông 9%. Tỷ lệ biết viết: 99% (2003).
Đất trồng: 11%. Nông nghiệp: bông, rau cỏ, trái cây, hạt, súc vật. Lao động: 14, 26 triệu; nông nghiệp 44%, kỹ nghệ 20%, dịch vụ 36% (1995). Công nghiệp: vải sợi, chế biến thực phẩm, đáng máy, luyện kim, dầu khí, vàng, khí thiên nhiên, hóa chất. Tài nguyên thiên nhiên: dầu khí, than đá, vàng, uranium, bac, đồng, chì và kẽm, tungsten, molybdenium.
Xuất : $5 tỉ f.o.b. (2005): bong 41.5%, vàng 9.6%, sản phẩm năng lượng 9.6%, phân khoáng chất, kim loại sắt, vải sợi, sản phẩm thực phẩm, xe hơi (1998). Nhập: $3.8 tỉ.o.b. (2005): máy móc trang thiết bị 49.8%, chế phẩm đồ ăn 16,4%, hóa chất, kim loại (1998). Các bạn hàng lớn: Nga, Trung Hoa, Thổ, Tajikistan, Kazakhstan, Bangladesh, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Đức, Ukraine (2004).
Trạm truyền hình: 4 (cộng thêm hai trạm tăng cường tiếp vận các chương trình Nga, Kazakh, Kyrgyz, và Tadzhik) (1997). Máy truyền hình: 6,4 triệu (1997). Nhà cung cấp mạnh toàn cầu (ISPs): 42 (2000). Những người sử dụng mạng toàn cầu: 100.000 (2002).
Đường thủy: 1.100 (1990). Cảng: Termiz (sông Amu Darya ). Sân bay: 273 (2002).
Những tranh chấp quốc tế
Nạn khô hạn nmiền kéo dài gây ra nhiều khó khăn về chia nuớc các quốc gia vùng sông Amu Darya. Xác định biên giới với Kazakhstan, bổ sung hoàn toàn với đường biên ngầm. Tranh chấp trầm trọng với Kyrgyzstan chung quanh các đất ăn vào hóc biên, vẫn tiến triển. Bắt đầu thương đàm với Tajikistan để xác định biên giới.
Lịch Sử
Lãnh thổ Uzbekistan xưa có lần là phần thuộc về đế quốc Ba Tư cổ đại và về sau bị Alexander Đại Đế chinh phục vào thế kỷ thứ IV trướ công nguyên. Trong thế kỷ VIII, các bộ tộc du mục người Turkic sống ở đó, trở lại Hồi giáo, vì lực lượng Ả Rập xâm lược thống trị khu vực này.Người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn đã chiếm đoạt vùng này từ tay người Turk Seljuk vào thế kỷ XIII, và về sau trở thành phần thuộc về đế quốc Tamerlane Đại Đế và những người kế vị ông mãi đến thế kỷ XVI.Người Uzbeks xâm lấn lãnh thổ này vào đầu thế kỷ XVI, và sống xen lẫn với các dân cư khác trong vùng. Đế quốc tan vỡ thành các tiểu quốc Uzbeks, các Hồi thị Khiva, Bukhara và Kokand.
Các thị quốc này kháng cự việc Nga bành trướng vào khu vực này, nhưng cuối cùng bị các lượng Nga chinh phục vào giữa thế kỹ XIX. Lãnh thổ trở thành Cộng Hòa Uzbek năm 1924 và Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghia Xô Viết Uzbekistan năm 1925.Dười chế độ cai trị Xô Viết, Uzbekistan tập trung vào việc phát triển bông nhờ tưới tiêu, cơ giới hóa và phân bón và thuộc diệt sâu hóa học, gây nhiều tai họa cho môi trường tụ nhiên.
Tháng 6/1990, Uzbekistan là nước Cộng hòa Trung Á đầu tiên tuyên bố luật lệ riêng của nó có chủ quyền tối cao trên các luật lệ của chính quyền Xô Viết trung ương. Uzbekistan đưọc hoàn toàn độc lập và gia nhập với mười cộng hòa Xô Viết khác trước kia ngày 21/12 cùng năm, trong Khối Thịng Vương Chung Của Các Quốc Gia Độc Lập.
Vozrozhdeniye, từng là một hòn đảo trong Biển Aral dung àm một nơi bí mật thử nghiệm các vũ khí sinh học trong thời đại Xô Viết. Năm 1988, người Xô Viết mưu tính chôn lấp bằng chứng hiển nhiên trên đảo, một di sản kinh sợ mà Uzbekistan kế thừa, khi được độc lập. Các nhà khoa học Hoa Kỳ đã quả quyết là hải đảo có chứa chất gây bệnh than (anthrax) sống và nhiều độc tố chết người khác.
Tổng thống Karimov, một lãnh tụ Đảng Cộng sản trước kia, là một tay chuyên quyền tàn bạo đàn áp các chính đảng và tự do tôn giáo và duy trì nền cai trị bằng quả đấm sắt. Năm 1999, sau một vụ bắt cóc xe buýt, ông tuyến bố: “Tôi sẵn sàng lóc xương đầu 200 người, để tế sống họ, ngõ hầu cứu vãn nền hòa bình và yên tĩnh trong nước cộng hòa này”. Hàng nhiều nghìn tù nhân chính trị và tôn giáo của đất nước phải chịu những điều kiện kinh sợ và hành hạ khủng khiếp, kể cả bị luộc sôi sống.
Năm 1999, đất nước này chiến đấu chống lại các nhóm Hồi giáo hiếu chiến chịu còng lưng lật đổ chính quyền trần thế.Cuộc chiến đấu chống lại Phong Trào Hồi giáo Uzbekistan (IMU) tiếp diễn trong nhiều năm.
Năm 2001, Uzbekistan cung ứng cho Hoa Kỳ và Anh căn cứ chiến đấu chống lại các lực lượng Taliban và al Qaeda tại nước láng giếng A Phú Hãn, và trở thành một người cùng Hoa Kỳ, gánh phần chính trong miền đế chiến đấu chống khủn bố.Karimov liên kết chiến đấu riêng của nước ông, chống lại phe đối lập Hồi giáo đang chống đối thế giới, đánh lại khủng bố. Ông cũng khai thác mối đe dọa thực sự của chủ nghĩa duy Hồi giáo (Islamicism) bằng cách dán nhãn hiệu cho tất cả những người chống đối ông, là phe quá khích Hồi giáo. Là một người cùng chia sẻ chiến lược, Hoa Kỳ đã miễn cưỡng phải lgiữ lập trưởng vững chắc đối với thành tích nhân quyển phiền muộn của ông.
Theo báo cáo trên New York Times tháng 5/2005, Hoa Kỳ đã gửi cho Uzbekistan những ván luợn lén lút của kẻ khủng bố bị cáo giác là thuộc về chương trình “đầu hàng” đầy tranh cãi, việc giái giao các tù nhân sang các nước lạm dụng các chiến thuật thầm vần bị ngăn cấm tại Hoa Kỳ.
Ngày 13/5/2005, những người biểu tình chống chính quyền không vũ trang trong thành phố Andijan, đã bị giết chết trong mot vụ trừng trị thẳng về quân sự. Số thiệt hại nhân mạng vẫn còn được tranh cãi, nhưng có lẽ lên nhiều tới 1.000 người. Trước đó nữa, một số người phản đối đã vũ bão ùa vào một nhà từ và thả ra chừng 22.000 tù nhân, để phản đối điều mà họ thấy là vụ án 23 thương nhân bi lừ đảo. Chính quyền kêu họ là các người khủng bố Hồi giáo. Các người phản đối nhấn mạnh rằng nhóm 23 kia là các lãnh tụ dân sự chống chính phủ. Chính quyền coi họ là một đe dọa cho uy quyền của mình.
Tháng 7/2005, Tổng thống Karimov ra lệnh cho giới quân sự Mỹ đóng cửa căn cứ không lực tại Uzbekistan, sau khi Hoa Kỳ kêu gọi điều tra về vụ sát hại, và ủng hộ không vận các người tị nạn Uzbek chạy thoát bạo lực. Căn cứ ấy phải đóng cửa bốn thang sau đó, và lực lượng Hoa Kỳ phải di chuyển sang Kyrgyzstan.
II. Giáo Hội Công Giáo Uzbekistan
Vài điểm mốc lịch sử của Giáo Hội
1875 Người công giáo có đòi hỏi đầu tiên chính quyền Turkistan (Trung Á hiện nay) là xây một nhà thờ Công giáo.
1884 Ngôi nhà nguyện đầu tiên được xây dựng cho những người phục vụ trong các lực lượng võ trang. Nhà thờ đó do các tù nhân xây, hầu hết là người Ba Lan.
1902 Việc bổ nhiệm cha Justin Bonaventure Pranaitis (giáo sư của Viện Hàn Lâm Công giáo Rôma của đế quốc tại St. Peterburg làm cha phó Turkistan.
1905-07 Xây dựng nhà nguyện xi măng tạm thời.
1912 Xây dựng nhà thờ Thánh Tâm bắt đầu.
1917 cha Justin Bonaventure Pranaitis chết.Việc xây dựng nhà thờ bị ngưng trệ và vẫn không hoàn thành.
1925 Chính quyền Cộng Sản quyết định đóng cửa nhà thờ Công giáo.
1981 Chính quyền tuyên bố Nhà Thờ Thánh Tâm là một chứng liệu lịch sử.
1987 Giáo xứ Đức Mẹ Maria Diễm Phúc tại Ferghana trở thành giáo xứ đâu tiên được đăng ký tại Uzbekistan.
1990 Giáo xứ Thánh Tâm tại Tashkent được đăng ký với chính quyền.
1993 Việc phục hồi nhà thờ Thánh Tâm bắt đầu.
1995 Giáo xứ Thánh Gioan tẩy giả tại Samarkand được đăng ký.
1997 Thiết lập phái bộ truyền giáo Sui Juris (tự trị) tại Uzbekistan. Nhà thờ thánh Gioan Tẩy Giả tại Samarqand đươc trả cho các tín đồ.
2000 Nhà thờ Thánh Tâm tại Tashkent được thánh hiến. Chiếc đàn phong cầm ống trong nhà thờ Thánh Tâm là cái lớn hơn trong hai chiếc ở Tashkent, do các người Công giáo của Tổng Giáo Phận Cologne bên Đức tặng. Nhiều người đến nhà thờ để dự nghe những buối hòa nhạc phong cầm.
2001 Giáo xứ Đức Mẹ Maria Diễm Phúc, Mẹ Thương Xót tại Urgench được đăng ký.
2002 Giáo sứ Thánh Anrê Tông Đồ tại Boukhara được đặng ký với nhà nước.
2005 Thành lập Giám Quản Tông Tòa Uzbekistan và bổ nhiệm Giám mục Jerzy Maculewicz làm Giám Quản.
Caritas Uzbekistan
Caritas Uzbekistan cung ứng yểm trợ xã hội cho những người không có đặc quyền và những nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội qua các xứ đạo, khi các nhà hữu trách không cho đang ký.
Các nữ tu Truyền Giáo Bác Ái (MC) điều hành phái bộ truyền giáo tại Tashkent, thủ đô Uzbek. Ngôi nhà này đồng thời là ngôi nhà miền cho các nữ tu MC tại Uzbekistan, Afghanistan, Tajikistan, Pakistan và Kazakhstan. Sáu lần mỗi tuần, các nữ tu MC cung ứng cho người ăn xin và những người nghèo những bữa ăn nóng tại nhà truyền giáo của họ. Họ cũng chăm sóc khảng 40 gia đình nghèo, chủ yếu những người già cô đơn, cũng như các cùng cảnh ngộ trong nhà tù thành phố và các bệnh viện thị xã.
Tại Giáo xứ Đức Mẹ Đông Trinh Diễm Phúc tại Ferghana, có một trung tâm thanh niên cho trẻ em đường phố. Mỗi ngày có đến 70 trẻ em ăn bữa cơm trưa nóng, một số ở lại học giáo lý, cũng như tiếng Anh, máy vi tính và các lớp nhạc. Quần áo và thuốc men miễn phí cũng dành sẵn cho họ.
Mạng toàn cầu chính thức của Ban Giám Quản tông tòa là http://www.agnuz.info/, cung ứng tin tức và các dữ liệu và Giáo Hội địa phương và giáo hội toàn cầu bằng các tài liệu tiếng Nga cũng như của Đức Giáo Hoàng, và các bài viết thần học.
Giáo Phận Giám quản tông tòa có 3.000 người Công giáo đã rửa tội, gồm 0,01% của toàn dân số là 27.3 triệu. Trong số 3.000 người công giáo đã rửa tội, chí có 500 người tham dự nhà thờ đều đặn. Giáo Phận Giám Quản tong tòa có 5 giáo xứ. Năm 2005, giáo hội ghi nhớ 21 trường hợp rửa tội.
Người trong giáo phận: Người Công giáo đã rửa tội: 3.000 hay 0.01%; thành viên các giáo phái Kitô khác: 9% (hầu hết là Chính thống Nga); tín đồ các tôn giáo không Kitô: 88% (Hồi giáo).
Giám mục Jerzy Maculewicz, OFM Conv, sinh ngày 05/5/1955, tại Daszew, Ukraine, lúc đó thuộc về Liên Xô trước kia. Năm 1957, ngài cùng với cha me và anh lớn đi chuyển sang Ba Lan. Năm 1989, ngài gia nhập Dòng Phanxicô tỉnh đòng Krakov.Ngài hoàn tất nhà tập tại Kalwaria Paclawska,và thi hành chức vụ đầu tiên ngày 25/9/1990 và khấn trọng tháng 10 năm đó.
Tháng 2/1994, ngài bắt đầu học thần học tại Krakov và hoàn tất phân khoa thần học Thánh Bonaventura ở Rôma, có bằng Cử Nhân về Kitô Học. Ngài thụ phong linh mục ngày 22/6/1996 tại Krakov. Từ 1997 đến 2000, ngài làm việc tại Trung Tâm Thánh Maximilian Kolbe tại Harmeze, gần Auschwitz, và trong hai năm ngài dậy Thánh Mẫu học tại Đại chủng viện Krakow. Theo Chương của Tỉnh Dòng năm 2000, ngài được chọn làm đại diện chính tỉnh dòng và thư ký tình dòng, và theo Chương Tổng Quát năm 2001, ngài được chọn làm phụ tá Tổng Quyền của Dòng vùng Đông Âu. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Giám Quản Tông Tòa Uzbekistan ngày 1/4/2005.
Địa chỉ: Catholic Church, Musakhanov street 80/1, Tashkent, Uzbekistan, 700047
Đt: (998) 371-133-70-35
Fax: (998) 371-133-70-25
Email: ap.adm@agnuz.info
Tổng Đại Diện: Cha Stanislav Kava, OFM Conv
Địa chỉ: Catholic Church, Musakhanov street 80/1, Tashkent, Uzbekistan, 700047
Đt: (998) 371-133-70-35
Fax: (998) 371-133-70-35, 371-133-70-25
Email: o.stanislav@agnuz.info
Tài Liệu: http://www.infoplease.com/ipa/A0108128.html, http://www.ucanews.com/ (Cập nhật cuối cùng ngày 30/8/2006)