Bên cạnh rất nhiều tai ương mà đại dịch Covid đang gây ra cho nhân loại, từ quan điểm của đức tin đã có ít nhất một tác động tích cực. Đại dịch làm cho chúng ta ý thức được nhu cầu của chúng ta đối với Bí tích Thánh Thể và sự trống rỗng mà sự thiếu vắng Bí tích Thánh Thể tạo ra; đại dịch đã giúp chúng ta không coi Bí Tích Thánh Thể là điều hiển nhiên.
Một số Giáo Hội địa phương và quốc gia đã quyết định dành năm hiện tại cho một bài giáo lý đặc biệt về Bí tích Thánh Thể, vì mong muốn có một sự phục hưng về Bí tích Thánh Thể trong Giáo Hội Công Giáo. Theo Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, đó là một quyết định đúng lúc và là một tấm gương để noi theo, khi đề cập đến một số khía cạnh có lẽ ít được xem xét về Bí Tích Thánh Thể. Do đó, ngài dành những suy tư của Mùa Chay 2022 để trình bày về mầu nhiệm Thánh Thể để nhấn mạnh rằng Bí tích Thánh Thể bảo đảm với chúng ta rằng Chúa Giêsu ở với chúng ta, không chỉ về mặt ý định mà thôi, nhưng là “thực sự” trong cái thế giới dường như có thể tuột khỏi tay chúng ta bất cứ lúc nào.
Trong ba bài tĩnh tâm trước, Đức Hồng Y đã trình bày phần thứ nhất Phụng vụ Lời Chúa, phần thứ Hai là Phụng Vụ Thánh Thể, và phần thứ Ba là Hiệp Thông Thánh Thể, phần thứ Tư là “Sự Hiện Diện Đích Thực trong bí tích Thánh Thể”.
Lúc 9g sáng ngày thứ Sáu 8 tháng Tư, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, đã có bài thuyết giảng thứ năm cho Mùa Chay năm 2022 tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục ở Vatican. Chủ đề của bài giảng này là “Thầy đã làm gương cho anh em”
Lý do sâu xa là trong tất cả những gì liên quan đến Lễ Phục sinh và Thánh Thể, Gioan muốn nhấn mạnh sự kiện hơn là bí tích, nghĩa là ý nghĩa hơn là dấu chỉ của nó. Đối với vị Thánh Sử, Lễ Vượt Qua mới không bắt đầu quá nhiều trong Nhà Tiệc Ly, khi nghi thức chúng ta tưởng nhớ được thiết lập (chúng ta biết rằng Bữa Tiệc Ly của Gioan không phải là “bữa tối Phục Sinh”); đúng hơn, Lễ Vượt Qua mới bắt đầu trên thập tự giá khi sự kiện chúng ta tưởng nhớ được ứng nghiệm. Chính lúc đó diễn ra sự chuyển hướng từ Lễ Vượt Qua cũ sang Lễ Vượt Qua mới. Trên thập tự giá “họ đã không đánh gãy chân Ngài”, để thực hiện những gì đã được đề cập về con chiên vượt qua trong Xuất Hành, “không một khúc xương nào sẽ bị gãy.” (Ga 19: 33-36; Xh 12:46).
Ý nghĩa của việc rửa chân
Điều quan trọng là phải hiểu ý nghĩa mà Gioan gắn với việc rửa chân. Tông Hiến gần đây Praedicate Evangelium đề cập đến việc rửa chân trong Lời mở đầu, như một biểu tượng của sự phục vụ phải đặc trưng cho mọi công việc của Giáo triều Rôma. Nó giúp chúng ta hiểu làm thế nào Thánh Thể có thể được chuyển vào cuộc sống và do đó chúng ta “noi gương trong cuộc sống những gì chúng ta cử hành trên bàn thờ”. Chúng ta đang đối mặt với một trong những tình tiết đó (một đoạn khác là đoạn Chúa Giêsu chịu lưỡi đòng đâm thâm qua), trong đó Thánh Sử nói rõ rằng có một mầu nhiệm bên dưới vượt ra ngoài sự thật ngẫu nhiên mà bản thân nó có vẻ không đáng kể.
Chúa Giêsu nói, “Thầy đã làm gương cho anh em”. Chúa Giêsu đã cho chúng ta một tấm gương về điều gì? Làm thế nào để rửa chân cho anh em mỗi khi chúng ta ngồi vào bàn ăn? Chắc chắn không chỉ có điều này! Câu trả lời có trong Tin Mừng: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10:44-45).
Trong Tin Mừng Luca, chính xác trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly, có một lời của Chúa Giêsu dường như đã được phát âm khi kết thúc việc rửa chân: “Giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22:27). Theo Thánh Sử, Chúa Giêsu nói những lời này vì giữa các môn đệ đã nổ ra cuộc thảo luận về việc ai trong số họ có thể được coi là trọng nhất (x. Lc 22: 24). Có lẽ chính hoàn cảnh này đã thôi thúc Chúa Giêsu thực hiện việc rửa chân, như một kiểu dụ ngôn trong hành động. Trong khi các môn đệ đang bận rộn thảo luận sôi nổi với nhau, thì Ngài lặng lẽ đứng dậy khỏi bàn, tìm một chậu nước và một chiếc khăn, sau đó quay lại quỳ trước mặt Phêrô để rửa chân cho ông, dễ hiểu là Chúa Giêsu khiến ông Phêrô vô cùng bối rối: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13: 6).
Khi rửa chân, Chúa Giêsu muốn tóm tắt toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời Ngài, để điều đó còn đọng lại trong trí nhớ của các môn đệ: “Việc Thầy làm bây giờ các anh không hiểu, nhưng sau các anh sẽ hiểu” ( Ga 13: 7). Cử chỉ đó cho chúng ta biết rằng toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu, từ đầu đến cuối, là rửa chân, tức là phục vụ nhân loại.
Trước khi nhập thể, đã có pre-existence, nghĩa là sự hiện hữu từ trước, sau khi nhập thể có pro-existence, nghĩa là sự hiện hữu có lợi cho người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta ví dụ về một cuộc sống dành cho người khác, một cuộc sống trở nên “bánh bẻ ra cho thế gian”. Với những lời: “Anh em hãy làm như Thầy đã làm”, Chúa Giêsu thiết lập diakonía, tức là sự phục vụ, nâng nó lên thành luật cơ bản, hay đúng hơn, thành lối sống và kiểu mẫu của mọi mối quan hệ trong Giáo hội. Chúa Giêsu đang nói về việc rửa chân như thể cùng một cách khi Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể: “Hãy làm điều này để nhớ đến Thầy!”.
Một nhận xét cá nhân ngắn trước khi tiếp tục. Một Giáo phụ xa xưa, chân phước Isaác thành Ninivê, đã đưa ra lời khuyên này cho những ai bị buộc phải nói về những điều thiêng liêng mà họ chưa đạt được trong đời: “Hãy nói về điều đó như một người thuộc về hạng môn đệ chứ không phải người có quyền bính, sau khi hạ mình xuống và tự cho mình nhỏ bé hơn bất kỳ ai đang lắng nghe”. Thưa những người cha, những người anh chị em đáng kính, chính với tinh thần này mà tôi dám nói về việc phục vụ với quý vị, những người đang sống phục vụ từng ngày.
Tôi nhớ đến một nhận xét mà Đức Hồng Y Franjo Šeper, Tổng trưởng Bộ Đức tin, đã từng mỉm cười nói với chúng tôi là các thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế: “Các nhà thần học chưa viết xong điều gì mà các bạn đã ghi ngay tên và họ của mình trên đó. Chúng tôi ở Giáo triều phải làm mọi thứ một cách ẩn danh”. Điều này gần gũi hơn với bản chất của việc phụng vụ nêu trong Phúc Âm và đó là lý do để tôi ngưỡng mộ và biết ơn nhiều tôi tớ vô danh của Giáo hội đang làm việc trong Giáo triều Rôma, trong các Tòa Giám mục và các Tòa sứ thần.
Nhưng hãy trở lại chủ đề của chúng ta. Học thuyết về các đặc sủng hoàn toàn hướng đến việc phục vụ; sự phục vụ xuất hiện như linh hồn và mục đích của mọi đặc sủng. Thánh Phaolô khẳng định rằng mọi “sự biểu lộ cụ thể của Thần Khí” đều được ban cho “vì thiện ích chung” (x. 1Cr 12: 7) và các đặc sủng được ban cho “để làm cho anh em thích hợp thực hiện công việc phục vụ” (diakonía) ( Ep 4: 12). Cả tông đồ Phêrô, khi khích lệ lòng hiếu khách, cũng viết: “Mỗi người hãy sống theo ân sủng (chárisma) đã nhận được, để phục vụ (diakonía) người khác” (1 Pt 4: 10). Hai điều – ân sủng và thừa tác vụ, ân sủng và sự phục vụ - xem ra luôn kết nối mật thiết với nhau. Giáo hội có ân sủng để phục vụ!
Tinh thần phục vụ
Chúng ta phải kiểm tra chặt chẽ ý nghĩa của “sự phục vụ kẻo nó chỉ là một từ ngữ đơn thuần trong cuộc sống của chúng ta. Tự nó, phục vụ không phải là một nhân đức; chúng ta không tìm thấy từ diakonia, hay phục vụ trong danh sách các nhân đức hay trong các hoa trái của Chúa Thánh Thần, như Tân Ước định nghĩa về những điều này (Gl 5:22). Thực ra, từ phục vụ có được nhắc đến khi nói về phục vụ cho tội lỗi (xem Rm 6:16) hoặc cho các ngẫu tượng (x. 1Cr 6: 9) chắc chắn là những điều không tốt rồi. Phục vụ tự nó là trung lập: nó chỉ ra một cách sống hoặc một cách liên quan đến những người khác trong công việc của một người; phụ thuộc vào người khác. Nó thậm chí có thể là tiêu cực nếu được thực hiện dưới sự ràng buộc (chế độ nô lệ), hoặc đơn giản chỉ là vì tư lợi.
Sự phục vụ ngày nay được thảo luận nhiều: mọi thứ đều có sự phục vụ: một người bán hàng phục vụ khách hàng của mình; bất cứ ai làm việc được cho là đang phục vụ. Rõ ràng là Phúc Âm nói về một loại phục vụ rất khác, ngay cả khi nó không nhất thiết phải loại trừ hoặc loại bỏ sự phục vụ theo nghĩa thế gian. Sự khác biệt nằm ở lý do của sự phục vụ và ở thái độ bên trong mà nó được thực hiện.
Chúng ta hãy đọc một lần nữa tường thuật về việc rửa chân để xem Chúa Giêsu đã làm điều đó với tinh thần nào và điều gì đã thúc đẩy Ngài làm điều đó: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” ( Ga 13: 1). Phục vụ không phải là một nhân đức nhưng nó bắt nguồn từ nhân đức, đặc biệt là từ lòng bác ái; thực tế, nó là cách diễn đạt lớn nhất của điều răn mới. Sự phục vụ là biểu hiện của tình yêu vị tha, nghĩa là một tình yêu “không đòi hỏi quyền lợi của mình” (x. 1Cr 13: 5), mà dựa vào lợi ích của người khác; nó không bao gồm việc tìm kiếm cho bản thân mà là sự cho đi. Tất cả đều nói lên rằng, tham gia và bắt chước cách hành động của Thiên Chúa, Đấng, vì Ngài là “Thiện hảo, tất cả là Thiện hảo và là tuyệt đỉnh của Thiện hảo,” không thể không yêu thương và giúp đỡ chúng ta một cách nhưng không và vô vị lợi.
Đây là lý do tại sao không giống như thế gian, việc phục vụ được nêu trong Phúc Âm không được khuyến khích cho những người thấp kém, và người nghèo, nhưng cho những người có nhiều, những người quyền cao chức trọng, những người giàu có. Ai được cho nhiều, sẽ được đòi hỏi nhiều ở những nơi cần đến sự phục vụ (xem Lc 12:48). Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói rằng trong Hội Thánh của Ngài, người lãnh đạo phải trở thành người phục vụ (Lc 22:26) và là người trước tiên phải trở thành nô lệ của mọi người (Mc 10:44). Ceslas Spicq, Giáo sư về Tân Ước của tôi ở Fribourg, từng nói rằng việc rửa chân là “bí tích của thẩm quyền Kitô”.
Bên cạnh tính nhưng không, sự phục vụ là sự thể hiện một khía cạnh khác của tình yêu Thiên Chúa: đó là sự khiêm tốn. Những lời Chúa Giêsu nói, “Anh em cũng phải rửa chân cho nhau,” có nghĩa là: anh em phải cung cấp cho nhau sự phục vụ của lòng bác ái khiêm nhường. Bác ái và khiêm nhường cùng nhau tạo nên sự phục vụ Phúc âm. Chúa Giêsu đã từng nói: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11:29). Chúa Giêsu đã làm gì để gọi mình là “khiêm nhường”? Phải chăng Ngài đã nghĩ thấp về mình hoặc nói một cách khiêm tốn về bản thân? Thưa, không. Ngài đã làm hoàn toàn ngược lại! Trong khi thực sự rửa chân, Ngài tự xưng mình là “Thầy và là Chúa” (xem Ga 13:13).
Như thế, Ngài đã làm gì để tự gọi mình là “khiêm tốn”? Ngài tự hạ mình xuống; Ngài từ trời xuống để phục vụ! Và từ lúc nhập thể, Ngài tiếp tục hạ mình quỳ xuống để rửa chân cho các môn đệ. Hẳn các thiên thần đã phải rùng mình biết bao khi thấy Con Thiên Chúa hạ mình đến như vậy, Đấng mà các thiên thần thậm chí không dám nhìn (x. 1Pr 1:12). Tạo hóa quỳ gối trước các sinh vật của mình! Thánh Bernard thường nói với chính mình: “Hỡi tro tàn kiêu hãnh, hãy đỏ mặt thẹn thùng. Chúa hạ mình xuống và ngươi tự tôn mình lên!”. Khi khiêm nhường được nhìn nhận như là hạ mình để phục vụ, thì nó thực sự là một cách thức vương giả để giống Chúa và noi gương Thánh Thể trong đời sống của chúng ta.
Sự phân định tinh thần
Kết quả của suy tư này phải là một sự can đảm kiểm tra cuộc sống của chúng ta (thói quen, quan điểm, lịch trình, việc phân phối và sử dụng thời gian của chúng ta) để xem nó có thực sự là một công việc phục vụ hay không và tình yêu cùng sự khiêm tốn có phải là một phần của nó hay không. Điều quan trọng cần biết là liệu chúng ta có đang phục vụ anh chị em của mình, hay thay vào đó, họ đang phục vụ mục đích của chúng ta. Chúng ta khiến người khác phục vụ mục đích của mình hoặc chúng ta lợi dụng họ, có thể ngay cả khi chúng ta đang làm hết sức mình cho họ, nếu chúng ta không quan tâm và theo một cách nào đó, đang tìm kiếm sự chấp thuận, tán thưởng hoặc sự hài lòng của việc có lương tâm trong sạch, hay được là ân nhân của họ. Về điểm này, các yêu cầu của Phúc Âm hết sức triệt để: “Đừng để tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6: 3). Tất cả những gì chúng ta làm “để được người khác chú ý” đều bị mất. “Chúa Kitô đã không làm hài lòng chính mình!” (Rm 15: 3): đây là quy tắc phục vụ.
Để có “sự phân định tinh thần” hoặc phân định ý định của chúng ta trong việc phục vụ, chúng ta nên biết những gì chúng ta sẵn sàng làm và những gì chúng ta cố gắng hết sức để trốn tránh. Chúng ta nên xem liệu trái tim của chúng ta có sẵn sàng từ bỏ một sự phục vụ cao quý, mang lại thế giá, nếu được yêu cầu, để thi hành một sự phục vụ khiêm tốn không được đánh giá cao hay không. Sự phục vụ chắc chắn nhất mà chúng ta có thể cung cấp là sự phục vụ được che giấu khỏi con mắt của tất cả mọi người, ngoại trừ Cha, Đấng nhìn thấu trái tim thầm kín của chúng ta. Chúa Giêsu đã nâng việc rửa chân, một trong những hành động khiêm tốn nhất vào thời của Ngài, thường được thực hiện bởi những người nô lệ, thành một biểu tượng phục vụ. Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta: “Chớ kiêu căng, nhưng hãy kết giao với kẻ hèn mọn” (Rm 12:16).
Đối lập với tinh thần phục vụ là mong muốn độc đoán, thói quen thực thi ý chí, quan điểm và đường lối của chúng ta đối với người khác. Nói một cách dễ hiểu, là chủ nghĩa độc tài. Thông thường, một người theo chủ nghĩa chuyên chế thậm chí không nhận ra những đau khổ mà anh ta gây ra và gần như ngạc nhiên tại sao mức độ “quan tâm” và nỗ lực của anh ta lại bị đánh giá thấp. Anh ta thậm chí còn coi mình là nạn nhân. Chúa Giêsu bảo các môn đệ hãy giống như những “cừu non giữa bầy sói”, nhưng một người như thế giống như sói giữa bầy cừu non. Phần lớn những đau khổ mà các gia đình và cộng đồng thường phải gánh chịu là do sự hiện diện của một kẻ độc đoán và chuyên quyền, kẻ chà đạp lên người khác bằng những đôi giầy đinh, và với lý do “phục vụ” người khác, nhưng thực sự là lợi dụng họ.
“Kẻ độc tài đó” cũng có thể là chúng ta! Nếu có chút nghi ngờ về điều này, chúng ta nên chân thành hỏi ý kiến những người mà chúng ta đang sống cùng và cho họ cơ hội để bày tỏ bản thân một cách thẳng thắn. Nếu cách cư xử của chúng ta gây khó khăn cho cuộc sống của ai đó, chúng ta nên khiêm tốn chấp nhận thực tế và suy ngẫm về sự phục vụ của mình.
Một chuyện nữa là quá gắn bó với thói quen và sự thoải mái của chúng ta cũng đi ngược lại với tinh thần phục vụ - một tinh thần buông thả, như nó đã từng xảy ra. Không thể nghiêm túc phục vụ người khác nếu chúng ta chỉ có ý định làm hài lòng bản thân, thần tượng hóa mình từ thời gian nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, và lịch trình của chúng ta. Quy tắc phục vụ phải luôn giống nhau: “Chúa Kitô đã không làm hài lòng chính mình.”
Chúng ta đã thấy rằng phục vụ là đức tính tốt của những người phụ trách. Chúa Giêsu đã để lại điều đó như một kho báu cho các mục tử của Giáo hội Ngài. Chúng ta đã thấy rằng tất cả các đặc sủng được ban cho nhằm mục đích phục vụ, nhưng đặc biệt là đặc sủng của “các mục tử và thầy dạy” (x. Ep 4:11), đặc sủng của quyền bính. Giáo hội có “đặc sủng” để phục vụ và cũng có “thừa tác vụ” để phục vụ!
Sự phục vụ của Thánh Linh
Nếu đối với mọi Kitô hữu, phục vụ có nghĩa là “sống không còn cho riêng mình” (x. 2Cr 5:15), thì đối với các mục tử, phục vụ có nghĩa là: “không lo cho chính mình”: “Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao?” (Êdêkien 34: 2). Đối với con người, không có gì có vẻ tự nhiên và chính đáng hơn là bất kỳ ai là người thống lĩnh (dominus) thì phải “thống trị”, phải hành động như chúa tể. Nhưng đây không phải là con đường “cho các môn đệ của Chúa Giêsu; ai là đầu thì phải phục vụ. Thánh Phaolô viết: “Không phải là chúng tôi khống chế đức tin của anh em; trái lại, chúng tôi góp phần tạo niềm vui cho anh em” (2Cr 1:24).
Tông đồ Phêrô cũng khích lệ điều tương tự với các mục tử: “Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.” (xem 1 Pr 5: 3). Trong mục vụ, không dễ gì tránh được tâm lý coi mình là chủ tể của đức tin, vốn đã trở thành một phần của khái niệm quyền bính từ rất sớm. Trong một trong những tài liệu cổ xưa nhất về thẩm quyền giám mục (Syriac Didascalia), chúng ta thấy ý tưởng rằng một giám mục giống như một vị quân vương, trong đó Giáo hội không thể thực hiện bất cứ điều gì nếu không có sự đồng ý của ngài.
Trong những khía cạnh liên quan đến các mục tử và trong phạm vi họ là mục tử, thì điểm này thường là yếu tố quyết định trong việc hoán cải. Những lời Chúa Giêsu thốt ra sau khi rửa chân thật mạnh mẽ và đáng buồn biết bao: “Thầy là Chúa và là Thầy của anh em... !” “Đức Giêsu không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” (Pl 2: 6), nghĩa là Ngài không sợ làm ảnh hưởng đến phẩm giá Thiên Chúa của mình, nuôi dưỡng sự thiếu tôn trọng của mọi người bằng cách coi thường những đặc quyền và tỏ ra như một trong số chúng ta. Chúa Giêsu đã sống một cuộc sống đơn giản; sự đơn giản luôn là sự khởi đầu và là dấu hiệu của sự trở lại thực sự với phúc âm. Chúng ta phải bắt chước cách hành động của Thiên Chúa. Tertullian viết, không có gì miêu tả rõ hơn cách thức hành động của Thiên Chúa cho bằng sự tương phản giữa một bên là sự đơn sơ của những cách thức và phương tiện mà Ngài làm việc và một bên là sự huy hoàng của những kết quả tinh thần nhận được.
Thế giới cần một màn trình diễn tuyệt vời để hành động và gây ấn tượng, nhưng Chúa thì không. Có một thời, phẩm giá của các giám mục được nhìn thấy trong phù hiệu, tước hiệu, lâu đài, quân đội. Có thể nói, họ là hoàng tử-giám mục, và đôi khi còn hơn cả giám mục. Hôm nay có vẻ như là một thời điểm vàng để Giáo hội so sánh. Tôi biết một vị giám mục cách đây nhiều năm, người đã thấy tự nhiên khi trải qua vài giờ trong nhà của một người già, giúp họ mặc quần áo và ăn uống; ngài đã rửa chân cho họ theo đúng nghĩa đen. Cá nhân tôi đã nhận được những ví dụ thú vị về sự đơn giản trong cuộc sống của tôi từ các giám mục.
Tuy nhiên, điều cần thiết là duy trì một cảm thức liên quan đến tự do được nêu trong Phúc Âm về điểm này. Sự đơn giản đòi hỏi chúng ta không đặt mình lên trên người khác nhưng cũng không nên cố chấp luôn đặt mình dưới họ để bằng cách nào đó giữ khoảng cách, nhưng vấn đề là, trong những công việc của thói quen thông thường, chúng ta chấp nhận trở nên giống người khác. Manzoni đã đưa ra một nhận xét sắc bén khi ông nói rằng có những người có tất cả sự khiêm tốn cần thiết khi đặt mình dưới người khác nhưng không làm được như thế khi đặt mình ngang hàng với họ. Đôi khi, sự phục vụ tốt nhất không phải là phục vụ mà là chấp nhận được phục vụ, giống như Chúa Giêsu, Đấng vào đúng thời điểm, biết cách ngồi vào bàn và để người khác rửa chân (xem Lc 7:38) và là Đấng sẵn lòng chấp nhận những điều dành cho Ngài trong cuộc hành trình bởi những người phụ nữ rộng lượng và yêu thương (Lc 8: 2-3).
Khi quan tâm đến việc phục vụ mục vụ, hoặc các mục tử, chúng ta không được quên rằng việc phục vụ anh em, dù quan trọng và thánh thiện đến đâu, không phải là điều đầu tiên hay thiết yếu; sự phục vụ Thiên Chúa phải được đặt lên hàng đầu. Trước hết, Chúa Giêsu là “Tôi tớ của Thiên Chúa và sau đó là tôi tớ của nhân loại. Ngài thậm chí còn nhắc nhở cha mẹ mình về điều này khi Ngài nói: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:49). Ngài không bao giờ ngần ngại đánh lừa đám đông tụ tập để nghe Ngài và được chữa lành bệnh tật khi Ngài bất ngờ rút vào đồng vắng để cầu nguyện (xem Lc 5:16).
Ngày nay, ngay cả sự phục vụ theo tinh thần Tin Mừng cũng đang bị đe dọa bởi nguy cơ thế tục hóa. Tất cả đều có thể dễ dàng được coi là đương nhiên rằng tất cả sự phục vụ cho nhân loại đều là sự phục vụ Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói đến một sự phục vụ Thần Khí (diakonia Pneumatos) (2Cr 3: 8), mà các thừa tác viên của Tân Ước được tiền định. Nơi các mục tử, tinh thần phục vụ phải được thể hiện trong việc phục vụ Thần Khí!
Những người, giống như các linh mục, được kêu gọi bởi ơn gọi phục vụ “thiêng liêng”, không phục vụ anh em của họ bằng cách làm mọi việc cho họ và sau đó bỏ qua điều duy nhất mà anh em mong đợi chính đáng nơi họ và là điều mà chỉ có họ mới có thể làm được. Có lời chép rằng một linh mục “được bổ nhiệm để thay mặt mọi người trong mối quan hệ với Thiên Chúa” (Dt 5: 1). Khi vấn đề này lần đầu tiên nảy sinh trong Hội Thánh, Thánh Phêrô đã giải quyết vấn đề đó như thế này: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải… chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6: 2-4).
Trên thực tế, có những mục tử đã lại quay sang phục vụ bàn ăn. Họ bận rộn với đủ thứ vấn đề, cho dù đó là vấn đề tiền bạc, quản lý hay thậm chí là nông nghiệp, xuất hiện trong cộng đồng của họ (ngay cả khi những điều này có thể dễ dàng được quản lý bởi người khác), và họ bỏ bê thừa tác vụ thực sự của mình, là điều không thể ủy thác cho ai. Thừa tác vụ Lời Chúa đòi hỏi nhiều giờ đọc, nghiên cứu và cầu nguyện.
Ngay sau khi giải thích cho các tông đồ về ý nghĩa của việc rửa chân, Chúa Giêsu đã nói với các ông: “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!” (Ga 13:17). Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc, nếu chúng ta không hài lòng với việc chỉ biết những điều này mà thôi - cụ thể là chúng ta biết Bí tích Thánh Thể thúc đẩy chúng ta phục vụ và chia sẻ mà thôi thì chưa đủ, nhưng chúng ta sẽ được chúc phúc nếu chúng ta đưa những điều ấy vào thực hành, có thể bắt đầu từ hôm nay. Bí tích Thánh Thể không chỉ là một mầu nhiệm được thánh hiến, đón nhận và tôn thờ, mà còn là một mầu nhiệm cần được noi gương.
Tuy nhiên, trước khi kết luận, chúng ta phải nhớ lại một sự thật mà chúng ta đã nhấn mạnh trong mọi suy tư của mình về Bí tích Thánh Thể: đó là tác động của Chúa Thánh Thần! Hãy cẩn thận để đừng hạ giảm ân sủng thành nghĩa vụ! Chúng ta không chỉ nhận được mệnh lệnh phải rửa chân và phục vụ anh chị em của mình: chúng ta đã nhận được ân sủng để có thể làm như vậy. Thánh Phaolô nói: “Phục vụ là một đặc sủng và giống như mọi đặc sủng, đó là một biểu hiện đặc biệt của Thần Khí vì thiện ích chung”; Thánh Phêrô cho biết thêm: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác”. Ân sủng đi trước nghĩa vụ và làm cho nghĩa vụ đó có thể thực hiện được. Đây là “tin tốt lành” - Tin Mừng - theo đó Bí tích Thánh Thể là tưởng niệm an ủi hàng ngày.
Thưa Đức Thánh Cha, những người cha đáng kính, các anh chị em, cảm ơn quý vị đã kiên nhẫn lắng nghe, và xin gởi đến quý vị những lời chúc tốt đẹp nhất cho một Tuần Thánh thánh thiện và một Lễ Phục sinh Hạnh phúc!
1.Bernard of Clairvaux, Những lời ca ngợi Đức Trinh Nữ, I, 8.
2.Tertullian, Về Phép Rửa, 1.
3.A. Manzoni, The Betrothed, chương 38.
Source:Cantalamessa