Thánh Phanxicô trên ngai tòa thánh Phêrô

Trong một phong cách Tin Mừng đầy khiêu khích, Đức Phanxicô đã nói đến việc những kẻ khủng bố sử dụng một kiểu nói sặc mùi lên án và từ bi. Ngài gọi họ là “những người phạm tội đáng thương”. Ngài sử dụng kiểu nói này trong cuộc gặp gỡ với người tị nạn và thanh niên khuyết tật tại Nhà thờ Công Giáo Latinh ở Bethany vào ngày 24 tháng 5 năm 2014. Như một hình mờ (watermark), chúng ta tri nhận nơi người tội lỗi - trong trường hợp này là tên khủng bố - “đứa con hoang đàng” chứ không phải một dạng hóa thân của ma quỷ. Ngoài ra còn có một lời khẳng định thực sự độc đáo: ngăn chặn kẻ xâm lược bất nghĩa là một quyền đích thực của loài người, nhưng cũng có thứ “quyền của kẻ xâm lược”, nghĩa là quyền “được ngăn chặn khỏi làm hại”. Bằng cách này, ta thấy thực tại từ một viễn ảnh kép, bao gồm chứ không loại trừ kẻ thù và thiện ích lớn hơn của họ.

Tình yêu tiêu biểu của Kitô giáo không chỉ là tình yêu dành cho “người lân cận”, mà còn là tình yêu dành cho “kẻ thù” nữa. Khi ta tiến đến chỗ nhìn kẻ gây kinh hoàng bằng một hình thức lòng nhân (pietas) nào đó, điều chiến thắng một cách khó hiểu đối với con người, thậm chí còn “gây tai tiếng” là đàng khác, chính là sức mạnh mật thiết của Tin Mừng Chúa Kitô: tình yêu dành cho kẻ thù. Đây là chiến thắng của lòng thương xót.

Không có điều này, Tin Mừng sẽ có nguy cơ trở thành một bài diễn văn xây dựng nhưng chắc chắn không phải là một bài diễn văn cách mạng. Sự lựa chọn của Đức Phanxicô là sự lựa chọn của Chúa Kitô trước Người điều tra vĩ đại, như Dostoevsky trình bày cho chúng ta trong Anh Em Nhà Karamazov: một nụ hôn trên môi cho người công bố bản án tử hình cho anh ta; một nụ hôn không làm thay đổi suy nghĩ của anh ấy, nhưng làm cho đôi môi anh ấy run rẩy và “đốt cháy trái tim”.

Đức Giáo Hoàng đưa ra một phản kháng mạnh mẽ đối với lòng say mê coi Đạo Công Giáo như một sự bảo đảm chính trị, “đế quốc cuối cùng”, người thừa kế các vết tích huy hoàng ngày cũ, cột trụ kháng cự lại suy tàn trước cuộc khủng hoảng lãnh đạo hoàn cầu ở thế giới phương Tây. Nói một cách đơn giản, ngài đang loại bỏ Kitô giáo khỏi cơn cám dỗ cứ vẫn muốn làm người thừa kế của Đế quốc La Mã, một thừa kế pha trộn giữa quyền lực (potestas) chính trị và thẩm quyền (auctoritas) tinh thần như chúng ta đã đề cập trên đây. Ngài tước đi sức mạnh tâm linh khỏi áo quần áo trần thế, thứ áo giáp sờn rách và rỉ sét. Chiếc áo dài trắng của ngài - không có huy hiệu - đưa Kitô giáo trở lại với Chúa Kitô. Ngài không còn mặc màu đỏ, màu, theo truyền thống, có tính đế quốc và nói lên sự mô phỏng đế quốc (imitatio imperii) của Giám mục Rôma, trong đó Hiến pháp của Constantinô (Constitutum Constantini) là lời biện minh và chế tài hợp pháp.

Chúng ta đừng tự đánh lừa chính mình: sự đan xen giữa linh mục chế (sacerdotium) và đế chế (imperium) không dễ gì tháo rời được. Chúng ta thậm chí có thể không biết hậu quả của diễn trình này sẽ là gì nữa. Các điều kiện và khả thể của nó phải được minh xác. Điều chắc chắn là Đức Giáo Hoàng sẽ không còn trao vương miện cho bất cứ vị vua nào làm người bảo vệ đức tin (defensor fidei) nữa. Vâng, ngài là một nhà lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng thế giới, nhưng ngài cũng là một nhà lãnh đạo có quyền lực mềm, có khả năng đề nghị một viễn kiến về thế giới có thể có một tương lai.

Theo nghĩa này, Thánh Phêrô là Thánh Phanxicô. Đối với một số người, đây là một nghịch hợp (oxymoron), một tai tiếng, một trở ngại trong việc hiểu triều giáo hoàng này. Hào quang của Thánh Assisi, một Kitô hữu sống nghèo, trùng khớp với hào quang của vị Đại diện Chúa Kitô và khuôn mạo hoàng đế La Mã bị bỏ rơi mãi mãi. Nhưng điều này cũng tránh được nguy cơ đồng nhất với Don Quixote de la Mancha, người chiến đấu chống lại những cối xay gió thời ta. Và nó trốn tránh các linh hồn đẹp đẽ còn sót lại trong đàn.

Nếu có bất cứ điều gì, thì có lẽ phải nghĩ tới Dante, người ở mục De Monarchia (Về Chế độ Quân chủ), vốn liên kết thẩm quyền tinh thần của Đức Giáo Hoàng trực tiếp với tình phụ tử (Paternitas), tức lòng quan tâm của người cha. Massimo Cacciari bình luận chính về vấn đề này: “một ‘tính tối thượng (primacy) được phát biểu trong khả năng trở nên khiêm nhường, nghèo nàn và truyền giáo của Giáo hội. Điều này có nghĩa phải tỏ ra trần trụi, bất lực và bị đóng đinh đối với thế giới. Tắt một lời: Đức Phanxicô là sự cứu rỗi của Giáo hội. Và chỉ bằng việc nêu cao thập giá của Đức Phanxicô, Giáo hội mới có thể bảo vệ được tình phụ tử của mình đối với quyền lực chính trị” [12].

Chỉ có một Giáo hội, bằng cách công khai tuyên xưng rằng Kinh Thành Thiên Chúa trong hành động không bác bỏ bất cứ thỏa hiệp nào trong việc quản lý quyền lực chính trị mới có thể được lắng nghe và có giá trị trên thế giới. Theo nghĩa này, Paul Elie đúng trong bài báo trên tờ New York Times của ông, “Đức Phanxicô, người chống Người Hùng”. Ông viết: “Thời đại của Người Hùng đang ở gần kề: Tập Cẩn Bình ở Trung Quốc, Vladimir Putin ở Nga, Viktor Orban ở Hungary và Donald Trump ở Hoa Kỳ đều coi thường chính sách kiểm soát và cân bằng (checks and balances), báo chí độc lập và các lực lượng khác có thể chống lại một trưởng hành pháp tự mình quyết định. Trong những trường hợp này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xuất hiện như một người chống Người Hùng một cách mạnh mẽ. Sự lựa chọn danh hiệu của ngài gợi nhớ tới Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh bảo trợ khiêm nhường của người nghèo [13]. Tông huấn của ngài, Gaudete et Exsultate, được công bố đúng năm năm sau khi ngài được bầu, đã tập trung vào sự thánh thiện và đối với Đức Giáo Hoàng là trái tim hành động “cải cách” Giáo hội của ngài, một cuộc cải cách không thể bị giản lược vào các quyết định có tính tổ chức về Giáo Triều.

Đức Phanxicô muốn trả lại cho Thiên Chúa quyền lực thực sự của ngài, đó là việc tích nhập. “Tích nhập” (integrating) nghĩa là “lồng các dị biệt của các thời đại, quốc gia, phong thái, viễn kiến, vào diễn trình xây dựng”. Đức Giáo Hoàng nói rõ ở Hàn Quốc với các giám mục châu Á rằng bản sắc không chỉ được tạo thành từ các dữ kiện cần được bảo tồn, cũng không phải là quá khứ cần được khư khư bảo tồn [14]. Theo Đức Giáo Hoàng, thời của bản sắc không phải là quá khứ, một điều vốn tạo ra “những cám dỗ về bản sắc”, mà là tương lai. Bản sắc không chỉ tiết lộ việc chúng ta là ai, mà trên hết việc chúng ta hy vọng những gì. Bản sắc không được ban cho từ việc bạn là ai, mà từ việc bạn hy vọng điều gì.

Và điều đó khai triển thành một viễn kiến về Giáo hội đặt căn bản trên hy vọng và tương lai cánh chung, vốn có tính cực kỳ trần thế. Đức Phanxicô đã nhắc nhở các giám mục của Hợp chúng quốc Mỹ Châu: chúng ta phải cẩn trọng đừng sa vào cơn cám dỗ muốn trao đổi “quyền lực của sức mạnh bằng sức mạnh của sự vô quyền mà với nó Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta”. Đừng bao giờ biến “thánh giá thành ngọn cờ cho các cuộc đấu tranh của thế gian”.

Đức Bergoglio có ý định giải phóng các mục tử khỏi cảm giác lấy chiến tranh để bảo vệ một trật tự mà sự sụp đổ của nó sẽ dẫn đến ngày chung tận của Đạo Công Giáo và có lẽ của cả thế giới. Đức Giáo Hoàng không muốn có các giám mục “mất tinh thần”, như thể đang chịu đựng một loại “mặc cảm Masada”, trong đó, Giáo hội cảm thấy bị bao vây bởi một xã hội mà mình phải chiến đấu. Ngay việc bảo vệ điều gọi là “Phương tây Kitô giáo” trong thực tế là một sự đồi trụy về phương diện công cụ của nền đạo đức Kitô giáo. Trong một số trường hợp, họ thậm chí còn đi xa hơn nữa, đến mức biện minh cho các quyền lợi địa chính trị hoặc kinh tế bằng cách khoác cho chúng một giải trình cho rằng chúng bảo vệ các Kitô hữu bị bách hại.

Tính ưu việt của thẩm quyền tinh thần và sự kết liễu của ‘Kitô giáo’

Sau đó, Đức Phanxicô tỏ lộ niềm xác tín của ngài, niềm xác tín mà ngài đã hình thành một phần bằng cách đọc nhà thần học Dòng Tên Erich Przywara: chúng ta đang ở cuối kỷ nguyên Constantinô và cuộc thí nghiệm của Charlemagne. Kitô giáo, nghĩa là, diễn trình bắt đầu bởi Constantinô, trong đó có một mối liên hệ hữu cơ giữa văn hóa, chính trị, định chế và Giáo hội, đang sắp kết thúc. Przywara - nhiều lần được Đức Giáo Hoàng trích dẫn - đã xác tín rằng châu Âu được sinh ra và lớn lên trong mối liên hệ và đối lập với Sacrum Imperium (Đế quốc Thánh), vốn bắt nguồn từ cố gắng của Charlemagne muốn tổ chức phương Tây thành một quốc gia chuyên chế.

Tuy nhiên, sự kết liễu của Kitô giáo không có nghĩa là sự suy yếu của phương Tây, mà đúng hơn, nó mang trong chính nó một nguồn tài nguyên thần học có tính quyết định bởi vì sứ mệnh của Charlemagne đã chấm dứt. Chính Chúa Kitô tái lập công việc hoán cải. Bức tường đang sụp đổ, một bức tường, cho tới tận nay, gần như đã ngăn chặn Tin Mừng đến được những tầng tâm thức sâu nhất, xâm nhập vào thẳm sâu các linh hồn [15].

Sự kết liễu của chủ nghĩa Constantinô là “khả thể để Giáo hội đi lại các con đường truyền giáo do các Thánh Phanxicô Assisi, Ignaxiô Loyola và Têrêsa Lisieux khởi xướng, nhằm phá vỡ rào cản vốn ngăn cách người nghèo, là những người mà theo họ, Kitô giáo - trong cảnh ngộ thần học chính trị của nhiều hình thức Kitô giáo - luôn xuất hiện như một ý thức hệ chính trị và một bảo đảm để các giai cấp thống trị chiến thắng [16]. Cũng chính tầm nhìn này đã khiến Đức Giáo Hoàng yêu mến các Giáo hội ở “điểm không” (Zero point), nghĩa là các Giáo Hội có tỷ lệ Công Giáo rất thấp so với dân số của các quốc gia nơi họ hiện hữu. Nhưng họ là các hạt giống cho Giáo hội hoàn vũ. Do đó, địa dư của Tòa thánh - bao gồm địa dư của Hồng Y đoàn và địa dư các hành trình tông đồ - vốn là một địa dư mục vụ.

Như thế, có một sự khác biệt rõ ràng giữa sơ đồ chính trị thần học theo tinh thần đế quốc của di sản Constantinô, một sơ đồ muốn thiết lập Vương quốc thần trị ngay ở đây và ngay bây giờ, và sơ đồ thần học chính trị theo tinh thần Phanxicô, một sơ đồ có tính cánh chung, nghĩa là nhìn về tương lai và có ý hướng xoay chiều lịch sử hiện thời hướng về Vương quốc Thiên Chúa, vương quốc công lý và hòa bình. Trong sơ đồ đế quốc, thiên tính rõ ràng là một phóng chiếu lý tưởng của quyền lực cấu thành. Tầm nhìn này phát sinh ra ý thức hệ chinh phục. Tầm nhìn Phanxicô, trái lại, tạo ra diễn trình tích nhập.

Và điều này càng đúng hơn vào thời điểm hiện tại khi - trong một “vô trật tự” thế giới mới, vẫn còn khó giải mã – Đạo Công Giáo có thể sở đắc được một tính liên quan nào đó trong các vấn đề được hoàn cầu lưu tâm, như môi trường, di dân và người tị nạn và tôn trọng nhân quyền. Không hề có vấn đề cô lập Đức Phanxicô bằng một nhãn hiệu quá dễ dãi và hời hợt “Giáo hoàng miền Nam”, Giáo Hoàng của thế giới đang phát triển, đối lập với phương Tây bị thế tục hóa. Nhưng trái lại, đây là vấn đề phải hiểu rằng, chính việc hoàn cầu hóa Giáo hội đang thay đổi các vấn đề xác định ra tác động của Đạo Công Giáo trong phạm vi công cộng.

Vào ngày 9 tháng 5 năm 2016, trong một cuộc phỏng vấn với nhật báo Pháp La Croix, Đức Giáo Hoàng đã nói về Châu Âu: “Châu Âu, vâng, có nguồn gốc Kitô giáo. Kitô giáo có nhiệm vụ tưới tắm cho nó, nhưng trong tinh thần phục vụ như người rửa chân. Bổn phận của Kitô giáo đối với châu Âu là phục vụ”. Một lần nữa: “Sự đóng góp của Kitô giáo vào một nền văn hóa là sự đóng góp của Chúa Kitô bằng việc rửa chân, nghĩa là phục vụ và hồng ân sự sống” [17].

Và đây là thông điệp mạnh mẽ mà Đức Phanxicô đã gửi cho Giáo hội Ý ở Florence năm 2015 với một bài phát biểu dài để được lưu giữ và chia sẻ, chứ không phải để vào văn khố: “Chúng ta sẽ không thấy gì về sự viên mãn của Người nếu chúng ta không chấp nhận việc Thiên Chúa đã tự đổ mình ra. Và do đó, chúng ta sẽ không hiểu gì về chủ nghĩa nhân bản Kitô giáo và lời nói của chúng ta sẽ đẹp đẽ, có văn hóa, tinh tế, nhưng chúng sẽ không phải là lời lẽ của đức tin. Chúng sẽ là những từ ngữ vang vọng sự trống rỗng” [18].

Tính ưu việt của thẩm quyền tinh thần là tính ưu việt của lòng thương xót. Một lần nữa, Đức Phanxicô nói với các giám mục Ý: “Trước các tệ nạn hay vấn đề của Giáo hội, sẽ là điều vô ích khi tìm kiếm các giải pháp trong chủ nghĩa bảo thủ và cực đoan, trong việc khôi phục các tập quán và hình thức lỗi thời vốn thiếu cả khả năng có ý nghĩa về mặt văn hóa. Học thuyết Kitô giáo không phải là một hệ thống khép kín, không có khả năng nêu ra các câu hỏi, nghi ngờ, thắc mắc, nhưng sống động, có khả năng gây bồn chồn bối rối, có khả năng lên men. Nó có một khuôn mặt dẻo dai, một cơ thể chuyển động và phát triển, da thịt mềm mại: học thuyết Kitô giáo có tên là Giêsu Kitô”. Sức mạnh của Chúa Kitô bị đóng đinh - và do đó, quyền lực bị đóng đinh - là sức mạnh duy nhất có thể cứu thế giới.

Đức Bergoglio biết rằng “những người được bầu cử” nhưng trở thành “đảng phái” quả đã bước vào một mạng lưới phức tạp gồm các chiều kích tôn giáo, định chế và chính trị vốn làm họ mất đi cảm thức phục vụ phổ quát và đặt mình đối lập với những người ở đàng xa kia, với những người không thuộc về họ, với những người là “kẻ thù”. Là “đảng phái” luôn tạo ra kẻ thù: người ta phải thoát ra ngoài cơn cám dỗ này [19]. Mà các công thức chính trị cũng không thể phát xuất trực tiếp từ Tin Mừng. Mặt khác, Tin Mừng biện phân và phán xét hành động thế gian và các tiêu chuẩn của nó. Hai thí dụ: giản lược những người đàn ông, đàn bà và trẻ em đang chạy trốn thành thứ tư hữu bị mất vào lòng biển Địa Trung Hải không thể chấp nhận được như một biện pháp gây áp lực để thay đổi các thỏa ước quốc tế. Cũng thế, tại biên giới Mỹ-Mễ (Tây Cơ), không thể tách trẻ em khỏi cha mẹ chúng, vì đó là một hành động tàn ác vốn được coi là biện pháp ngăn chặn việc nhập cư bất hợp pháp.

Thách đố đối với ngày chung tận sau Trái bom và Bức tường: tình huynh đệ nhân bản

Khi kết thúc các suy tư của chúng ta, chúng ta có thể trở lại câu hỏi mà với nó, chúng ta đã bắt đầu. Có phải Đức Phanxicô công bố và tăng tốc việc kết liễu, bằng cách hứa hẹn một tân thế giới không tưởng, hay ngài đang duy trì với nhau các mảnh vỡ của một thế giới đang sụp đổ? Vào cuối hành trình của chúng ta, điều rõ ràng là tuyến đường của ngài không hoàn toàn tương ứng với cả hai giả thuyết. Vì quả có giả thuyết thứ ba.

Đức Phanxicô trình bày Giáo hội như một dấu chỉ mâu thuẫn trong một thế giới quen với sự thờ ơ. Ngài phản ứng đầu tiên và trước nhất bằng cách xin người ta cầu nguyện cho thế giới, và trước hết cho chính ngài. Và sau đó, ngài phản ứng bằng cách thực hiện một hành động sư phạm đối với con cái Thiên Chúa, những người chưa biết rằng họ là con cái và do đó là anh em với nhau. Ngài biết rằng sứ mệnh của Giáo hội thuộc về lãnh vực giáo dục, và do đó lãnh vực chờ đợi, kiên nhẫn.

Một thí dụ rõ ràng của hành động này là việc cùng ký kết với Ahmed el-Tayeb, Grand Imam của al-Ahzar, một “Văn kiện về tình huynh đệ nhân bản vì hòa bình thế giới và sống chung”, một biến cố diễn ra tại Abu Dhabi ngày 4 tháng 2 năm 2019. Chúng ta tin rằng phạm vi của biến cố đó và của Văn kiện đó vẫn chưa được hiểu rõ. Trong các trang của nó, có một trực giác có thể triệt tiêu các gia tốc chung tận trong các lập trường duy thánh chiến hay “tân thập tự chinh”, và, đồng thời, không giới hạn hành động trị liệu nhằm chỉ để vá víu, băng bó và dùng nạng để trì hoãn sự kết liễu không thể nào tránh khỏi. Những trang này - chúng không những được ký mà còn được viết chung bởi Đức Giáo Hoàng và Đại giáo sĩ - không phải là tù nhân của sự vỡ mộng, cũng không bị mất hút trong cuộc tìm kiếm không tưởng.

Trong bản văn đó, cách đọc thực tại cho thấy “bối cảnh hoàn cầu bị che phủ bởi sự bất trắc, vỡ mộng, sợ tương lai và bị kiểm soát bởi những lợi ích kinh tế thiển cận”. Hai nhà lãnh đạo phát biểu “nhân danh Thiên Chúa”, nhưng họ không trực tiếp đặt để các tiền đề thần học bất đối xứng. Thay vào đó, họ bắt đầu từ kinh nghiệm gặp gỡ và từ sự kiện này là, khởi từ niềm tin vào Thiên Chúa, họ đã chia sẻ nhiều lần “các niềm vui, nỗi buồn và các vấn đề của thế giới đương thời”. Đây là lời mở đầu: “Đức tin dẫn một tín hữu nhìn trong người kia một người anh chị em cần được hỗ trợ và yêu thương. Nhờ đức tin vào Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng vũ trụ, mọi tạo vật và toàn bộ loài người (bình đằng trong lòng thương xót của Người), các tín hữu được kêu gọi phát biểu tình huynh đệ nhân bản này bằng cách bảo vệ sáng thế và toàn bộ vũ trụ và hỗ trợ mọi người, nhất là những người nghèo nhất và những người thiếu thốn nhất”.

Văn kiện can đảm đối đầu với thách đố của căn bệnh tôn giáo, một căn bệnh biến sự thánh thiện thành sự phục vụ của hành động chính trị như một chính nghĩa thánh thiêng. Trong các hình thức cực đoan và hiểm độc của nó, căn bệnh này dường như đẩy những người theo nó đến một “sáng thế” mới đầy bạo lực. Bằng cách này, Văn kiện bác bỏ viễn kiến chung tận vốn phát sinh ra khủng bố như một công cụ để nhanh chóng thể hiện thánh ý Thiên Chúa, một việc được hiểu là hủy diệt. Thực thế, đây là cốt lõi thần học của chủ nghĩa khủng bố tôn giáo. Đức Phanxicô và ngài el-Tayeb cùng nhau vạch mặt các động lực đồi trụy của tầm nhìn này và dứt khoát loại bỏ đặc tính tôn giáo ra khỏi nó.

Sự công nhận tình huynh đệ có tính chiều dọc, dựa trên sự siêu việt và niềm tin vào Thiên Chúa. Đối với cả hai vị ký kết, con người một mình không tự cứu mình được, như thứ đạo đức học thế tục, lấy Khai sáng (enlightenment) làm căn bản, có tính cách triệt để và tư sản, vốn khẳng định. Tình huynh đệ không phải là một dữ kiện thuần túy xúc cảm hay tình cảm. Tuy rất quan trọng, nó vẫn không đơn giản là một mệnh lệnh “hãy yêu thương nhau”. Mà đúng hơn, nó là một thông điệp mạnh mẽ có cả giá trị chính trị. Không phải là trùng hợp tình cờ khi điều này trực tiếp dẫn đến việc suy tư về ý nghĩa của “quyền công dân”: chúng ta thẩy đều là anh chị em, và do đó, tất cả đều là công dân có quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau, mà dưới bóng của chúng, ai cũng được hưởng công lý. Việc nói tới “quyền công dân” đã đủ để xua đuổi cả bóng ma của một kết liễu tăng tốc và các giải pháp chính trị đã được đưa ra để tránh những điều tồi tệ nhất. Ý tưởng về “thiểu số” tự biến mất, mang theo nó các hạt giống của chủ nghĩa bộ lạc và thù địch, những chủ nghĩa chỉ nhìn nơi khuôn mặt người kia chiếc mặt nạ của kẻ thù.

Do đó, thông điệp mặc lấy tính liên quan hoàn cầu: trong một thời kỳ bị đánh dấu bởi những bức tường, lòng thù hận và nỗi sợ hãi do đó mà có, những từ ngữ này đã đảo ngược luận lý học thế tục về một cuộc xung đột nhất thiết phải có. Đức Giáo Hoàng đã phát biểu điều này một cách rõ ràng trong Thông điệp của ngài nhân Ngày Hòa bình Thế giới năm 2020: “Sợ hãi thường là nguồn gốc của xung đột”. “Không tin tưởng và sợ hãi làm tăng sự mong manh trong các mối liên hệ và nguy cơ bạo lực”. Người ta phải phá vỡ “luận lý học bệnh hoạn” của sợ hãi. Phương thức của Đức Phanxicô lật nhào các nền thần học chính trị chung tận đang tràn lan trong cả thế giới Hồi giáo lẫn thế giới Kitô giáo. Nhưng chưa hết. Không phải ngẫu nhiên mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã trích dẫn Văn kiện Abu Dhabi bốn lần trong chuyến viếng thăm Thái Lan và Nhật Bản. Ngài đã trình bầy nó với Đức Tăng Thống Phật giáo ở Bangkok, và trích dẫn nó ở Hiroshima, nơi quả bom nguyên tử được thả xuống nhân loại với một năng lượng hủy diệt chung tận của nó. Và đã có nhiều tiếng vang hòa mạnh mẽ đối với Văn kiện từ các thế giới Phật giáo, Ấn Độ giáo và đạo Sikh.

* * *

Chúng ta đã mở đầu với Bức tường Bálinh và kết thúc với trái Bom Hiroshima. Hướng phải đi để tránh vực thẳm của ngày chung tận đã được phác họa. Nền tảng mọi sự nằm trong một câu của Văn kiện Abu Dhabi: “Đức tin dẫn dắt tín hữu nhìn thấy nơi người khác một người anh em cần được hỗ trợ và yêu thương”. Tình huynh đệ là thách đố đích thực đối với ngày chung tận.

Ghi chú

[1]. Xem G. Salvini, “Raising the walls among the people” in Civ. Catt. En. April 2018, https://www.laciviltacattolica.com/more-walls-between-people
[2]. Đức Phanxicô, “Our Little Path: Pope Francis meets the Jesuits in Thailand and Japan” https://www.laciviltacattolica.com/our-little-path-pope-francis-with-the-jesuits-in-thailand-and-japan
[3]. Lần đầu tiên Đức Phanxicô dùng kiểu nói “bệnh viện dã chiến” để nói về Giáo Hội là trong cuộc phỏng vấn ngài ban cho tôi lúc bắt đầu triều Giáo Hoàng của ngài: A. Spadaro, “Intervista a Papa Francesco” in Civ. Catt. 2013 III 449-477. Về thế giới quan của Đức Phanxicô, xem A. Spadaro, Il nuovo mondo di Francesco. Come il Vaticano sta cambiando la politica globale, Venice, Marsilio, 2018.
[4]. Xem M. Cacciari, Il potere che frena. Saggio di teologia politica, Milan, Adelphi, 2013.
[5]. Đây là chủ đề của các tác giả như Rod Dreher mà chúng tôi đã thảo luận trong A. Lind, “The ‘Benedict Option’: What is the role for Christians in society today?” in Civ. Catt. En. 2018, https://www.laciviltacattolica.com/the-benedict-option
[6]. “Pope Francis meets La Civiltà Cattolica on the occasion of the publication of issue 4000” https://www.laciviltacattolica.it/articolo/discourse-of-the-holy-father-francis-to-the-community-of-la-civilta-cattolica/
[7]. Xem Đức Phanxicô, “‘Our little path’…”, op. cit.
[8]. P. Ferrara, Il mondo di Francesco. Bergoglio e la politica internazionale, Cinisello Balsamo (Mi), San Paolo, 2016, 21.
[9]. Xem Đức Phanxicô, Diễn văn với các tham dự viên Hội Nghị Quốc Tế về Hòa Bình, Cairo, April 28, 2017.
[10]. “Pope Francis meets La Civiltà Cattolica on the occasion of the publication of issue 4000” op. cit.
[11]. Ibid.
[12]. Xem M. Cacciari, Il potere che frena… op. cit.
[13]. P. Elie, “Francis, the Anti-Strongman” trong The New York Times, March 24, 2018.
[14]. Xem Đức Phanxicô, Diễn văn với Các Giám Mục Á Châu, August 17, 2014.
[15]. Xem ibid., 55; G. Zamagni, “Tra Costantino e Hitler. L’Europa di Friedrich Heer” in Id., Fine dell’era costantiniana. Retrospettiva genealogica di un concetto critico, Bologna, il Mulino, 2012, 55-57.
[16]. F. Mandreoli – J. L. Narvaja, “Introduzione” in E. Przywara, L’idea d’Europa. La «crisi» di ogni politica «cristiana», Trapani, Il Pozzo di Giacobbe, 2013, 55.
[17]. G. Goubert – S. Maillard, “Entretien exclusif avec le pape François” in La Croix, May 17, 2016.
[18]. Đức Phanxicô, Diễn từ tại Buổi Gặp gỡ Các Đại diện của Hội nghị Toàn quốc lần Thứ 5 của Giáo Hội Ý, Florence, November 10, 2015.
[19]. Xem E. Przywara, L’Idea d’Europa…, op. cit., 3.